Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Luận văn thực hiện chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn quận sơn trà, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.54 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ KIỀU NGA

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2020

0


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ KIỀU NGA

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VŨ QUỲNH ANH

HÀ NỘI, năm 2020


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng giới là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu,
được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm và cùng thống nhất hành động giải
quyết để đạt được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Vấn đề Bình đẳng giới luôn được Đảng và Nhà nước
dành sự quan tâm đặc biệt. Những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳng giới
của Việt Nam đã mang lại nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi
nhận, đánh giá cao. Do đó, ngày càng nhiều phụ nữ tiêu biểu trên các lĩnh vực
và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Chính vì vậy, bình đẳng
giới của Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện
các Mục tiêu Thiên niên kỷ, góp phần thực hiện công bằng xã hội, tiến bộ xã
hội và phát triển bền vững.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách, pháp luật, chiến lược nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của phụ nữ như: Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật
phòng chống bạo lực gia đình, một số luật và các văn bản khác dưới luật có
liên quan. Ngoài ra, còn có những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành
với mục đích nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho tất cả mọi người, đảm bảo sự
công bằng trên nhiều lĩnh vực như chính trị, y tế, giáo dục, lao động, việc
làm… Qua nhiều năm tổ chức thực hiện chính sách về bình đẳng giới thì vai
trò, địa vị của người phụ nữ trong xã hội và vấn đề bình đẳng giới đã được cải
thiện và đạt được những kết quả khả quan, tiến bộ đáng kể. Đội ngũ tri thức
nữ đang ngày càng phát triển mạnh mẽ về chất lượng và số lượng, phụ nữ
tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động sản xuất, số lượng nữ tham gia
quản lý nhà nước tăng lên. Phụ nữ Việt Nam đang có mặt ở hầu hết các cơ
quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp.


2


Tuy nhiên, trên thực tế tại quận Sơn Trà cho thấy, tuy số lượng phụ nữ
tham gia quản lý nhà nước tăng lên, song tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đảng, chính
quyền, đại biểu Hội đồng nhân dân vẫn còn thấp, chưa ổn định, cán bộ nữ chủ
yếu vẫn giữ vị trí cấp phó, tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp vẫn thấp hơn nam
giới, thu nhập bình quân của lao động nữ vẫn thấp hơn so với lao động nam,
phụ nữ thường tham gia vào các công việc không chính thức và dễ bị tổn
thương, công tác tuyên truyền, giáo dục về giới, bình đẳng giới còn chưa linh
hoạt, chưa tổ chức thường xuyên, chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng và
từng khu vực. Bên cạnh đó, tư tưởng của một bộ phận người dân đều coi nam
giới là trụ cột gia đình, xem công việc gia đình hiển nhiên là trách nhiệm của
người phụ nữ, tình trạng bạo lực gia đình vẫn còn xảy ra…
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Thực hiện chính
sách bình đẳng giới từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” để
làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công, nhằm đánh giá được
một cách đầy đủ và khoa học việc thực hiện chính sách bình đẳng giới trên
địa bàn quận Sơn Trà. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm tăng
cường thực hiện chính sách bình đẳng giới trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bình đẳng giới là một nội dung quan trọng trong việc khẳng
định Quyền con người của nữ giới. Có thể nói, mục tiêu bình đẳng giới hiện là
một trong những mối quan tâm đặc biệt của các quốc gia nói riêng và cộng
đồng quốc tế nói chung. Ngay từ thời điểm năm 1955, Liên hợp quốc đã
thống nhất quan điểm và thông qua Chương trình hành động giới, lồng ghép
giới tại Hội nghị quốc tế về phụ nữ, lần thứ tư tại Bắc Kinh (Trung Quốc); vào
năm 1979 tiếp tục thông qua Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử đối với phụ nữ và Mục tiêu Thiên niên kỷ thứ ba cũng nhằm thúc

đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Đại hội đồng Liên hợp quốc
cũng đã quyết định đặt ra nhiều ngày lễ quốc tế, nhiều sự kiện trọng đại vì

3


mục tiêu bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Điều này cho thấy sự ưu
tiên đặc biệt của cộng đồng quốc tế về vấn đề bình đẳng giới.
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm dành cho công tác bình
đẳng giới những ưu tiên nhất định. Cụ thể, trong Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Hiến pháp năm 1946, tại Điều 9 đã đề cập đến
quyền bình đẳng nam nữ: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương
diện” [15]. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc, Người cũng trăn trở về
vai trò và vị trí của người phụ nữ: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng có thêm nhiều phụ
nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ phải
cố gắng vươn lên. Đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự
cho phụ nữ”. Và vấn đề này đã được thể chế hóa thành các văn bản Luật như
Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật Bình đẳng giới năm 2006
hay ban hành các chương trình hành động như: Chương trình hành động quốc
gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020, Chương trình hành động
quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020,... để đảm bảo quyền lợi cho
người phụ nữ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, lao động, y tế, giáo dục và
ngay chính trong gia đình của họ. Vì vậy, việc nghiên cứu về quyền bình đẳng
giới là một trong những đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu
nhằm khẳng định vị thế của người phụ nữ, tạo cơ hội cho phụ nữ trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhiều
công trình, nghiên cứu khoa học, luận văn, bài báo... viết về các chính sách
bình đẳng giới đăng trên nhiều tạp chí như: Tạp chí Khoa học về phụ nữ, Tạp
chí Nghiên cứu lý luận, Tạp chí Xã hội học... Một số đề tài nghiên cứu tiêu

biểu là: Tác giả Lê Thị Quý [11] với nghiên cứu “Bình đẳng giới ở Việt Nam
hiện nay”, nghiên cứu nêu lên quan niệm về bình đẳng giới ở Việt Nam, quá
trình phát triển nhận thức, những thành tựu và thách thức của bình đẳng giới
Việt Nam. GS.TS Đặng Cảnh Khanh và GS.TS Lê Thị Quý [7] với Giáo trình
về Gia đình học. NXB Lý luận chính trị, 2007, Tái bản năm 2009. Qua cuốn

4


giáo trình này, nhóm tác giả cũng nêu được thực trạng gia đình Việt Nam
trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; làm rõ khía cạnh giới
trong gia đình và xã hội; những vấn đề về quản lý nhà nước về gia đình. Cuối
cùng, nhóm tác giả đã nêu lên những định hướng giải pháp và điều kiện thực
hiện những giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam phù hợp với yêu cầu của
giai đoạn hiện nay.
Tác giả Dương Kim Anh (2016) có nghiên cứu về “Phụ nữ tham chính:
cơ hội và thách thức” [5], tác giả đã đánh giá thực trạng phụ nữ tham chính
trên thế giới và Việt Nam, làm rõ những thuận lợi và khó khăn của phụ nữ
tham chính ở Việt Nam, đồng thời đưa ra 4 lý do cơ bản cần thiết phải có
nhiều nữ giới trong các vị trí lãnh đạo, quản lý đó là vì sự công bằng, vì lợi
ích, vì kinh nghiệm và vì sự phát triển bền vững của đất nước. Như vậy, việc
tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là hết sức cần thiết, nhằm đảm
bảo tiếng nói đại diện, thể hiện tâm tư, nguyện vọng của nữ giới.
Một công trình nghiên cứu khác là Báo cáo nghiên cứu hướng tới bình
đẳng giới ở Việt Nam: “Để tăng trưởng bao trùm có lợi cho phụ nữ”, báo cáo
đã phân tích sự bất bình đẳng trong việc phân phối các nguồn lực sản xuất ở
nhiều nhóm phụ nữ và nam giới khác nhau, sự phân chia lao động theo giới và
việc dễ bị tổn thương hơn của phụ nữ trong điều kiện làm việc và trả lương.
Nghiên cứu đánh giá khung chính sách của Việt Nam và đưa ra các khuyến

nghị để thực hiện tốt hơn tiềm năng của phụ nữ và giúp sinh kế của họ đảm
bảo hơn, cho dù họ là những người nông dân sản xuất với quy mô nhỏ, lao
động giúp việc gia đình được trả lương hay công nhân nhà máy. Nghiên cứu
này có giá trị tham khảo lớn, giúp tác giả luận văn nhìn nhận ra được tình hình
bình đẳng giới nói chung, nhưng nội dung chuyên sâu về thực hiện chính sách
bình đẳng giới lại chưa được đề cập.
Tác giả Phạm Thi Lê Dung (2017), Luận văn thạc sỹ chuyên ngành
Chính sách công, “Thực hiện chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn tỉnh

5


Quảng Ngãi” [14]. Đã đề cập đến những vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách BĐG tại Việt Nam, đánh giá việc thực hiện chính sách BĐG tại tỉnh
Quảng Ngãi và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
thực hiện chính sách BĐG ở tỉnh Quảng Ngãi.
Một nghiên cứu khác liên quan trực tiếp đến bình đẳng giới tại thành
phố Đà Nẵng là đề tài “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng” do Lê Thị Thu Hường (2016) làm tác giả đề tài [10].
Tuy nhiên, đề tài này chỉ nghiên cứu về những lý luận và thực trạng thực hiện
pháp luật về bình đẳng giới, đồng thời đưa ra những giải pháp thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
Các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã có liên quan nhất định đến
đề tài luận văn về chính sách Bình đẳng giới. Nhiều đề tài, luận văn nghiên
cứu về thực hiện chính sách bình đẳng giới ở các tỉnh, thành. Tuy nhiên, vẫn
chưa có đề tài nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu về thực hiện chính sách bình
đẳng giới từ thực tiễn quận Sơn Trà. Vì vậy học viên chọn đề tài “Thực hiện
chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng”
với mong muốn góp phần đánh giá đúng thực trạng, đề ra giải pháp hoàn thiện
giải pháp thực hiện chính sách bình đẳng giới tại quận Sơn Trà trong thời gian

tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực tiễn công tác thực hiện chính sách bình đẳng giới trên
địa bàn quận Sơn Trà, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt
chính sách bình đẳng giới trên địa bàn quận Sơn Trà.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc thực hiện chính sách bình đẳng
giới.
- Tìm hiểu thực trạng thực hiện chính bình đẳng giới tại quận Sơn Trà,
TP Đà Nẵng.

6


- Đề xuất một số giải pháp nâng cao việc thực hiện chính sách bình
đẳng giới tại quận Sơn Trà trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của của luận văn:
- Thực tiễn thực hiện chính sách bình đẳng giới tại quận Sơn Trà.
- Các chủ thể quản lý và thực hiện chính sách bình đẳng giới tại quận
Sơn Trà.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian:
Đề tài thực hiện khảo sát tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
- Phạm vi về thời gian:
Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bình đẳng giới trên địa bàn
quận Sơn Trà trong 5 năm trở lại đây và đề xuất một số giải pháp chủ yếu
hoàn thiện công tác thực hiện chính sách bình đẳng giới trên địa bàn quận Sơn

Trà trong những năm tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết
học MácLênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, các Công ước quốc tế Việt Nam tham gia, ký kết về quyền bình đẳng
nam, nữ; bình đẳng giới; vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Lý thuyết chính sách công được vận dụng để tìm hiểu về thực tiễn thực
hiện chính sách bình đẳng giới tại quận Sơn Trà dưới nhiều góc độ khác nhau,
từ đó hoàn thiện hơn nữa việc thực hiện chính sách về bình đẳng giới tại quận
Sơn Trà.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

7


Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này bao
gồm: Phương pháp phân tích tài liệu sẵn có, phương pháp điều tra xã hội học
(phỏng vấn sâu).
- Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn: Khai thác và phân tích thông
tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các chính
sách, luật, văn bản pháp luật về giới, bình đẳng giới tại Việt Nam; các công
trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê về việc thực hiện chính sách
bình đẳng giới tại Việt Nam.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu 21 đối
tượng có liên quan đến việc thực hiện chính sách bình đẳng giới, trong đó:
khối Đảng: 5 người, gồm Bí thư Quận ủy, 2 đồng chí Quận ủy viên và 2 đồng
chí Bí thư Đảng ủy phường. Khối Chính quyền: tác giả chọn phỏng vấn 2 cán
bộ quận kiêm nhiệm phó ban vì sự tiến bộ phụ nữ quận và 4 cán bộ phường
phụ trách công tác bình đẳng giới và Hội liên hiệp phụ nữ: 10 người, trong đó

1 cán bộ Hội phụ nữ quận, 5 cán bộ Hội phụ nữ phường và 4 cán bộ chi hội
phụ nữ khu dân cư.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Về mặt lý luận, đề tài làm phong phú thêm chủ đề nghiên cứu về
chính sách công, đặc biệt trong một lĩnh vực cụ thể là thực hiện chính sách
BĐG.
- Về mặt thực tiễn: những phân tích, đánh giá và kiến nghị của luận văn
là cơ sở cho Quận trong việc nhìn nhận lại quá trình tổ chức thực hiện chính
sách bình đẳng giới ở quận Sơn Trà và giúp Quận hoàn thiện hơn quá trình
thực hiện chính sách bình đẳng giới của quận. Ngoài ra, những kết quả của
luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu về tổ chức
thực hiện chính sách bình đẳng giới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận; luận văn được kết cấu thành ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bình đẳng

8


giới ở nước ta hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bình đẳng giới trên địa bàn
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
- Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách bình đẳng giới trên địa bàn quận Sơn Trà.

9


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. Các khái niệm về giới, bình đẳng giới, chính sách bình đẳng
giới và thực hiện chính sách bình đẳng giới
1.1.1. Khái niệm về giới
Giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam
giới và phụ nữ, xã hội tạo ra và giành cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ
nữ và nam giới với các đặc điểm giới khác nhau. Đặc điểm giới rất đa dạng và
có thể thay đổi được, nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi
mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam giới và phụ nữ. Tại khoản 1 Điều
5 Luật bình đẳng giới năm 2006 quy định: “Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò
của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội” [20].
1.1.2. Khái niệm bình đẳng giới
Theo Điều 26 của Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân nam, nữ
bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình
đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển
toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối
xử về giới [19].
Một cách hiểu khác đầy đủ hơn và tương đối phổ biến thì bình đẳng
giới là nam giới và nữ giới đều có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như
nhau. Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại Điều 5 Luật bình đẳng giới năm
2006:
“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”
[20].

10



Bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và nữ giới được tạo những điều
kiện ngang nhau để phát huy đầy đủ các tiềm năng của bản thân và có cơ hội
để tham gia đóng góp và hưởng lợi như nhau từ các hoạt động phát triển của
cộng đồng trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; không có nghĩa
nam giới và nữ giới là giống nhau mà có nghĩa là sự tương đồng và sự khác
biệt của họ được thừa nhận, được coi trọng như nhau.
1.1.3. Khái niệm chính sách bình đẳng giới
Chính sách bình đẳng giới là tập hợp các Quyết định, Nghị định của Nhà
nước có liên quan về bình đẳng giới gồm các công cụ, mục tiêu, giải pháp
nhằm làm giảm sự chênh lệch giữa nam và nữ về vai trò, vị trí, điều kiện, cơ
hội phát huy năng lực, thụ hưởng thành quả của sự phát triển.[23]
1.1.4. Khái niệm thực hiện chính sách bình đẳng giới
Thực hiện chính sách bình đẳng giới là toàn bộ quá trình chuyển hoá
cách ứng xử của chủ thể thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt
được mục tiêu, định hướng và phát triển về bình đẳng giới.
Tổ chức thực thi chính sách bình đẳng giới là một quá trình hành động
gồm nhiều bước khác nhau với những phương pháp và nội dung khác nhau
nhằm làm giảm sự chênh lệch giữa nam và nữ về vai trò, vị trí, điều kiện, cơ
hội phát huy năng lực, thụ hưởng thành quả của sự phát triển, nâng cao vị thế
của người phụ nữ trong các lĩnh vực có nguy cơ bất bình đẳng cao hoặc còn
bất bình đẳng.
Tổ chức thực thi chính sách bình đẳng giới là bước hiện thực hoá chính
sách bình đẳng giới vào đời sống xã hội, nó tác động đến mọi tầng lớp nhân
dân với mục tiêu thay đổi nhận thức và các hành vi ứng xử với phụ nữ theo
chiều hướng tích cực. [23]
1.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng và các chính sách bình đẳng giới
1.2.1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách bình
đẳng giới

11



Bình đẳng giới là sự tôn trọng, tạo điều kiện cho cả nam và nữ cùng phát
triển, cùng nhau cống hiến cho xã hội và đáp ứng các nhu cầu của cá nhân.
Luật Bình đẳng giới ra đời và đi vào cuộc sống, từng bước xóa bỏ sự phân
biệt đối xử giữa nam và nữ, tạo cơ hội cho nữ tham gia vào tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong mọi thời đại,
đặc biệt là trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện này. Đây chính
là môi trường lành mạnh để con người, đặc biệt là trẻ em được đối xử bình
đẳng, được giáo dục về quyền bình đẳng, được hành động bình đẳng, là tiền
đề quan trọng cho sự thành công trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
trẻ em, góp phần tăng chất lượng cuộc sống của các thành viên gia đình, giải
phóng phụ nữ và xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc.
Thực thi chính sách bình đẳng giới nhằm khẳng định tính đúng đắn của
chính sách về bình đẳng giới, một khi chính sách được triển khai thực hiện
rộng rãi trong đời sống xã hội thì tính đúng đắn của chính sách được khẳng
định ở mức cao hơn, được cả xã hội thừa nhận, nhất là các đối tượng thụ
hưởng chính sách.
Thực hiện chính sách bình đẳng giới là một khâu hợp thành chu trình
chính sách về bình đẳng giới. Thực thi chính sách bình đẳng giới sau khi thực
hiện chính sách là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực. Tổ chức
thực thi chính sách để từng bước thực hiện các mục tiêu chính sách về bình
đẳng giới và từng bước thực hiện mục tiêu của chính sách bình đẳng giới
trong mục tiêu chung của quốc gia.
Chính sách bình đẳng giới được hoạch định bởi nhiều chủ thể và trong
những điều kiện nhất định. Hoạch định chính sách bình đẳng giới có thể bị tác
động bởi nhiều yếu tố như cơ chế của hệ thống cơ quan hoạch định, lợi ích
của các chủ thể hoạch định chính sách, thể chế chính trị của quốc gia, ý chí
chủ quan của chủ thể đứng đầu,tác động của các nhóm lợi ích… Những yếu tố

này không những ảnh hưởng đến quá trình hoạch định chính sách bình đẳng

12


giới, mà còn tác động qua nhiều quá trình như: dự báo, phân tích, lựa chọn để
có được mục tiêu, biện pháp chính sách bình đẳng giới.
Thực hiện chính sách bình đẳng giới sẽ góp phần bổ sung, điều chỉnh
và hoàn thiện chính sách bình đẳng giới cho phù hợp với thực tiễn. Kết quả
thực hiện chính sách bình đẳng giới là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách
khách quan, chính xác và khoa học về hiệu quả và chất lượng của chính sách
bình đẳng giới. Chính sách bình đẳng giới được triển khai thực hiện đúng sẽ
làm tăng độ tin tưởng của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước.
1.2.2. Các chính sách bình đẳng giới của Đảng và Nhà nước Việt
Nam
Ngay khi ra đời, Đảng ta sớm xác định nam nữ bình quyền là một trong
10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Từ đó đến nay, Đảng luôn đề
cao vai trò của phụ nữ và đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về công tác
phụ nữ, như: Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12-7-1993 về đổi mới và tăng
cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị số 37-CT/TW
ngày 16-5-1994 về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Đặc
biệt Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27-4-2007 về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước xác định: “Xây dựng, phát
triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là
yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ
của Đảng” [2], thể hiện cụ thể trong việc xây dựng và thực hiện Đề án tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ
của phụ nữ trong tình hình mới (Thông báo số 196-TB/TW ngày 16-3-2015).
Tại Đại hội XII, Đảng ta xác định phải “nâng cao trình độ mọi mặt và

đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều
kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật
pháp và chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ

13


thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội” (6,
tr163)
Về phía Nhà nước, địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam đã được quy
định trong Hiến pháp 1946: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện” (Điều 9); “Mọi công dân đều bình đẳng về quyền trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6) và “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật” (Điều 7)... [15]. Luật Bình đẳng giới (2006) xác định:
Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện,
phát huy vai trò trong xã hội. Bộ luật nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới và
xác định 8 lĩnh vực cần tập trung thực hiện bình đẳng giới là: chính trị, kinh
tế, giáo dục - đào tạo, y tế, gia đình, khoa học và công nghệ, văn hóa thông
tin, thể dục thể thao. Trong đó, bình đẳng giới trong chính trị (Điều 11) gồm:
bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, hoạt động xã hội; trong tham gia
xây dựng và thực hiện quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ
quan, tổ chức; trong việc tự ứng cử đại biểu quốc hội, HĐND, ứng cử vào cơ
quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Nam
nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm
vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức. [20]
Điều 7 Luật Bình đẳng giới quy định về các chính sách của Nhà nước
về bình đẳng giới như sau:
- Các biện pháp của Nhà nước trong việc bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong Quốc hội, Hội đồng

nhân dân các cấp là một ví dụ về việc bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực
chính trị tại thời điểm hiện nay.
- Để thực hiện chính sách áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ
phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Nhà
nước cần thực hiện nhiều biện pháp như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật; phát triển kinh tế xã hội; huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội,

14


cộng đồng dân cư và công dân; nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ
quan Nhà nước…
- Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo
điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình. Những chính sách này được
thể hiện tương đối rõ trong các văn bản pháp luật hiện hành của Nhà nước ta
về hôn nhân và gia đình, pháp luật về lao động, về doanh nghiệp, về bảo hiểm
xã hội… Ví dụ, quy định người sử dụng lao động không được sử dụng lao
động nữ làm những việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại
có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con là một trong những chính
sách bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ.
- Các hoạt động của cơ quan, tổ chức trong việc tạo điều kiện cho lao
động nam nghỉ hưởng nguyên lương và phụ cấp khi vợ sinh con; dành nguồn
tài chính cho các hoạt động bình đẳng giới… được Nhà nước khuyến khích và
tạo điều kiện.
Chính sách bình đẳng giới luôn được ghi nhận trong các Hiến pháp, tư
tưởng bình đẳng giới được tiếp tục cụ thể hóa bằng các chính sách, pháp luật
của Nhà nước như Bộ luật lao động; Luật hôn nhân và gia đình; Bộ luật hình
sự; Bộ luật dân sự; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật khoa học và công nghệ; Luật
khiếu nại, tố cáo; Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật đầu tư; Luật
doanh nghiệp, Luật cán bộ công chức… và nhiều văn bản quy phạm pháp luật

khác như các quyết định, nghị định của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ; các
thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành liên quan.
1.3. Nội dung, phương pháp và các chủ thể thực hiện chính sách
bình đẳng giới
1.3.1. Nội dung các bước thực hiện chính sách bình đẳng giới
Quy trình thực thi chính sách được xem là những nguyên lý khoa học
được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống. Mỗi bước trong quy trình đều có vị trí, ý
nghĩa to lớn đối với các quá trình thực thi chính sách. Trước khi thực thi,
chính sách được phổ biến rộng rãi đến mọi đối tượng và toàn dân để họ nhận

15


thức được đầy đủ ý nghĩa và mục tiêu của chính sách. Kết hợp các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến chính sách với vận động thực thi sẽ giúp cho các đối
tượng chính sách nêu cao tinh thần tự nguyện, tự giác trong thực hiện chính
sách. Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tổ chức thực thi chính
sách hiệu quả hơn. Đồng thời, sẽ giúp cho tất cả mọi người dân nhận thức
được rằng việc thực hiện chính sách bình đẳng giới là một chính sách đúng
đắn và mang lại hiệu quả cao. Do tầm quan trọng của giai đoạn hiện thực hóa
chính sách nên các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền địa phương cần
đặc biệt quan tâm chỉ đạo sát sao công tác tổ chức triển khai thực hiện, tuân
thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây:
- Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Kế hoạch triển khai thực thi chính sách bình đẳng giới bao gồm những
nội dung cơ bản sau đây:
+ Kế hoạch về tổ chức, điều hành
+ Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực hỗ trợ
+ Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện
+ Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách

+ Dự kiến những nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách
nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước
tham gia tổ chức, điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỹ luật
cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách… Dự kiến kế hoạch và điều
chỉnh kế hoạch thực hiện chính sách bình đẳng giới ở cấp nào do lãnh đạo cấp
đó quyết định.
- Tuyên truyền, phổ biến chính sách bình đẳng giới
Việc trước tiên cần làm trong quá trình này là tuyên truyền, vận động
nhân dân tham gia thực hiện chính sách. Phổ biến, tuyên truyền chính sách
bình đẳng giới tốt sẽ giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân
tham gia thực thi chính sách hiểu rõ về tính đúng đắn của chính sách trong
điều kiện, hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách… để họ tự

16


giác thực hiện nhằm tạo sự đồng thuận cao trong mọi tầng lớp xã hội. Đồng
thời, còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi
nhận thức được đầy đủ quy mô, tính chất, trình độ của chính sách với đời
sống xã hội, để chủ động tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện
mục tiêu chính sách.
Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách bình đẳng giới cần phải được
thực hiện thường xuyên, liên tục, bằng nhiều hình thức như trực tiếp tiếp xúc,
trao đổi với các đối tượng tiếp nhận và gián tiếp qua các phương tiện thông tin
đại chúng.
- Phân công, phối hợp thực hiện chính sách.
Chính sách bình đẳng giới được thực thi trên phạm vi rộng lớn, vì thế
số lượng cá nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Đồng thời,
các hoạt động thực hiện mục tiêu chính sách bình đẳng giới diễn ra cũng rất
phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian. Vì vậy, muốn tổ chức thực

thi chính sách bình đẳng giới có hiệu quả thì phải tiến hành phân công, phối
hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương để họ
chủ động tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng giới.
- Duy trì chính sách bình đẳng giới:
Duy trì chính sách là làm cho chính sách tồn tại được và phát huy tác
dụng trong môi trường thực tế. Để đạt được điều đó, đòi hỏi các cơ quan nhà
nước-người chủ động tổ chức thực thi chính sách phải thường xuyên quan tâm
tuyên truyền, vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực tham
gia thực thi chính sách. Nếu việc thực hiện chính sách bình đẳng giới gặp phải
những khó khăn do môi trường thực tế biến động, thì các cơ quan nhà nước sử
dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi
cho việc thực thi chính sách bình đẳng giới. Chủ động điều chỉnh chính sách
bình đẳng giới cho phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương, mỗi
đơn vị.

17


Để đảm bảo lợi ích chung của xã hội, các cơ quan nhà nước có thể kết
hợp sử dụng các biện pháp hành chính để duy trì chính sách; bên cạnh đó,
tăng cường thực hiện dân chủ để người dân mạnh dạn tham gia quản lý xã hội,
trong đó tự giác chấp hành chính sách và tham gia tìm kiếm, đề xuất các giải
pháp thực hiện chính sách bình đẳng giới một cách hiệu quả.
- Điều chỉnh chính sách bình đẳng giới
Chính sách bình đẳng giới trong quá trình thực thi do tác động của
nhiều yếu tố sẽ bộc lộ sự bất cập. Điều chỉnh chính sách là một hoạt động cần
thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực thi chính sách. Nó
được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày
càng phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu quản lý.
Hoạt động điều chỉnh chính sách phải chính xác, hợp lý, nếu không sẽ

làm sai lệch, biến dạng chính sách, làm cho chính sách trở nên kém hiệu quả,
thậm chí không tồn tại được.
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách bình đẳng giới.
Thực thi chính sách bình đẳng giới diễn ra trên địa bàn rộng, do nhiều
cơ quan, tổ chức và các cá nhân tham gia. Trình độ, năng lực tổ chức điều
hành của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước không đồng đều, bên
canh đó các điều kiện về văn hóa, xã hội, môi trường, kinh tế, chính trị ở các
địa phương không giống nhau; do vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải tiến hành theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách bình đẳng
giới. Ngoài ra, công tác kiểm tra, đôn đốc này còn giúp cho các đối tượng
thực thi chính sách biết được những tồn tại, hạn chế của mình để điều chỉnh,
bổ sung, hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính
sách bình đẳng giới.
- Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm.
Đánh giá tổng kết được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo,
điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách. Đối
tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính

18


sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Cơ sở để đánh giá
tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành, thực thi chính sách trong các cơ quan
nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được xây dựng.
Bên cạnh đó, còn xem xét đánh giá việc thực thi của các đối tượng tham gia
thực hiện chính sách bao gồm đối tượng hưởng lợi trực tiếp và gián tiếp từ
chính sách.
1.3.2. Các phương pháp thực hiện chính sách bình đẳng giới
- Phương pháp hành chính:
Phương pháp này được dùng có hiệu quả trong việc thực hiện chính

sách bình đẳng giới trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình, xử phạt
hành vi vi phạm trong các Luật về bình đẳng giới, vi phạm quyền con người.
- Phương pháp kinh tế:
Đây là phương pháp có tác động rất nhanh, hiệu quả có thể nhìn thấy rõ
ràng, nhanh chóng; là cách thức tác động lên các đối tượng tham gia thực hiện
chính sách bình đẳng giới bằng lợi ích vật chất. Phù hợp với các chính sách
bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, lao động việc làm…
- Phương pháp kết hợp:
Phương pháp kết hợp này thường mang lại hiệu quả đa chiều, có nhiều
yếu tố tích cực và mang tính bền vững khi sử dụng phương pháp kết hợp giữa
tuyên truyền và giáo dục, và cũng thường xuyên sử dụng hành chính và kinh
tế để giải quyết vấn đề. Phương pháp này tập trung thực hiện chính sách bình
đẳng giới trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình và phòng chống bạo lực gia
đình…
- Phương pháp giáo dục, thuyết phục:
Phương pháp này hiệu quả đem lại khá chậm nhưng lại chắc, nó đòi hỏi
người thực hiện cần phải có kỹ năng tuyên truyền, vận động tốt. Khi sử dụng
phương pháp này cần sử dụng sức mạnh của cả hệ thống chính trị; đặc biệt là
đối với các Hội - đoàn thể tại cộng đồng dân cư đóng vai trò rất lớn.
1.3.3. Các chủ thể thực hiện chính sách bình đẳng giới

19


- Chính phủ
Chính phủ chỉ đạo, tổ chức thực hiện pháp luật; chỉ đạo, tổ chức công
tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; việc lồng
ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo
thẩm quyền. Phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, chỉ đạo các cơ quan hữu quan trong việc tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức của nhân dân về bình đẳng giới.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới
Các cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới, cụ thể là Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội có trách nhiệm xây dựng và trình Chính phủ ban
hành hoặc ban hành, hướng dẫn thực hiện chính sách bình đẳng giới theo
thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời tham gia đánh giá việc
thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong việc xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết
khiếu nại, tố cáo về thực hiện chính sách bình đẳng giới; tổng kết, báo cáo
Chính phủ việc thực hiện Mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
- Các bộ và cơ quan ngang bộ
Các Bộ và cơ quan ngang Bộ tiến hành rà soát văn bản quy phạm pháp
luật
hiện hành để bổ sung, sửa đổi, hủy bỏ, ban hành mới theo thẩm quyền hoặc
trình cơ quan có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi, hủy bỏ, ban hành mới văn bản
quy phạm
pháp luật nhằm thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực mà
mình quản lý. Phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước đánh giá thực trạng
thực hiện chính sách bình đẳng giới trong lĩnh vực mà mình quản lý; thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thực
hiện chính sách bình đẳng giới.
- Uỷ ban nhân dân các cấp
UBND các cấp xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về

20


bình đẳng giới tại địa phương; tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở
địa phương; trình Hội đồng nhân dân ban hành hoặc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về thực hiện bình đẳng giới theo thẩm quyền; tổ chức, chỉ đạo

các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về chính sách và pháp luật về bình đẳng
giới cho nhân dân trên địa bàn; thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thực hiện chính sách bình đẳng
giới.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tham gia
góp ý xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia quản lý
nhà nước về bình đẳng giới theo quy định của pháp luật; tuyên truyền, vận
động nhân dân, hội viên, đoàn viên thực hiện chính sách bình đẳng giới; tham
gia giám sát việc thực hiện chính sách bình đẳng giới.
- Hội liên hiệp phụ nữ các cấp
Hội liên hiệp phụ nữ các cấp ngoài việc tham gia tổ chức thực hiện
chính sách bình đẳng giới như là một thành viên của Ủy ban MTTQ Việt Nam
đã được nêu ở trên thì Hội liên hiệp phụ nữ còn tổ chức các hoạt động hỗ trợ
trực tiếp hay gián tiếp cho phụ nữ trên nhiều lĩnh vực nhằm góp phần thực
hiện chính sách bình đẳng giới. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan
bồi dưỡng, giới thiệu phụ nữ đủ tiêu chuẩn tham gia lãnh đạo, quản lý các cơ
quan trong hệ thống chính trị; phụ nữ đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em gái theo quy định của pháp luật.
Thực hiện phản biện xã hội đối với việc tổ chức thực hiện chính sách về bình
đẳng giới.
- Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội.
Trong hoạt động cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội cần xác định thực trạng, xây dựng và bảo đảm thực hiện chính sách
bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức mình. Triển khai kế hoạch thực hiện

21


chính sách bình đẳng giới cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động

do mình quản lý. Bảo đảm sự tham gia của cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động nam, nữ trong việc thực hiện pháp luật, chương trình, kế
hoạch, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội có liên quan đến thực hiện
chính sách bình đẳng giới.
- Gia đình
Tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình nâng cao nhận thức,
hiểu biết, tham gia các hoạt động về bình đẳng giới. Chăm sóc sức khoẻ sinh
sản và tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện quyền làm mẹ an toàn. Đối xử công
bằng, tạo cơ hội giữa con trai, con gái như nhau trong học tập, lao động và
tham gia các hoạt động khác. Giáo dục các thành viên có trách nhiệm chia sẻ,
phân công công việc gia đình hợp lý
- Tất cả mọi công dân
Tất cả mọi người cần học tập nâng cao hiểu biết; nhận thức về giới và
bình đẳng giới. Giám sát việc thực hiện chính sách bình đẳng giới của cộng
đồng, của các cơ quan, tổ chức và của tất cả mọi người. Phê phán, ngăn chặn
các hành vi phân biệt đối xử về giới.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách bình
đẳng giới
Ở Việt Nam, quá trình tổ chức thực thi chính sách diễn ra trong thời
gian dài và có liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân; do đó kết quả tổ chức
thực thi chính sách bình đẳng giới cũng sẽ chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố
như:
* Các nhân tố chủ quan
- Điều kiện vật chất cần cho quá trình thực thi chính sách bình đẳng
giới.

Để thực hiện chính sách trong nền kinh tế thị trường hội nhập hiện

nay, Nhà nước luôn phải tăng cường các nguồn lực vật chất và nhân sự, trong
đó nguồn lực vật chất cần tăng nhanh về cả số lượng lẫn chất lượng.


22


- Năng lực thực thi chính sách của cán bộ - công chức trong bộ máy
quản lý nhà nước. Đây là yếu tố chủ quan có vai trò quyết định đến kết quả
thực thi chính sách bình đẳng giới. Năng lực thực thi của cán bộ - công chức
là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, năng lực
thực tế, năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ
động ứng phó được với những tình huống phát sinh trong tương lai… Năng
lực thực tế và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở khả năng
thực hiện các quy trình và thủ tục hành chính để giải quyết các mối quan hệ
giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong xã hội có liên quan
đến thực hiện chính sách bình đẳng giới.
- Thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi
chính sách bình đẳng giới. Trên thực tế, quy trình thực thi chính sách bình
đẳng giới được bắt đầu từ việc tuyên truyền, vận động về chính sách và thực
thi chính sách. Vấn đề này được thực hiện tốt sẽ củng cố thêm lòng tin của
người dân vào chính sách bình đẳng giới của nhà nước.
- Sự đồng tình ủng hộ của người dân: là nhân tố có vai trò đặc biệt
quan trọng, quyết định sự thành bại của chính sách bình đẳng giới. Đây là vấn
đề hết sức lớn lao bởi việc thực hiện các mục tiêu chính sách không chỉ do cơ
quan nhà nước làm, mà phải có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong
xã hội.
* Các yếu tố khách quan
Tính chất vấn đề cũng như môi trường thực thi chính sách công là yếu
tố khách quan làm cho chính sách công thực thi tốt trong thực tiễn, hoặc cản
trở, gây khó khăn trong quá trình thực thi chính sách. Môi trường thực thi
chính sách bình đẳng giới là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường tự nhiên và quốc tế,…

Môi trường thực thi chính sách chứa đựng toàn bộ các thành phần vật chất,
phi vật chất tham gia thực hiện chính sách như các nhóm lợi ích có được từ

23


chính sách trong xã hội, các điều kiện vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế, bầu
không khí chính trị, xã hội trật tự, quan hệ quốc tế mở rộng.
Việc thành công của chính sách bình đẳng giới do nhiều yếu tố cấu
thành, nhân tố cấu thành. Do đó, để cho việc thực thi chính sách bình đẳng
giới thực hiện được đúng mục tiêu quản lý thì cần phải phối hợp các yếu tố,
bộ phận, đối tượng tác động và liên quan. Hoạt động phân công, phối hợp
diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách bình đẳng giới một cách chủ động,
sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả chính sách bình đẳng giới.
Chính sách bình đẳng giới được thực thi trên phạm vi không gian rất
rộng lớn, tối thiểu cũng là một địa phương vì thế số lượng các đối tượng cá
nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Số lượng tham gia bao
gồm các đối tượng tác động của chính sách bình đẳng giới, công dân thực
hiện và bộ máy tổ chức thực thi của nhà nước. Bên cạnh đó, các hoạt động
nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách bình đẳng giới diễn ra cũng hết sức
phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian. Chúng đan xen nhau, thúc
đẩy hay kìm hãm nhau theo quy luật. Bởi vậy, muốn tổ chức thực thi chính
sách bình đẳng giới có hiệu quả phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các
cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia
thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính
sách bình đẳng giới

24



×