Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện phù mỹ, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.98 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THANH QUANG

THỜI HẠN TRONG ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THANH QUANG

THỜI HẠN TRONG ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS PHẠM MẠNH HÙNG

HÀ NỘI – năm 2020



LỜI CAM ĐOAN

Học viên xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng bản
thân. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Mai Thanh Quang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỜI HẠN TRONG ĐIỀU
TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự ................................................................................................................ 9
1.2. Khái quát lịch sử các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................... 13
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ THỜI HẠN TRONG ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI HUYỆN PHÙ
MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH ...................................................................................... 20
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thời hạn trong điều tra,
truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..................................................................... 20
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời hạn
trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình
Định ...................................................................................................................... 31

2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ............................................................. 40
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THỜI
HẠN TRONG ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH
SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH........................... 52
3.1. Các yêu cầu đối với nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hiện
hành về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ................... 52


3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hiện
hành về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn
huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định thời gian tới .......................................................... 58
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:


Cơ quan điều tra

CSĐT:

Cảnh sát điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

KSV:

Kiểm sát viên

PCTP:

Phòng, chống tội phạm

TAND:

Tòa án nhân dân

THTT:

Tiến hành tố tụng

TNHS:

Trách nhiệm hình sự


TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
TTHS là quá trình tiến hành giải quyết VAHS theo quy định của pháp
luật TTHS bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan THTT; người THTT;
người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào
việc giải quyết vụ án theo quy định của luật TTHS. Nói cách khác, TTHS là
trình tự và thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS và thi hành bản án,
quyết định của toà án do pháp luật TTHS quy định [35, tr.5]. Quá trình giải

quyết VAHS bao gồm các giai đoạn nhất định do luật định. Ở mỗi giai đoạn
do cơ quan và người THTT khác nhau đảm nhiệm. Những mối quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tố tụng giữa các cơ quan và người THTT với người
tham gia tố tụng được pháp luật TTHS điều chỉnh, trong đó quy định các
quyền và nghĩa vụ của cơ quan, người THTT cũng như của người tham gia tố
tụng. Thủ tục TTHS được pháp luật quy định đảm bảo cho việc điều tra, truy
tố, xét xử được khách quan, toàn diện, chính xác và công bằng; bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người có liên quan.
Trong các thủ tục TTHS thì thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm VAHS là một nội dung quan trọng của pháp luật TTHS, có ý nghĩa bảo
đảm quyền con người, quyền công dân, đấu tranh PCTP và vi phạm pháp luật.
Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS là nội dung quan trọng
của pháp luật TTHS, đồng thời là bộ phận cấu thành của thủ tục TTHS hiện
diện trong tất cả các mô hình TTHS trên thế giới, xuyên suốt quá trình lịch sử
[6, tr.3]. Việc quy định thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS
hợp lý, khoa học là cơ sở quan trọng để bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể tham gia quan hệ này, đồng thời tăng cường trách nhiệm
của các cơ quan THTT, người THTT trong việc phát hiện và xử lý tội phạm
1


nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động TTHS. BLTTHS năm 2015
được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung các quy định về thời hạn tố tụng
trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Bên cạnh phát triển kinh tế - xã hội, tại địa bàn huyện Phù Mỹ thời gian
qua tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững,
tuy nhiên tình hình tội phạm trên địa bàn vẫn có những diễn biến khá phức
tạp, có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức khác nhau, thủ đoạn hoạt
động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trong khi đó, công tác xử lý các VAHS,
các đối tượng gây án còn nhiều bất cập, gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp

dụng các quy định pháp luật TTHS, nhất là vấn đề áp dụng quy định về thời
hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS còn nhiều hạn chế, bất cập.
Thực tiễn cho thấy hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hiện nay vẫn theo nếp
cũ, còn chậm chạp, kéo dài, tình trạng vi phạm thời hạn điều tra, truy tố, xét
xử sơ thẩm còn xảy ra, số lượng vụ án áp dụng thủ tục rút gọn chiếm tỷ lệ nhỏ
[37, tr.11].
Vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện lý luận, nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trong TTHS tại
huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định là một đòi hỏi hết sức cấp bách đảm bảo cho
việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh PCTP đảm bảo sự ổn định về
TTATXH, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn trên, xét thấy cần phải nghiên cứu
sâu hơn, đầy đủ hơn về nội dung này, đó cũng là lý do tôi chọn nghiên cứu đề
tài: “Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực
tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định" làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua ở nước ta đã có một số công trình khoa học, như:
giáo trình, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, bài báo khoa học nghiên cứu, đề
2


cập đến thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp luật
TTHS Việt Nam, cụ thể như:
- “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Học viện Cảnh sát
nhân dân, Nxb.CAND, Hà Nội, 2005;
- “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Trường Đại học
kiểm sát Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016;
- “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb. CAND, 2008;
- “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự” do GS.TS Võ Khánh

Vinh (chủ biên), Nxb. CAND, 2007;
- “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” do TS. Trần
Văn Biên - TS. Đinh Thế Hưng (đồng chủ biên), Nxb. Thế giới, 2017;
- “Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (xuất bản lần thứ hai”
của Trung tướng GS. TS. Nguyễn Ngọc Anh, Luật sư. TS. Phan Trung Hoài,
Nxb. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, 2018;
- “Bình luận Khoa học Bộ luật tố tụng hình sự 2015” của TS. Phạm
Mạnh Hùng, Nxb. Lao động, năm 2018;
- Sách “Chỉ dẫn tra cứu áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”
của TS. Chu Thành Quang (Chủ biên), Nxb. Thông tin và Truyền thông, năm
2018;
- Luận án Tiến sĩ “Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự và
thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” của Hoàng Anh Tuyên, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2014;
- Luận văn Thạc sĩ “Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của Phan Thị Thu Thủy, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà
Nội, 2014;
- Luận văn Thạc sĩ "Thời hạn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
3


Nam" của Đặng Thị Thu Hương, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2005;
- Bài viết “Việc áp dụng quy định về thời hạn phục hồi điều tra” của
Phan Hồng Thủy, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2005;
- Bài viết “Chế định thời hạn điều tra trong tố tụng hình sự - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, của ThS. Huỳnh Quốc Hùng, Tạp chí Kiểm sát
số 21/2006;
- Bài viết “Một số bất cập trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
về thời hạn điều tra và tạm giam để điều tra” của PGS. TS Hoàng Thị Minh
Sơn, Tạp chí Luật học số 11/2010;

- Bài viết “Một số vấn đề lý luận về thời hạn tố tụng hình sự” của
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí Luật học số 1/2016.
Những công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến thời hạn trong điều
tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam. Các công
trình này đã nghiên cứu cơ sở lý luận về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét
xử sơ thẩm VAHS, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS. Tuy nhiên, chưa có
công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng thời hạn
trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS tại địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh
Bình Định. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề như đã nói ở trên là đáp ứng được
yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thời hạn trong điều tra, truy
tố, xét xử sơ thẩm VAHS.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về thời hạn trong
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS hiện nay trên địa bàn huyện Phù Mỹ,
tỉnh Bình Định. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế, những vi phạm của việc
4


áp dụng các quy định này trong thực tiễn.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn
huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ
thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa và thống nhất nhận thức một số vấn đề lý luận và pháp
lý cơ bản về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp

luật TTHS Việt Nam.
- Khảo sát thu thập thông tin, số liệu thực tế nhằm phân tích tình hình;
đánh giá thực trạng quy định và thực tiễn áp dụng các quy định về thời hạn
trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh
Bình Định.
- Nêu lên những yêu cầu của cải cách tư pháp và yêu cầu hoàn thiện
pháp luật, từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
VAHS trong thời gian tới trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS
theo pháp luật TTHS Việt Nam.
- Các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS
theo pháp luật TTHS Việt Nam quy định tại BLTTHS năm 2015 và thực tiễn
áp dụng của CQĐT, VKS, Tòa án về các quy định về thời hạn trong điều tra,
truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
5


- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu thời hạn trong điều tra, truy tố, xét
xử sơ thẩm VAHS được quy định trong BLTTHS năm 2015.
- Phạm vi không gian nghiên cứu: địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình
Định.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: nghiên cứu pháp luật hiện hành và
các số liệu điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn huyện Phù
Mỹ, tỉnh Bình Định trong phạm vi 05 năm gần đây (từ năm 2015 đến hết năm
2019).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê
nin về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói
riêng; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của
Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, nhà nước
pháp quyền và vấn đề quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp thống kê: được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu
thực tế thu thập tại địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định nhằm minh họa,
làm rõ thực trạng của tình hình áp dụng các quy định về thời hạn trong điều
tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
từ năm 2015 đến năm 2019 trong chương 2 của luận văn.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt
trong luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý, so sánh, phân tích các
tài liệu, số liệu, phát hiện, luận giải về các nội dung có liên quan đến đề tài
6


luận văn; tổng hợp các tài liệu, số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng về thời hạn
trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS để rút ra kết luận.
- Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án điển hình (được sử dụng chủ
yếu tại chương 2): Để có cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, đánh giá
trong luận văn, tác giả đã nghiên cứu, tìm hiểu hồ sơ một số vụ án trong đó có
áp dụng các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
VAHS tại địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận khoa học
về thời hạn trong TTHS nói chung, thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm VAHS nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong
thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự và TTHS để ngăn chặn, đấu tranh PCTP trên địa bàn huyện Phù Mỹ,
tỉnh Bình Định.
Luận văn là công trình khoa học khảo sát một cách toàn diện về thực
tiễn áp dụng thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp
luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định từ năm 2015
đến năm 2019. Làm rõ những kết quả đạt được, các hạn chế, nguyên nhân
những hạn chế, từ đó đề xuất các kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định
của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng các quy định về thời
hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trong đấu tranh PCTP ở địa
bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
7


phần nội dung của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương.
Chương 1: Lý luận chung về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về thời hạn trong điều tra,
truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại huyện Phù Mỹ,
tỉnh Bình Định
Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định của pháp luật hiện hành về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định


8


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỜI HẠN TRONG ĐIỀU TRA, TRUY
TỐ, XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thời hạn trong điều tra, truy tố, xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm
2010: "Thời hạn là khoảng thời gian có giới hạn nhất định để làm việc gì đó"
[38, tr.1121]. Theo Từ điển Luật học của Viện nghiên cứu pháp lý - Bộ Tư
pháp thì “Thời hạn là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến
thời điểm khác" [39, tr.718] và “Thời hạn tố tụng là thời gian được pháp luật
quy định để tiến hành các hành vi tố tụng" [39, tr.720]. Điều 144 Bộ luật Dân
sự năm 2015 quy định: “1. Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ
thời điểm này đến thời điểm khác. 2. Thời hạn có thể được xác định bằng
phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra.”
[27, tr. 54]. Điều 182 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “1. Thời hạn
tố tụng là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm
khác để người THTT người tham gia tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan thực hiện hành vi tố tụng do Bộ luật này quy định. 2. Thời hạn tố
tụng có thể được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự
kiện có thể sẽ xảy ra.” [28, tr.171].
Nhìn chung, nếu áp dụng các khái niệm này cho thời hạn TTHS thì
chưa đầy đủ, trọn vẹn, thời hạn TTHS phải do pháp luật TTHS quy định. Thời
hạn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong TTHS, bởi thời hạn chính là giới
hạn, thời gian dành cho các chủ thể của TTHS thực hiện các quyền và nghĩa

9


vụ pháp lý của mình. BLTTHS năm 2015 không đưa ra một định nghĩa riêng
về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS, tuy nhiên theo tinh
thần Điều 134 BLTTHS năm 2015 có thể hiểu khái niệm thời hạn trong điều
tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS là khoảng thời gian được xác định từ thời
điểm này đến thời điểm khác do BLTTHS quy định cho từng hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS và hành vi tố tụng trong mỗi giai đoạn cụ
thể [36, tr.34].
Từ những phân tích trên, có thể thấy, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử
sơ thẩm VAHS chỉ do pháp luật TTHS quy định. Thực tiễn cho thấy có nhiều
loại thời hạn khác nhau và việc quy định các thời hạn cũng không giống nhau.
Thời hạn TTHS không chỉ đơn thuần là giới hạn thời gian mà còn được xác
định với tư cách là một sự kiện pháp lý đặc biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong những trường hợp luật
định. Trong giới hạn thời gian hoặc tại thời điểm khi thời hạn này kết thúc thì
làm phát sinh hậu quả pháp lý. Xét về tính chất, thời hạn TTHS vừa mang
tính khách quan của thời gian, vừa mang tính chủ quan của chủ thể trong việc
đặt ra thời gian để tiến hành các hoạt động, hành vi tố tụng nhằm đạt được
mục tiêu, yêu cầu cụ thể.
Chúng tôi cho rằng nội hàm khái niệm thời hạn trong điều tra, truy tố,
xét xử sơ thẩm VAHS gồm:
- Thứ nhất, thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS do
pháp luật TTHS quy định;
- Thứ hai, thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS là
khoảng thời gian được xác định;
- Thứ ba, trong khoảng thời gian đã xác định đó để tiến hành các hoạt
động tố tụng, hành vi tố tụng, cụ thể là hoạt động điều tra, truy tố và hoạt
động xét xử sơ thẩm VAHS.

10


Trên cơ sở những phân tích như trên, chúng tôi đưa ra khái niệm: “Thời
hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khoảng thời gian
do pháp luật tố tụng hình sự quy định, trong đó các chủ thể tố tụng hình sự
thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, hành
vi tố tụng khác nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ cụ thể của hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”.
1.1.2. Đặc điểm của thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Một là, thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được quy
định trong BLTTHS
Thời hạn trong TTHS được nêu rõ trong BLTTHS, yêu cầu các cơ quan
và người có thẩm quyền THTT áp dụng một cách nghiêm chỉnh.
Hai là, mỗi thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự đều gắn liền với việc giải quyết các nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Trong mỗi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khác nhau đặt ra
cho các chủ thể mục tiêu, trình tự, thủ tục, nội dung nhiệm vụ và yêu cầu cụ
thể cần giải quyết trong thời hạn đó [36, tr.38].
Ba là, các thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS nằm
trong một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
Mỗi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm được xác định bằng thời
điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và đều là
một phần độc lập tương đối trong tiến trình TTHS. Tuy nhiên, các thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm nằm trong một chỉnh thể thống nhất của thời
hạn giải quyết VAHS, được bắt đầu từ khi khởi tố vụ án đến khi ra bản án,
quyết định hình sự sơ thẩm. Các thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
VAHS có liên quan hết sức chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau tạo thành sự

11


đồng bộ, thống nhất trong toàn bộ quá trình giải quyết VAHS cũng như ở
từng giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Bốn là, mỗi loại thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được
áp dụng đối với những chủ thể xác định, buộc những chủ thể này phải thực
hiện các hoạt động, hành vi, quyết định tố tụng trong thời hạn luật định
Quá trình giải quyết VAHS nói chung, quá trình điều tra, truy tố, xét xử
sơ thẩm VAHS nói riêng phải do nhiều cơ quan, nhiều người THTT thực hiện
với sự tham gia của những người tham gia tố tụng khác nhau. Quá trình điều
tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS phải trải qua các bước với các thời hạn
TTHS tương ứng được áp dụng đối với chủ thể đặc trưng, tương ứng trong
giai đoạn đó. Ví dụ: chẳng hạn, trong giai đoạn điều tra VAHS được áp dụng
đối với chủ thể đặc trưng là CQĐT, theo đó, CQĐT trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải tiến hành các biện pháp, hoạt động điều tra nhằm chứng
minh VAHS [18, tr.45].
Năm là, mỗi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được kết
thúc bằng hành vi, quyết định TTHS khác nhau
Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được tính theo quy
định của BLTTHS nên chỉ có thể xác định thời điểm kết thúc của loại thời hạn
này bằng các quyết định tố tụng của các cơ quan THTT có thẩm quyền ban
hành trong quá trình giải quyết VAHS. Ví dụ: Thời hạn trong giai đoạn điều
tra được kết thúc bằng việc CQĐT phải ra bản kết luận điều tra và việc điều
tra kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết
luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra [26, tr.159].
Sáu là, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được quy định
ở dạng tối đa và có thể gia hạn, phục hồi
Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được quy định ở dạng
tối đa bởi vì tính phức tạp của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, tạo điều kiện

12


cho các chủ thể THTT sự chủ động về mặt thời gian để triển khai các hoạt
động TTHS. Bên cạnh đó, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS
đều có thể được gia hạn, thể hiện sự linh hoạt và mềm dẻo của thời hạn
TTHS, bảo đảm cho việc giải quyết các VAHS có căn cứ, hợp lý, hợp pháp.
1.2. Khái quát lịch sử các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt
lớn của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân
phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật
mới nhằm bảo vệ chính quyền còn non trẻ và xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân. Chính phủ đã ban hành một số sắc luật, sắc lệnh và
các văn bản hướng dẫn quy định về thủ tục TTHS góp phần nâng cao hiệu
quả việc xử lý tội phạm được chặt chẽ, nhanh chóng, kịp thời, cụ thể:
Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa quy định về bảo vệ tự do cá nhân, trong đó có đề cập đến
các quy định về thời hạn tố tụng, bao gồm: thời hạn phải hỏi cung không quá
24 giờ kể từ khi bị bắt (Điều thứ 2); thời hạn giam cứu, thời hạn gia hạn giam
cứu dựa vào căn cứ phân loại tội phạm là tội tiểu hình và tội đại hình, theo đó
thời hạn giam cứu trước khi xét xử không quá 01 tháng đối với tội tiểu hình,
không quá 03 tháng đối với tội đại hình (Điều thứ 3); thời hạn gia hạn giam
cứu không quá 01 tháng đối với tội tiểu hình, không quá 03 tháng đối với tội

13


đại hình (Điều thứ 4); thời hạn giam cứu sau khi tòa án tuyên án là không quá
03 tháng kể từ ngày tuyên án (Điều thứ 5) [12, tr.3-4].
Sắc lệnh số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 của Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả
xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân tiếp tục quy định một số
loại thời hạn TTHS như: thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ lúc nhận
can phạm để xét xử và hỏi cung (Điều 5); thời hạn tạm giam và gia hạn tạm
giam dựa trên căn cứ mức hình phạt mà luật hình sự quy định, theo đó thời
hạn tạm giam không quá 02 tháng đối với các vụ thường phạm mà luật pháp
quy định hình phạt từ 05 năm tù trở xuống, không quá 04 tháng đối với các vụ
phạm đến an toàn nhà nước và các vụ thường phạm mà luật pháp quy định
hình phạt trên 05 năm tù [22, tr.3].
Nghị định số 301/TTg ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ hướng
dẫn thi hành Sắc lệnh số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự
do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của
nhân dân hướng dẫn thời hạn hỏi cung không quá 24 giờ kể từ khi tạm giữ
can phạm (Điều 4); thời hạn đưa vụ án ra xét xử được xác định căn cứ vào
mức hình phạt mà luật pháp quy định đối với tội phạm đó, cụ thể là các tòa án
phải xét xử trong thời hạn 02 tháng đối với những vụ án mà luật pháp phạt từ
05 năm tù trở xuống và trong thời hạn 04 tháng đối với những vụ án mà luật
pháp phạt trên 05 năm tù [30, tr.3].
Nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết các VAHS, trong thời kỳ này có các
văn bản pháp luật quy định về thủ tục rút gọn như: Thông tư số 10-TATC
ngày 08/7/1974 của TAND tối cao quy định về thủ tục rút ngắn trong việc
điều tra, truy tố, xét xử một số VAHS ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang,
đơn giản, rõ ràng; Chỉ thị số 954-CP ngày 17/8/1976 của Bộ Nội vụ về việc
áp dụng thủ tục rút gọn trong việc điều tra; Thông tư số 01-TTLN ngày

14


31/5/1985 của liên ngành TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp quy
định về công tác điều tra, truy tố và xét xử theo thủ tục rút ngắn.
Có thể thấy, trong thời kỳ này, Nhà nước ta tập trung vào nhiệm vụ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước nên chưa có điều kiện hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp
luật về tư pháp hình sự nói riêng. Do vậy, các quy định về thời hạn TTHS chưa
có hệ thống, còn sơ sài, nằm tản mạn, rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau, chủ yếu được ghi nhận trong các văn bản dưới luật như sắc lệnh, sắc luật
hoặc văn bản hướng dẫn của Chính phủ. Các văn bản này chỉ quy định thời hạn
TTHS liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo như: thời hạn tạm giữ, tạm giam, hỏi cung bị can, bị cáo dựa trên tiêu
chí phân loại tội phạm hoặc theo mức hình phạt đối với tội phạm được thực
hiện; không quy định cụ thể về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử VAHS.
BLTTHS đầu tiên của nước ta được Quốc hội ban hành năm 1988,
trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới. BLTTHS năm 1988 đã góp phần
quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế
độ XHCN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, phục vụ tích
cực công cuộc đổi mới, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Liên quan
đến chế định thời hạn TTHS, tư tưởng chỉ đạo xây dựng Bộ luật là không có
hoạt động tố tụng nào lại không bị ràng buộc bởi thời hạn để đề cao trách
nhiệm của các chủ thể THTT, buộc những chủ thể này phải thực hiện các hoạt
động tố tụng trong thời hạn luật định, bảo đảm việc giải quyết các VAHS
nhanh chóng, kịp thời, chống sự tùy tiện, kéo dài. Cụ thể, BLTTHS năm 1988
quy định nhiều loại thời hạn tố tụng như sau:
Căn cứ vào các giai đoạn tố tụng, thời hạn TTHS được phân chia thành
thời hạn tố tụng trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành

15


án hình sự. Cùng với các giai đoạn tố tụng còn có thời hạn tạm giữ, thời hạn
tạm giam phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành
án hình sự.
Căn cứ vào định lượng về thời gian, thời hạn TTHS được phân chia
thành: thời hạn TTHS tính theo giờ, thời hạn TTHS tính theo ngày, thời hạn
TTHS tính theo tháng, thời hạn TTHS tính theo năm và thời hạn TTHS vừa
tính theo ngày vừa tính theo tháng, cụ thể là: Thời hạn tính theo giờ như thời
hạn gửi quyết định khởi tố VAHS là 24 giờ (Điều 87), trong thời hạn 24 giờ
phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt (Điều 65)... Thời
hạn được tính theo ngày như thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày đêm, có thể
gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày đêm (Điều 69); thời hạn giải quyết
khiếu nại là 15 ngày kể từ khi nhận được khiếu nại (Điều 144)... Thời hạn tính
theo tháng như thời hạn điều tra không quá 04 tháng kể từ khi khởi tố VAHS
(Điều 97)… Thời hạn tính theo năm như thời hạn hoãn thi hành án phạt tù đến
01 năm đối với người bị kết án (Điều 231), thời hạn kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án là 01 năm kể từ
ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật (Điều 247). Thời hạn tính
theo ngày và tháng như thời hạn chuẩn bị xét xử là 45 ngày đối với tội phạm
ít nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ
sơ vụ án (Điều 151) [24].
Nhìn chung, đa số quy định về thời hạn tố tụng trong BLTTHS năm
1988 được xây dựng dựa trên tiêu chí phân loại tội phạm trong BLHS năm
1985, đồng thời có cân nhắc đến tiêu chí về tính chất phức tạp của vụ án để
quy định việc gia hạn thời hạn. Tuy nhiên, có một số loại thời hạn tố tụng
được quy định không theo tiêu chí phân loại tội mà quy định chung cho tất cả
các loại tội như: thời hạn điều tra (kể cả tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm
nghiêm trọng) là 04 tháng kể từ khi khởi tố VAHS (Điều 97). Ngoài ra, một

16


số thời hạn tố tụng được quy định còn căn cứ vào tính chất của vụ án kết hợp
với điều kiện của chủ thể được giao thẩm quyền tố tụng, chẳng hạn thời hạn
điều tra của bộ đội biên phòng, hải quan và kiểm lâm đối với hành vi phạm tội
quả tang, chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm trọng là 15 ngày kể từ ngày ra quyết
định khởi tố vụ án (khoản 1 Điều 93) [24, tr.151].
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS được Quốc hội thông
qua năm 1990 đã sửa đổi, bổ sung quy định một số thời hạn tố tụng theo
hướng sau: tăng một số loại thời hạn tố tụng. Năm 1992, Quốc hội thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 1988. Để bảo đảm thi
hành BLHS năm 1999, năm 2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTHS năm 1988, trong đó sửa đổi, bổ sung các quy
định về thời hạn tố tụng cho phù hợp với việc phân loại tội phạm thành 4 loại
trong BLHS năm 1999, cụ thể là: sửa đổi thời hạn tạm giam (Điều 71); thời
hạn điều tra (Điều 97); thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại
(Điều 98); thời hạn truy tố và thời hạn tạm giam trong giai đoạn truy tố (Điều
142); thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm (Điều 151).
Qua nghiên cứu sự phát triển của chế định thời hạn tố tụng trong
BLTTHS năm 1988 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật này
có thể thấy, so với các giai đoạn trước đây, thời hạn tố tụng trong Bộ luật này
được quy định cụ thể, chặt chẽ và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, BLTTHS năm 1988
không giới hạn về mặt thời gian đối với hoạt động điều tra và tạm giam để
điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, đồng thời
không quy định thủ tục rút gọn.
1.2.2. Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quy
định trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003
Công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính, cải cách tư pháp
đang được Đảng và Nhà nước ta tích cực triển khai và coi đây là nhân tố quan

17


trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,
góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong bối cảnh đó, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi. Để tiếp tục thực
hiện, đẩy mạnh hơn công cuộc cải cách tư pháp, ngày 02/01/2002, Bộ Chính
trị đã ra Nghị quyết số 08- NQ/TƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới. Trong Nghị quyết này đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể
của TTHS đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện để thể
chế hóa thành những quy định của BLTTHS, tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất
lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Mặt khác, thời
gian qua cũng đã có nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành có các nội
dung liên quan đến TTHS như Luật tổ chức TAND năm 2002, Luật tổ chức
VKSND năm 2002; đồng thời cũng cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy
định BLTTHS năm 1988 cho phù hợp với các quy định của BLHS năm 1999
nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản pháp luật. Vì vậy,
việc sửa đổi toàn diện BLTTHS nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đấu
tranh PCTP và bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân [32, tr.3].
BLTTHS năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/7/2004, thay thế BLTTHS năm 1988 và các luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLTTHS năm 1990, năm 1992 và năm 2000. Thể chế hóa yêu cầu
cải cách tư pháp đề ra trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
gian tới, BLTTHS năm 2003 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung các
quy định về thời hạn tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bảo
đảm hầu hết các hoạt động, hành vi tố tụng đều bị ràng buộc bởi thời hạn.
Những sửa đổi, bổ sung này cùng với những quy định khác về thời hạn tố
tụng trong BLTTHS năm 2003 đã góp phần thúc đẩy các chủ thể THTT đẩy

18


nhanh, đẩy mạnh hoạt động tố tụng, phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử
lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp
của con người, của công dân.
Tiểu kết Chương 1
Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khoảng
thời gian do pháp luật tố tụng hình sự quy định, trong đó các chủ thể tố tụng
hình sự thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, hành vi tố tụng khác nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ cụ thể của hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 1 luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề về lý luận chung
về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS. Trong đó, tác giả đã
phân tích khái niệm, đặc điểm của thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm VAHS và các căn cứ xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
VAHS. Qua đó, luận văn đã làm rõ 05 căn cứ để xác định thời hạn điều tra,
truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS đó là: căn cứ vào phân loại tội phạm; căn cứ
vào tính chất phức tạp của VAHS; căn cứ vào khả năng giải quyết các VAHS;
căn cứ vào thủ tục tố tụng, vào nhiệm vụ đặt ra cho các giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử sơ thẩm; căn cứ vào yếu tố văn hóa, thói quen pháp lý. Chương
1, luận văn cũng đã trình bày lược sử các quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2015 về thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS. Trên cơ sơ lý luận về thời hạn trong
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS, tác giả sẽ trình bày, làm rõ về thực
trạng của công tác áp dụng các quy định của BLTTHS hiện hành về thời hạn
trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh
Bình Định trong những năm gần đây tại phần sau của luận văn.
19



×