Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh lãnh đạo chủ chốt diện ban thường vụ tỉnh uỷ phú thọ quản lý trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.49 KB, 119 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta hôm nay đã và đang chuyển mạnh sang thời kỳ phát triển
mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trải qua 25 năm đổi mới
toàn diện đất nước, thời kỳ này đã và đang xuất hiện những thời cơ và vận hội,
đồng thời cũng đặt ra những khó khăn thử thách đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục
đổi mới toàn diện, trong đó việc đẩy mạnh thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng nói chung và trong công tác cán bộ nói riêng là vấn đề then chốt
để từng bước xây dựng được đội ngũ cán bộ mới, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ
của cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn
phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là cách mạng Việt Nam 80 năm qua đã
chứng minh cho thấy, cán bộ và công tác cán bộ có vai trò, vị trí đặc biệt quan
trọng. Nếu chúng ta luôn xây dựng được đội ngũ cán bộ ngang tầm và đồng bộ,
có cơ cấu hợp lý, có chính sách sử dụng nhân tài phù hợp, thì việc xây dựng
đường lối, chính sách sẽ đúng và bám sát vào yêu cầu thực tiễn, đồng thời
đường lối, chính sách đó sẽ được thực thi nghiêm túc và đi vào cuộc sống có
hiệu quả. V.I.Lênin đã khẳng định: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào
được giành quyền thống trị, nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và
lãnh đạo phong trào" [35, tr.473]1. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Cán bộ
là gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém" [ 27, tr.269,273]2. Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII) Đảng ta đã khẳng
định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng" [ T13, tr.66]3.

1



Để từng bước xây dựng được đội ngũ cán bộ ngang tầm với yêu cầu,
nhiệm vụ mới đòi hỏi hệ thống tổ chức đảng, các cấp uỷ đảng và người đứng
đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị phải nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí
của cán bộ và công tác cán bộ, đồng thời phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ trong các khâu của công tác cán bộ. Công tác cán
bộ là vấn đề con người, đánh giá, bố trí, sử dụng, đối xử, đãi ngộ cán bộ là vấn
đề phức tạp và tế nhị, có liên quan đến tâm lý, lợi ích, danh dự, tình cảm của con
người. Những quyết định về chủ trương, chính sách cán bộ và nhân sự phải do
tập thể cấp uỷ có thẩm quyền quyết định và cá nhân có trách nhiệm thực hiện
quyết định của tập thể. Trong tình hình hiện nay, việc nắm vững và thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ là khâu then chốt của công việc đổi mới
đội ngũ cán bộ, đổi mới cơ chế quản lý cán bộ và là điều kiện cần thiết để đảm
bảo cho công tác cán bộ đạt hiệu quả. Tình trạng thiếu dân chủ, hoặc dân chủ
hình thức đã làm cho việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ thiếu chính xác, thiếu
công bằng và đây cũng là một nguyên nhân làm cho cán bộ không thoải mái gây
thắc mắc, một bộ phận cán bộ có trình độ, năng lực cao nhưng bức xúc đã bỏ vị
trí công chức nhà nước ra các doanh nghiệp ngoài công tác, thậm chí một có nơi
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng ở
một số địa phương, một số ngành, không tạo được động lực cho đội ngũ cán bộ
phấn đấu phát triển. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận một cách nghiêm túc và
quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, đặc
biệt là khâu bổ nhiệm và giới thiệu các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong hệ thống chính trị ở từng cấp, từng ngành, nhằm tạo sự thống nhất cao để
thực hiện đồng bộ.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã thực sự quan tâm chăm lo
đến cán bộ, công tác cán bộ. Nhiều Nghị quyết chuyên đề quan trọng về công
tác cán bộ được ban hành, bên cạnh đó Trung ương đã cụ thể các quy chế, quy
định, quyết định để phân công, phân cấp, nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc
tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Những văn bản đã tạo cơ sở pháp lý
2



cho các cấp uỷ Đảng, cho những người có trách nhiệm làm công tác cán bộ thực
hiện đúng đắn hơn. Vì vậy, công tác cán bộ những năm qua đã có bước đổi mới,
Đảng ta đã từng bước xây dựng được một đội ngũ cán bộ có số lượng và cơ cấu
hợp lý, chất lượng ngày một nâng cao, đặc biệt đội ngũ cán bộ trẻ nhanh thích
ứng với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng mới.
Quán triệt đầy đủ những quan điểm, những nguyên tắc của Đảng về công
tác cán bộ, những năm qua Tỉnh uỷ Phú Thọ đã tập trung triển khai và thực hiện
có hiệu quả các nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng về công tác cán bộ.
Bám sát vào hệ thống văn bản của Trung ương, Ban Thường vụ tỉnh uỷ Phú Thọ
đã cụ thể hoá bằng hệ thống văn bản của Tỉnh uỷ làm cơ sở cho việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ nói chung, đặc biệt là khâu
bổ nhiệm và giới thiệu nhân sự chủ chốt cho các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội diện Tỉnh uỷ quản lý nói riêng.
Nhờ đó, Tỉnh uỷ đã khắc phục được một phần thiếu sót trước đây, coi công tác
cán bộ là công việc của một số người, của cơ quan tổ chức, tạo ra bước tiến đáng
kể trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Vì
vậy, công tác cán bộ thời gian qua của tỉnh Phú Thọ đã có bước đổi mới, từng
bước xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành cơ bản có chất lượng,
với số lượng và cơ cấu hợp lý, đặc biệt một đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo cơ
bản, có phẩm chất, năng lực tốt, nhanh thích ứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán
bộ của Tỉnh Phú Thọ vẫn còn một số hạn chế cần được nghiên cứu để đưa ra giải
pháp khắc phục như: Nhận thức của một bộ phận cấp ủy và người đứng đầu về
nguyên tắc tập trung dân chủ chưa đầy đủ và sâu sắc, nên khi thực hiện vào các
khâu trong công tác cán bộ chưa nhuần nhuyễn; công tác quán triệt để nâng cao
nhận thức về nguyên tắc tập trung dân chủ cho các cấp uỷ chưa thường xuyên và
còn hạn chế. Việc mở rộng dân chủ, công khai lấy ý kiến của cán bộ cấp dưới,
của tập thể, cá nhân cán bộ và các đoàn thể nhân dân trong quyết định nhân sự

cán bộ chưa trở thành nề nếp; chất lượng thực hiện các quy chế, quy trình bổ
3


nhiệm, giới thiệu cán bộ cho các chức danh chủ chốt diện tỉnh uỷ quản lý chưa
cao, chưa đồng đều. Nhận thức về tiêu chuẩn cán bộ chưa đồng nhất, chưa cụ
thể hoá được tiêu chí để đánh giá chất lượng và kết quả hoàn thành nhiệm vụ
của cán bộ. Cách đánh giá cán bộ của các cấp uỷ và các tổ chức đảng còn chung
chung, thiếu căn cứ xác đáng; không ít cấp uỷ, tổ chức đảng và người đứng đầu
nắm không chắc cán bộ nhưng chưa phát huy dân chủ và tiếp thư ý kiến của tập
thể, nhân dân, nên việc đánh giá cán bộ chưa sát, thậm chí thiếu khách quan,
hoặc có trường hợp thành kiến hẹp hòi, định kiến với những người trung thực
thẳng thắn, làm cho việc bố trí một số cán bộ không đúng người, đúng việc. Một
số bước trong quy trình xem xét, bổ nhiệm và giới thiệu nhân sự chủ chốt cho
các tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chưa
chặt chẽ và còn hình thức, có lúc, có nơi chưa thực hiện tốt quy trình dân chủ,
công khai minh bạch trong bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh
cán bộ chủ chốt. Điều đáng chú ý trong mấy nhiệm kỳ đại hội gần đây trong quá
trình làm công tác nhân sự, nhiều đồng chí trong dự kiến có số phiếu cao, nhưng
khi tiến hành đại hội chính thức, bầu ban chấp hành thì lại không trúng cử (kể cả
cán bộ chủ chốt), làm cho việc sắp xếp cán bộ sau đại hội gặp khó khăn; có
trường hợp tuy biết cán bộ chủ chốt cấp dưới không còn đủ tín nhiệm, nhưng khi
duyệt nhân sự lại không kiên quyết đưa ra, vẫn áp đặt giới thiệu định hướng đưa
vào nhân sự cấp uỷ khoá mới, nên khi bầu cử không được đại biểu, đảng viên
trong đại hội chấp nhận, làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng và giảm
sút lòng tin của cán bộ và nhân dân.
Xuất phát từ thực trạng công tác cán bộ nói chung và việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ nói riêng của Tỉnh uỷ Phú
Thọ những năm qua, xét thấy cần có một nghiên cứu toàn diện để đánh giá đúng
thực trạng, tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp nhằm thực hiện tốt nguyên

tắc tập trung dân chủ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt của Tỉnh Phú Thọ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với lý do trên, tác giả chọn đề tài “Thực
4


hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng
cử các chức danh lãnh đạo chủ chốt diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ
quản lý trong giai đoạn hiện nay” để làm luận văn Thạc sĩ. Đây là vấn đề nhạy
cảm cần thiết, phù hợp với nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng hiện nay và đáp
ứng yêu cầu thực tiễn đang đòi hỏi đổi mới công tác cán bộ ở tỉnh Phú Thọ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nguyên tắc tập trung dân chủ nói chung và thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong công tác cán bộ nói riêng là một vấn đề quan trọng trong
công tác lãnh đạo của Đảng. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn chú trọng xây
dựng các quy chế, quy định làm cơ sở cho việc thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ, đặc biệt là trong công tác cán bộ của Đảng, đồng thời đã ban
hành nhiều văn bản để phân cấp, phân quyền quản lý và đảm bảo cho việc thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử các
chức danh cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, một số nhà
nghiên cứu khoa học và các nhà hoạt động chính trị đã có những công trình
nghiên cứu làm rõ nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều góc độ khác nhau như:
- Đề tài cấp nhà nước KX.05: “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới”.
- PGS, TS Nguyễn Phú Trọng; PGS, TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên):
Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003.
- Nguyễn Phú Trọng: Phải chăng nguyên tắc tập trung dân chủ đã lối
thời? Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 1990.

- Nguyễn Văn An: Về các qui chế cán bộ, bổ nhiệm và phân cấp quản lý
cán bộ của Bộ Chính trị. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.
- Đậu Thế Biển: Vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ của V.I.
Lênin. Nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà Nội 1990.

5


- Phạm Văn Huỳnh: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng - nội dung,
những nhân tố tác động, khuyết điểm và kiến nghị. Tạp chí Nghiên cứu lý luận,
số 6- 1990.
- Trần Văn Trung: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều kiện
mới. Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2 - 1990.
- Nguyễn Văn Tới: Lại bàn về tập trung dân chủ. Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, số 4 - 1991.
- Nguyễn Phú Trọng: Để đảm bảo dân chủ trong Đảng. Tạp chí Cộng
sản, số 11 - 1990.
- Thái Ninh: Sức mạnh của một nguyên tắc, Báo Nhân Dân, ngày 11-7-1990.
- Lê Huỳnh Thông: Tập trung dân chủ, mâu thuẫn và thống nhất, Báo
Nhân Dân, ngày 17-11-1989.
Trong những năm gần đây đã có nhiều luận văn thạc sĩ nghiên cứu về việc
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ ở các địa phương,
đơn vị như:
- Phạm Quang Thắng: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ
chức và hoạt động của các Đảng bộ quân đội hiện nay, Luận án phó tiến sĩ khoa
học lịch sử, Hà Nội, 1996.
- Lê Minh Cảnh: Công tác bổ nhiệm cán bộ diện Ban thường vụ Tỉnh uỷ
Thanh Hoá quản lý trong giai đoạn hiện nay. Luận văn Thạc sĩ khoa học chính
trị, Hà Nội, 2008.
- Trịnh Đình Châu: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ

nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ các huyện miền núi tỉnh Thanh
Hoá quản lý giai đoạn hiện nay. Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội,
2008.
- Đặng Tấn Công: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đánh giá
cán bộ diện Ban thường vụ Huyện uỷ Bắc Bình, Tỉnh Bình Thuận quản lý giai
đoạn hiện nay. Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2008.

6


Các công trình nghiên cứu trên đều đề cập đến công tác cán bộ nói chung
và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ nói riêng ở
những khía cạnh và cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu đến việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm và
giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh lãnh đạo chủ chốt diện Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý. Trong công trình đã được công bố có những nội dung
liên quan đến đề tài được tác giả luận văn tham khảo, có kế thừa và chọn lọc cho
phù hợp với thực tiễn của tỉnh Phú Thọ.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác cán bộ nói chung và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh lãnh đạo chủ
chốt diện tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý nói riêng; luận văn đề xuất phương hướng,
giải pháp góp phần thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm
và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh lãnh đạo chủ chốt diện Ban Thường
vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích đặc điểm, làm rõ quan niệm và nội dung nguyên tắc tập trung
dân chủ trong bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh lãnh đạo chủ

chốt diện Ban thường vụ tỉnh uỷ quản lý.
- Đánh giá khái quát thực trạng về những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm và giới
thiệu cán bộ ứng cử các chức danh lãnh đạo chủ chốt diện Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ Phú Thọ quản lý trong thời gian qua; rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho
việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.
- Xác định rõ phương hướng và những giải pháp chủ yếu để thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử

7


các chức danh lãnh đạo chủ chốt diện Ban thường vụ Tỉnh ủy Phú Thọ quản lý
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh lãnh đạo chủ
chốt diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Phú Thọ quản lý.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu phạm vi cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý về thực trạng từ năm 2005-2010, phương
hướng giải pháp giai đoạn 2010-2020. Luận văn chỉ đề cập đến việc bổ nhiệm và
giới thiệu cán bộ ứng cử các chức vụ lãnh đạo chủ chốt diện Ban thường vụ tỉnh
uỷ Phú Thọ quản lý trong hệ thống chính trị của tỉnh.
- Bổ nhiệm cán bộ bao gồm bổ nhiệm lần đầu, bổ nhiệm lại đối với các
chức danh được giao chức vụ theo quy trình bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử. Khi
được các tổ chức trong hệ thống chính trị bầu và trúng cử thì cấp có thẩm quyền
chuẩn y. Luận văn này tập trung nghiên cứu sâu về vấn đề bổ nhiệm và giới
thiệu ứng cử cán bộ lần đầu đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt

trong các cơ quan đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị
- xã hội thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguyên
tắc tập trung dân chủ nói chung và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác cán bộ nói riêng.
Qua thực tiễn hoạt động, lãnh đạo, xây dựng ở đảng bộ tỉnh Phú Thọ từ
năm 2005-2010.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

8


Dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
lịch sử và lô gích, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, cụ thể và trừu tượng, đồng
thời sử dụng phương pháp chuyên ngành, thống kê, tổng kết kinh nghiệm, công
tác chuyên gia.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận; đồng thời trên cơ sở thực tiễn
đánh giá trung thực, khách quan thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh chủ chốt
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý trong thời gian qua, chỉ ra được
các ưu điểm và hạn chế; đi sâu phân tích nguyên nhân những ưu điểm và hạn
chế đó; đề xuất giải pháp chủ yếu khả thi nhằm góp phần thực hiện tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ trong công tác bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các
chức danh chủ chốt diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý trong những
năm tới.
6.2. Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo để cấp uỷ, cơ quan tổ

chức cán bộ ở địa phương tham khảo áp dụng cho việc nâng cao chất lượng
công tác đào tạo – bồi dưỡng, bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức
danh lãnh đạo, quản lý các cấp trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

9


Chương 1
NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG BỔ NHIỆM
VÀ GIỚI THIỆU CÁN BỘ ỨNG CỬ CÁC CHỨC DANH CHỦ CHỐT
THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ PHÚ THỌ QUẢN LÝ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các chức danh cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ Phú Thọ quản lý
1.1.1. Đối tượng cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
Phú Thọ quản lý
Trước hết, để có quan niệm đúng về đối tượng cán bộ chủ chốt thuộc diện
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý ta phải đi từ khái niệm: “cán bộ”, “cán
bộ chủ chốt”, “cán bộ lãnh đạo chủ chốt”. Về vấn đề này, trong văn kiện, Nghị
quyết của đảng những năm đổi mới đất nước, đặc biệt là những năm gần đây khi
đề cập đến cán bộ và công tác cán bộ có nhấn mạnh đến cụm từ “Cán bộ lãnh
đạo chủ chốt”, “Cán bộ chủ chốt”, nhưng xung quanh vấn đề cán bộ, cán bộ lãnh
đạo chủ chốt diện từng cấp uỷ quản lý nói chung và cán bộ lãnh đạo chủ chốt
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý nói riêng cần phải được nghiên
cứu cơ bản hơn để làm sáng tỏ, nhằm phục vụ cho công tác cán bộ đạt hiệu quả.
Về khái niệm cán bộ, theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học
của nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008 thì cán bộ là “người làm việc trong cơ quan,
đoàn thể, đảm nhiệm một công tác lãnh đạo hoặc công tác quản lý, công tác

nghiệp vụ chuyên môn nhất định” [63, tr.142]4.
Trở lại với tư tưởng của các nhà kinh điển khi bàn về cán bộ, Lênin
khẳng định “Giai cấp vô sản thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua
chính đảng vô sản, còn chính đảng vô sản thực hiện sự lãnh đạo của mình trước
hết thông qua cán bộ lãnh đạo, của những nhóm ít nhiều có tính ổn định, gồm
những người có uy tín nhất, có ảnh hưởng nhất và người ta gọi đó là các lãnh tụ”
[4, tr.30]5. Cán bộ và cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những khái niệm đã được chủ
nghĩa Mác - Lênin đề cập rất sớm và đã xuất hiện ngay từ khi các nhà kinh điển
phát hiện vai trò sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. “Cán bộ”,
10


“Cán bộ lãnh đạo chủ chốt” hoặc “những nhà chính trị giai cấp”, “Những con
người vận dụng một lực lượng thực tiễn”… đều là cách gọi một bộ phận cán bộ
nòng cốt trong một lực lượng cách mạng. Một điểm rõ nét trong tư tưởng của
các nhà kinh điển đó là: Cán bộ gắn liền với giai cấp; là của giai cấp; vai trò của
cán bộ gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và giai cấp công nhân,
nhân dân lao động toàn thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ vĩ đại đã sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam,
người đã trọn đời chăm lo xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ của đảng, Nhà
nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân ta. Quan niệm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ rất rõ ràng, gần gũi và rễ hiểu: “Cán bộ là
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ
và thi hành. Đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [52,tr.269]6. Theo cách diễn đạt của
người, cán bộ dù ở cấp nào cũng đều có chức trách và nhiệm vụ quan trọng; cán
bộ là những người tạo nên sự kết nối, gắn bó, liên hệ giữa Đảng, Chính phủ với
dân chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân do đảng lãnh đạo, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở
đường lối, chủ trương, chính sách. Thiếu cán bộ hoặc đội ngũ cán bộ yếu kém,

không tổ chức được cho dân chúng nắm bắt được thực tiễn nên không xác định
được đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, để vận dụng phù hợp với yêu
cầu thực tiễn đặt ra.
Có thể nói rằng, một yêu cầu không thể thiếu được đối với đội ngũ cán bộ,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trước hết và tất yếu phải trung thành
với đảng và chính phủ; phải có đức, có tài; phải gần gũi với quần chúng; cán bộ
lãnh đạo chủ chốt phải có phương pháp, tác phong công tác tốt mới hoàn thành
nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó. Chủ tịch Hố Chí Minh thường răn dạy đội
ngũ cán bộ “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ” [24, tr.684]7… và mỗi cán
bộ, đảng viên của đảng “phải xứng đáng là người lãnh đạo, người thầy tớ thật
trung thành của nhân dân” [25, tr.510]8.

11


Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ không chỉ gắn liền với
hoạt động của một tổ chức, có vai trò quan trọng đối với một tổ chức nhất định
nào đó mà trên phạm vi tổng thể của cả quốc gia, đất nước, dân tộc, cán bộ còn
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ. Đội ngũ cán bộ có
liên quan mật thiết với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng. Về cán bộ,
tại điều 4, Chương I, Luật Cán bộ, công chức ban hành ngày 28 tháng 1 năm
2008 đã nêu rõ: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước”
Trong những năm qua, nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ của
đảng, nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, một số công trình nghiên cứu
khoa học đã tiếp tục nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ trong

hệ thống chính trị. Cuấn Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong hệ thống chính trị đổi mới của Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần xuân Sầm viết
“Người cán bộ lãnh đạo trước hết phải là người tiêu biểu cho lý tưởng cách
mạng, cho lẽ sống, là người có tri thức toàn diện và uyên thâm của thời đại”
[KX. 05-11, tr13]8 và “cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những cán bộ lãnh đạo toàn
diện, có trọng trách nặng nề nhất, có quyền thay mặt tập thể lãnh đạo giải quyết
các vấn đề và chịu trách nhiệm trước tập thể” [KX.05-11, tr139]9.
Như vậy, có thể hiểu định nghĩa “cán bộ và cán bộ lãnh đạo chủ chốt” với
nhiều cách và góc độ khác nhau. Tuy vậy, khi đề cập đến những vấn đề đối
tượng cán bộ chủ chốt thuộc diện quản lý của cấp uỷ trong hệ thống chính trị, tại
một địa phương cụ thể ở nước ta hiện nay, thì cán bộ lãnh đạo chủ chốt cần được
hiểu trên những tiêu chí chủ yếu sau:
Cán bộ là người làm việc trong một tổ chức nhất định; trực tiếp hoặc tham
gia gián tiếp vào hoạt động lãnh đạo trong phạm vi nhất định; có chức vụ hoặc
được cơ quan có thẩm quyền giao cho những quyền hạn nhất định. Cán bộ phải
12


được đào tạo, huấn luyện, có trình độ chuyên môn có thể hoàn thành các nhiệm
vụ được giao phó và phải được tổ chức quần chúng tín nhiệm.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là người làm công tác toàn diện, có trọng trách
nặng nề, trực tiếp tham gia vào quá trình xác định đường lối, chủ trương và tổ
chức thực hiện; thường xuyên có mối liên hệ với các tổ chức, cá nhân trong hoạt
động lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, cần xác định rõ đối tượng cán bộ và cán bộ lãnh
đạo chủ chốt ở từng cấp uỷ, từng ngành quản lý để có cơ sở cho việc thực hiện
công tác cán bộ đạt hiệu quả.
Căn cứ Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi
hành Điều lệ Đảng; Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 4-7-2007 của Bộ Chính trị
ban hành qui định về phân cấp quản lý cán bộ; Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW
ngày 26-9-2007 của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn thực hiện Qui định về

phân cấp quản lý cán bộ, Qui chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử.
Ban Thường vụ tỉnh uỷ Phú Thọ đã ban hành quyết định số 543-QĐ/TU ngày
28/12/2007, qui định về phân cấp quản lý cán bộ, trong đó có qui định cụ thể đối
tượng quản lý cán bộ cụ thể như sau:
cán bộ chủ chốt diện Ban Thường vụ tỉnh uỷ quản lý thuộc phạm vi
nghiên cứu của luận văn là:
- Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ; Uỷ viên Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh;
Phó chủ tịch HĐND và UBND tỉnh; Trưởng và Phó Đoàn đại biểu Quốc hội
Tỉnh; Cấp trưởng, phó các cơ quan thuộc khối đảng, đoàn thể tỉnh; Uỷ viên Uỷ
ban kiểm tra tỉnh uỷ; Chánh, Phó văn phòng HĐND và Đoàn Đại biểu Quốc hội
tỉnh, cấp trưởng, cấp phó các ban của HĐND tỉnh; cấp trưởng, cấp phó các cơ
quan thuộc UBND tỉnh; thường trực chuyên trách các ban chỉ đạo trực thuộc
tỉnh uỷ, UBND tỉnh; bí thư, các phó bí thư huyện, thành, thị uỷ, đảng uỷ trực
thuộc Tỉnh uỷ; chủ tịch, các phó chủ tịch HĐND và UBND các huyện, thành,
thị; chủ tịch và phó chủ tịch các hội Chính trị - xã hội tỉnh.
- Cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ tham gia quản lý gồm cấp
trưởng, cấp phó của: Công an tỉnh; Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh; Toà án nhân dân
tỉnh; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; Ngân hàng nhà nước tỉnh; Cục thuế tỉnh, Kho
13


bạc nhà nước tỉnh, Cục thống kê tỉnh, Bảo hiểm xã hội tỉnh; giám đốc, phó giám
đốc doanh nghiệp nhà nước và chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc công ty cổ
phần mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối (từ hạng 2 trở lên).
Như vậy, có thể hiểu đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diên Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý là những cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện; những
người được Ban thường vụ tỉnh uỷ trực tiếp đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử,
bố trí sắp xếp, điều chuyển, khen thưởng, thi hành kỷ luật và thực hiện các chính
sách khác; đồng thời trực tiếp thực hiện và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra,
giám sát, quản lý hồ sơ và các mặt công tác của cán bộ.

1.1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt diện Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ Phú Thọ quản lý
Trong bất cứ thời kỳ nào, giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cán bộ và công tác cán bộ
đều giữ vai trò vị trí đặc biệt quan trọng, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng đảng; cán bộ là nhân tố quyết định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Cán bộ là một bộ phận đặc biệt quan trọng, là trung tâm
của nhân tố con người và là nhân tố tạo nên sự phát triển không ngừng của xã
hội, nhân tố con người giữ vị trí trọng tâm, quyết định đến nhân tố khác.
Cán bộ chủ chốt trước hết là những người cán bộ lãnh đạo, nhưng là
người cán bộ lãnh đạo quan trọng nhất; đó là những người trực tiếp xây dựng và
tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách do cấp trên giao phó; đó là những
người chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cấp uỷ hoặc cơ quan mà họ
đứng đầu. Khi nói về vai trò, vị trí của cán bộ lãnh đạo đối với sự nghiệp cách
mạng, tuy C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có điều kiện nghiên cứu nhiều về vấn đề
cán bộ. Song các ông là người đầu tiên nêu ra quan điểm khoa học về cán bộ và
sớm phát hiện ra vai trò to lớn của cán bộ đã khẳng định: “Muốn thực hiện tốt
những tư tưởng thì cần có những con người vận dụng một lực lượng thực tiễn”
[39, tr. 181]10. C.Mác và Ph.Ăngghen đã có những kết luận sâu sắc và toàn diện
về vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng vô sản. Theo hai ông, cán
bộ lãnh đạo là những người tiêu biểu cho phong trào cách mạng, có tri thức của
14


thời đại, có trình độ nhận thức cao, biết kết hợp và vận dụng lý luận cách mạng
với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng; cán bộ là những
người trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc; có trách nhiệm cao với nhiệm vụ cách mạng và chịu sự giám
sát của quần chúng, do đó được được quần chúng tin yêu.
V.I. Lênin đã kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng

những người cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo có vai trò to lớn trong mọi
phong trào cách mạng: “Không có phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc
được nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những
người lãnh đạo” [45, tr. 158]11. Người chỉ ra nhiệm vụ quan trọng của công tác
cán bộ của Đảng: “Nghiên cứu con người tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện
nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định chỉ là
mớ giấy lộn” [37, tr.449]12. Rõ ràng, khi có đường lối đúng thì cán bộ là nhân tố
quan trọng, quyết định thắng lợi việc tổ chức thực hiện đường lối đó. Người
nhấn mạnh: “Muốn thắng giai cấp tư sản thì phải tạo lấy những nhà chính trị giai
cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà
chính trị của giai cấp tư sản” [36, tr.80-81]13.
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ lâu dài, rất mới mẻ, khó khăn và
phức tạp, tiến hành trên phạm vi rộng lớn. Vì vậy, cần phải có đội ngũ cán bộ am
hiểu nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, biết tổ chức và thống nhất các
lực lượng hướng về mục tiêu của Xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ cán bộ ấy phải thực
sự có khả năng đề xuất chủ trương, giải pháp thực hiện có hiệu quả đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, có năng lực quản lý kinh tế - xã
hội.
Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng
định: “cán bộ là gốc của mọi công việc” và “muôn việc thành công hay thất bại,
đều do cán bộ tốt hay kém” [43, tr. 269; 273]14.
Ngay từ khi cách mạng còn phôi thai với muôn vàn khó khăn, thử thách,
Người đã dạy một cách rễ hiểu rằng: “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể, có vốn
15


mới làm ra lãi, không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” [43, tr.367] 15.
Từ nhận thức sâu sắc và đánh giá cao vị trí, vai trò của cán bộ, Người chỉ ra mục
tiêu, nhiệm vụ của công tác cán bộ là tạo ra đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt,

xứng đáng với vị trí, vai trò đó. Đồng thời, khẳng định tầm quan trọng của công
tác cán bộ, Người nhấn mạnh: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”
[43, tr. 269]16.
Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng và đánh giá cao vai trò của cán bộ
và công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Điều đó luôn
thể hiện sự nhất quán trong quan điểm, các chủ trương, chính sách của Đảng về
cán bộ và công tác cán bộ qua các giai đoạn cách mạng. Bước vào công cuộc đổi
mới toàn diện của đất nước với nhiệm vụ cách mạng mới rất nặng nề, Đại hội VI
của Đảng đã chỉ rõ “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng
nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách
mạng” [22, tr.132]17. Nhận thức đó được thể hiện bằng thực tiễn sinh động của
quá trình đổi mới đội ngũ cán bộ những năm vừa qua.
Nhận thức rõ vai trò của đội ngũ cán bộ trước những yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ chính trị của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, Đảng ta nêu rõ “Tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra rất nhiều yêu cầu cho
công tác cán bộ. Toàn Đảng phải hết sức chăm lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán
bộ” [23, tr.145]18. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là giai đoạn phát triển tất yếu
của mọi quốc gia, nhằm chuyển từ nền kinh tế kém phát triển lên nền kinh tế
tiên tiến, hiện đại. Đất nước ta có điểm xuất phát thấp, lại phải trải qua hơn 30
năn chiến tranh ác liệt, để lại nhiều hậu quả nặng nề; đội ngũ cán bộ một thời
gian dài tập trung đào tạo cho đội ngũ cán bộ chiến tranh cách mạng để giải
phóng dân tộc. Nên bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Những năm gần đây, tình hình chính trị, kinh tế thế giới, khu vực có nhiều biến
đổi nhanh chóng và phức tạp. Sự phát triển như vũ bão của khoa học và công
nghệ, sự giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng và tăng cường, các nước đang phát
triển có điều kiện rất thuận lợi để có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá,
16



hiện đại hoá. Quốc gia nào lựa chọn cho mình một chiến lược phát triển đất
nước hợp qui luật phát triển của xã hội, tận dụng được lợi thế, vượt qua khó
khăn, thách thức sẽ có cơ hội vươn lên trở thành nước công nghiệp mới, có nền
kinh tế phát triển. Ngược lại, nước nào bỏ lỡ thời cơ sẽ tụt hậu ngày càng xa so
với các nước phát triển. Điều đó, lại càng thấy vai trò, vị trí to lớn của đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và cán bộ quản lý các cấp, các
ngành. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người
đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ thống chính trị” [28, tr.293] 19.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định cán bộ là nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
đất nước và chế độ. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nói chung, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nói riêng luôn có vị
trí, vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, và
chính đây là nguồn bổ sung cán bộ cho Trung ương. Đặc biệt cán bộ chủ chốt
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý là những người đứng đầu và các cấp phó,
những thành viên trong tập thể lãnh đạo của một địa phương, một ngành, một
đơn vị, là lực lượng nòng cốt trong đội ngũ cán bộ và là nhân tố quan trọng nhất
trong bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị ở địa phương, là nhân tố quyết định
sự phát triển toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội, quốc phòng –
An ninh…trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương, đất
nước.
Đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý trước
hết là chịu trách nhiệm tiếp thu, quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên địa bàn toàn tỉnh; đề
xuất kiến nghị hoặc trực tiếp quyết định những vấn đề phù hợp với tình hình
thực tế của địa phương trong từng thời kỳ, tổ chức lãnh, chỉ đạo cấp dưới và
nhân dân thực hiện. Mặt khác, qua thực tế phong phú ở địa phương, họ là những
người nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân và những vấn đề trong thực tế


17


cuộc sống đặt ra, từ đó có những kiến nghị góp phần tham gia vào việc xây
dựng, hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Cán bộ chủ chốt diện Ban Thường vụ tỉnh uỷ quản lý là những người
trung kiên, có lập trường vững vàng, có phẩm chất đạo đức và năng lực công
tác, có khả năng đoàn kết và tập hợp quần chúng, được Đảng cất nhắc, đề bạt và
phân công giữ những vị trí công tác trọng yếu ở địa phương, ngành, đơn vị. Do
vậy, họ góp phần to lớn trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các cấp uỷ Đảng trong tỉnh; họ là những người tiêu biểu lãnh đạo cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng tỉnh
nhà, đồng thời là trung tâm đoàn kết trong các cấp uỷ đảng, các địa phương,
ngành, đơn vị và các tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Cán bộ chủ chốt diện Ban Thường vụ tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý giữ vai trò
trung tâm định hướng, điều khiển hoạt động của địa phương, ngành, đơn vị, tác
động trực tiếp và quyết định đến sự phát triển trên các lĩnh vực trong tỉnh; quản
lý và chủ trì toàn bộ các công việc của cấp uỷ, chính quyền, các tổ chức nhân
dân trong hệ thống chính trị, trực tiếp nắm các vấn đề trọng yếu, cơ mật của địa
phương. Họ là những người trực tiếp tiếp thu, quán triệt quan điểm, đường lối
của Đảng và truyền đạt, tổ chức động viên cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
thực hiện bằng các kế hoạch, chương trình hành động cụ thể; đồng thời kiểm tra
việc thực hiện và uốn nắn kịp thời những sai phạm của những tổ chức, cá nhân
thuộc thẩm quyền quản lý trong quá trình thực hiện. Cán bộ diện Ban Thường
vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý còn là những người đề ra kế hoạch, phương hướng,
nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản để tập thể có thẩm quyền bàn bạc, quyết định,
họ là những người chủ trì tổ chức thực hiện theo chức năng và nhiệm vụ của mỗi
vị trí được phân công đảm trách. Họ không chỉ lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị của cấp dưới mà còn tuyên truyền, vận động,

hướng dẫn cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng. Qua các phong trào hành động cách mạng và qua tôi luyện trong thực
tiễn, cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản
18


lý ngày càng trưởng thành và là nguồn cung cấp cán bộ cho Trung ương; là
những người có nhiệm vụ xây dựng tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt
là đội ngũ cán bộ kế cận; chịu trách nhiệm trước nhân dân trong tỉnh, trước Ban
Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và trước Trung ương về mỗi công việc của
địa phương.
Tóm lại, Cán bộ lãnh đạo chủ chốt nói chung và cán bộ chủ chốt thuộc
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý nói riêng luôn giữ vai trò, vị trí
đặc biệt quan trọng, bảo đảm giữ vững sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của
Đảng mà trực tiếp là Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đối với sự nghiệp cách mạng
của địa phương, góp phần tích cực vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước.
Sự nghiệp xây dựng và phát triển của quê hương đất tổ tỉnh Phú Thọ, một địa
phương giàu truyền thống cách mạng, nhưng cũng đang gặp nhiều khó khăn thử
thách trong quá trình phát triển, nhân tố đoàn kết càng nổi lên như nhân tố hàng
đầu. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ không chỉ nhận thức rõ điều này mà đã
có những bài học sâu sắc của sức mạnh đoàn kết thống nhất trong đảng bộ, trước
hết là ở đội ngũ cán bộ chủ chốt. Trước yêu cầu xây dựng khối đoàn kết đó, vai
trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý càng
nổi rõ vai trò hạt nhân đoàn kết để qui tụ đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân tích cực tham gia xây dựng đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong sạch
vững mạnh, quê hương giàu đẹp.
1.1.3. Đặc điểm việc bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức
danh diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý
Đặc điểm của bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh chủ
chốt thuộc diện tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý là việc lựa chọn để sử dụng cán bộ mà

các nhà chính trị gọi là phương cách dùng người hay là cách dùng người. Thực
chất của việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh chủ chốt diện
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý là việc Ban Thường vụ Tỉnh uỷ thống
nhất lãnh, chỉ đạo các cấp uỷ, cơ quan, đơn vị theo thẩm quyền được phân cấp
tiến hành nhận xét, đánh giá, lựa chọn cán bộ để tham mưu cho Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ quyết định bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vào một chức danh nào
19


đó cao hơn chức vụ cũ, trên cơ sở đã xem xét qui trình bổ nhiệm, tiêu chuẩn cán
bộ và nhu cầu công tác thực tế của cấp uỷ, cơ quan, đơn vị, nhằm sử dụng có
hiệu quả đội ngũ cán bộ, đồng thời tạo điều kiện để cán bộ phát huy hết khả
năng, trí tuệ của mình để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị đề ra.
Việc bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử các chức danh cán bộ thuộc
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý vừa có xem xét bổ nhiệm lần đầu
và bổ nhiệm lại, vừa có xem xét để giới thiệu ứng cử cho các tổ chức trong hệ
thống chính trị của tỉnh. Trong đối tượng cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban
Thường vụ tỉnh uỷ quản lý trên, cần phân biệt rõ đối tượng cán bộ bổ nhiệm và
đối tượng cán bộ bầu cử để làm rõ đặc điểm việc bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ
ứng cử các chức danh cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh uỷ quản
lý như sau:
+) Cán bộ diện bổ nhiệm
- Trưởng, phó các ban đảng của tỉnh uỷ và chánh, phó văn phòng Tỉnh uỷ;
- Chánh, phó văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
(HĐND) tỉnh; chánh, phó văn phòng Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh; Trưởng,
phó ban chỉ đạo chuyên trách thuộc Tỉnh uỷ, UBND tỉnh;
- Giám đốc, phó giám đốc các sở thuộc UBND tỉnh và tương đương là đối
tượng quản lý trực tiếp và tham gia gián tiếp phối hợp quản lý;
- Tổng, phó Tổng biên tập Báo Phú Thọ; giám đốc, phó giám đốc Đài
Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ;

- Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng, trường
Chính trị tỉnh;
- Giám đốc, phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước; Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Công
thương; giám đốc, phó giám đốc các doanh nghiệp nhà nước hạng 2 trở lên.
+) Cán bộ bầu cử:
- Uỷ viên Ban Chấp hành, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (BTV), Uỷ
viên Uỷ ban Kiểm tra, Chủ nhiệm và phó chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ;

20


- Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh;
trưởng ban và phó trưởng ban của Hội đồng nhân dân tỉnh;
- Cấp trưởng, phó các đoàn thể tỉnh; cấp trưởng, cấp phó hội: Hội Văn học
- Nghệ thuật, Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật, Hội Chữ thập đỏ, Hội nhà
báo tỉnh;
Bí thư, Phó bí thư các huyện, thành, thị uỷ và đảng uỷ trực thuộc tỉnh;
Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã.
Từ nhận dạng cán bộ chủ chốt thuộc diện bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử
các chức danh thuộc Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ quản lý trên, ta thấy một
đặc điểm chung của cán bộ bổ nhiệm và cán bộ giới thiệu ứng cử các chức danh
chủ chốt là việc lựa chọn cán bộ để cất nhắc, bố trí vào các chức danh cao hơn
trong cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo phân
cấp về công tác tổ chức và cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của
tỉnh.
1.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm và giới thiệu ứng
cử các chức danh cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản

1.2.1. Khái quát về nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng

1.2.1.1. Vị trí, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ
Đảng cộng sản việt nam là một khối thống nhất ý chí và hành động. Để có
cơ sở làm được như vậy, Đảng phải có một nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nội
bộ, nguyên tắc đó làm cho toàn đảng thông suốt, trên dưới một lòng, một mặt
phát huy triệt để tinh thần tích cực và sáng kiến của đảng viên, một mặt kết hợp
chặt chẽ giữa cá nhân đảng viên với tổ chức đảng, toàn thể đảng viên với cơ
quan lãnh đạo tối cao của đảng, kết hợp chặt chẽ dưới với trên, mỗi đảng bộ với
toàn đảng đó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc quan trọng nhất
để chỉ đạo mọi hoạt động của tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc
21


của Đảng. Nó đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vô
địch của một Đảng cách mạng. Đây là nguyên tắc phân biệt chính đảng của giai
cấp công nhân, Đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra lần đầu
vào năm 1847 trong việc tổ chức “Liên minh những người cách mạng”; sau đó,
tiếp tục khẳng định trong tổ chức “Liên minh công nhân quốc tế” (quốc tế I) do
chính C. Mác sáng lập vào năm 1864 và cùng với Ph. Ăngghen lãnh đạo tổ chức
này nhằm đáp ứng nhu cầu của phong trào công nhân là phải thống nhất lực
lượng trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản, bảo đảm sự ổn định, nhất
trí và tính tổ chức của đội tiên phong.
V.I. Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo nguyên tắc tập trung dân
chủ phù hợp với điều kiện lịch sử và thời đại mới. Tại nước Nga năm 1895,
Lênin thành lập tổ chức “Liên minh chiến đấu giải phóng giai cấp công nhân”,
mầm mống đầu tiên cho sự ra đời của Đảng Cộng sản ở Nga, hoạt động trên cơ
sở kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân Nga. Nguyên tắc tập trung
dân chủ được V.I. Lênin đề cập sâu từ năm 1905, tại Hội nghị Trung ương Đảng

Công nhân dân chủ - xã hội Nga, V.I. Lênin đề nghị đưa nguyên tắc tập trung
dân chủ vào chương trình nghị sự của hội nghị và được hội nghị chấp thuận. Tuy
nhiên, tại hội nghị nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn chưa được đưa vào Điều lệ
của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga vì còn có những ý kiến khác nhau.
Năm 1906, Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga Đại hội từ ngày 23-4 đến
ngày 8-5 để thống nhất lực lượng và nguyên tắc tổ chức của Đảng. Tại Đại hội
này, V.I. Lênin trình bày “Cương lĩnh hành động” của Đảng. Người viết:
“nguyên tắc tập trung trong Đảng hiện nay được mọi người thừa nhận” [25,
tr.279]20. Đại hội nhất trí thông qua Điều lệ mới của Đảng. Điều lệ ghi rõ: “Tất
cả các tổ chức đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ” [11,
tr.313]21. như vậy, lần đầu tiên nguyên tắc tập trung dân chủ được ghi trong Điều
lệ của một đảng cộng sản vào năm 1906.

22


V.I.Lênin thường viết “Dân chủ” là tính từ giải nghĩa cho danh từ “tập
trung”, nên khi dịch ra tiếng Việt là “tập trung dân chủ”. Còn chủ tịch Hồ Chí
Minh thường viết “dân chủ tập trung”. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội II
(năm 1951) của Đảng ta do người trình bày ghi rõ: “Về tổ chức, Đảng Lao động
Việt Nam hoạt động theo chế độ dân chủ tập trung” [28, tr.174] 22. Đây chỉ là
cách viết theo văn phong khác nhau (phương tây và chữ Hán), còn về thực chất
quan niệm của V.I. Lênin và Hồ Chí Minh là thống nhất.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc xây dựng Đảng đã được kiểm
nghiệm lâu dài và có hiệu quả nhất đối với việc xây dựng tổ chức; là cơ sở vững
chắc cho hoạt động của các Đảng cộng sản và công nhân. Nguyên tắc tập trung
dân chủ bắt nguồn từ tính chất và của bản thân Đảng cộng sản với tư cách là một
tổ chức chính trị thống nhất về cả tư tưởng, đường lối, tổ chức và hành động.
Tai Việt Nam, thuật ngữ “nguyên tắc tập trung” xuất hiện từ năm 1929
trong Điều lệ hội Việt Nam cách mạng thanh niên (gọi tắt là Thanh niên hội) một

trong các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thông qua tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của hội (tháng 5-1929) ghi: “Hội tổ chức
theo nguyên tắc tập trung” [14, tr.120]23. Tiếp đó tháng 6-1929, Đông Dương
cộng Sản Đảng Đại hội lần thứ nhất (Đại hội thành lập) thông qua Điều lệ Đảng,
trong đó có ghi: “Đảng Cộng sản tổ chức theo lối dân chủ tập trung” [14,
tr.220]24. Tại Đại hội lần thứ nhất (Đại hội thành lập, tháng 11-1929), An Nam
Cộng Sản Đảng thông qua điều lệ Đảng, trong đó có ghi: “Đảng tổ chức theo
dân chủ tập trung” [14, tr.360]25. Trong “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam” được thông qua hội nghị thành lập Đảng ngày 3-2-1930 chưa ghi nguyên
tắc tập trung dân chủ. Tháng 10-1930 Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
nhất, quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương và thông qua
Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương trong đó ghi: “Đảng Cộng sản Đông
Dương cũng như các chi bộ của quốc tế Cộng sản phải tổ chức theo lối dân chủ
tập trung” [15, tr.119] 26. Tiếp sau đó, Điều lệ của Đảng lao động và Điều lệ của
Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội II đến Đại hội X của Đảng đều nhất quán
23


ghi: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ” và xác định tập trung dân
chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Tại điều 6, Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, ghi: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân
và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ” [36, tr.178]27.
Đảng ta nhận rõ việc tổ chức sinh hoạt nội bộ của Đảng trên cơ sở tập
trung dân chủ là sự bảo đảm có tính chất quyết định trong việc vạch ra đường
lối, chiến lược, sách lược; trong việc hình thành các cơ quan lãnh đạo và tạo ra
những tiền đề cần thiết để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được đúng hướng
và phát triển. Từ thực tiễn 80 năn qua, nguyên tắc tập trung dân chủ đã được trải
nghiệm trong tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính đúng
đắn của nguyên tắc này. Thực hiện tập trung dân chủ nghiêm túc sẽ đem đến sự

thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng. Trong thời gian giữa hai kỳ Đại hội, sự lãnh đạo
của Đảng tập trung vào Ban chấp hành Trung ương. Những nghị quyết của Đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng. Khi
nghị quyết của Đại hội Đảng và Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương đã được thông qua thì trở thành “pháp lệnh” đối với các tổ chức đảng và
đảng viên. Nghị quyết đó chính là một thành quả của quá trình thảo luận và
đóng góp dân chủ trong Đảng. Nghị quyết đúng và đi vào thực tiễn cuộc sống là
sự thể hiện một cách đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động và
trong sinh hoạt của Đảng. Vì vậy, nếu xem nhẹ hoặc buông lỏng, hay thực hiện
không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ gây những thiệt hại nghiêm trọng
đến năng lực hoạt động của Đảng, đến vai trò lãnh đạo và ảnh hưởng uy tín của
Đảng trong xã hội, thậm chí dẫn đến sự bị tan rã của Đảng.
Một trong những đặc trưng cơ bản của đảng vô sản kiểu mới là thừa nhận
và thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt nội bộ
và toàn bộ hoạt động của mình. Đây không chỉ là một nguyên tắc tổ chức cơ bản

24


đối với đảng vô sản chân chính, mà cò là một qui luật và nhu cầu của quá trình
phát sinh, phát triển và trưởng thành của Đảng.
Với tư cách là một Đảng cầm quyền, Vai trò, năng lực và sức chiến đấu
của Đảng ta một phần cơ bản và quyết định bởi mức độ nhận thức và khả năng
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là một nhân tố quyết định sự sống
còn của đảng, gắn với sự thành bại của công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa
xã hội hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Đây cũng chính là một trọng tâm
chống phá của kẻ thù nhằm thúc đẩy sự tan vỡ của Đảng. Mặc dù trên thế giới
có ý kiến khác nhau, nhưng Đảng ta trước sau như một khẳng định, Đảng được
tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc bất di,

bất dịch không thay đổi.
1.2.1.2. Bản chất và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Về bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ: Nguyên tắc tập trung dân
chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể
thống nhất của một nguyên tắc, đó chính là bản chất của nguyên tắc tập trung
dân chủ. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, tập trung là cơ sở là cái
đảm bảo cho dân chủ được thực hiện. Trong diễn đạt của các văn kiện của đảng
ta, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin có lúc, có
nơi diễn đạt “tập trung dân chủ”, hay “dân chủ tập trung” thì đây vẫn là một
nguyên tắc hoàn chỉnh, chứ không phải là sự lắp ghép cơ học giữa hai thành tố
“tập trung” và “dân chủ”.
V.I. Lênin viết: “Chế độ tập trung hiểu theo nghĩa thực chất dân chủ, đã
bao hàm khả năng – khả năng này do lịch sử tạo ra lần đầu tiên – phát huy một
cách đầy đủ và tự do không những các đặc điểm của địa phương mà cả những
sáng kiến của địa phương, tính chủ động của địa phương, tính chất muôn hình
muôn vẻ của các đường lối, của các phương pháp và phương tiện để đạt được
mục đích chung” [26, tr.186-187]28.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập
trung. Nghĩa là: có đảng chương thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá
25


×