Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Luận văn tội trộm cắp từ thực tiễn quận thanh khê, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.94 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN CAO CƯỜNG

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN CAO CƯỜNG

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng. Những kết luận
nghiên cứu, các số liệu được trình bày trong luận văn “Tội trộm cắp tài sản từ
thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” là trung thực, chính xác và
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.
Đà Nẵng, ngày tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Nguyễn Cao Cường


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN ............................................................................... 12
1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản ..................................... 12
1.2. Lịch sử quy định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt
Nam từ năm 1945 đến nay ......................................................................... 29
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM
CẮP TÀI SẢN TẠI QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG... 40
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản ................................. 40
2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội trộm cắp tài
sản ............................................................................................................... 42
CHƯƠNG 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI
SẢN ............................................................................................................. 64

3.1. Các yêu cầu đối với việc áp dụng đúng quy định của pháp luật hình
sự về tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 64
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự
và tội trộm cắp tài sản ................................................................................ 67
KẾT LUẬN ................................................................................................ 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 85


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

1

BLHS

Bộ luật hình sự

2

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

3


CAND

Công an nhân dân

4

KHXH

Khoa học xã hội

5

Nxb

Nhà xuất bản

6

TAND

Tòa án nhân dân

7

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

8


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản
2.1

của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giai

35

đoạn 2010 - 2019
Hình phạt được Tòa án nhân dân quận Thanh Khê,
2.2

thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng đối với người
bị kết án về tội trộm cắp tài sản giai đoạn 2015-2019

35



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do sự tác
động của mặt trái kinh tế thị trường nên các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội
trộm cắp tài sản nói riêng xảy ra khá phổ biến trên phạm vi cả nước cũng như ở
từng địa phương, trong đó có quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Thực trạng
này đặt ra vấn đề cần tăng cường đấu tranh phòng, chống
Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc phát hiện xử lý các tội xâm phạm
sở hữu, BLHS hiện hành quy định khá chi tiết, cụ thể các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng.
Mặc dù vậy, qua một thời gian áp dụng cho thấy quy định của Bộ luật này về tội
trộm cắp tài sản đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho
việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt.
Về mặt lý luận, xoay quanh một số vấn đề về tội trộm cắp tài sản vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau, nhất là vấn đề ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành
chính đối với hành vi trộm cắp tài sản.
Về mặt thực tiễn, do nhận thức được tầm quan trọng của việc xét xử các
vụ án về tội trộm cắp tài sản, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên
trong những năm qua TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng không ngừng
đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án, hạn chế đến mức thấp
nhất các bản án, quyết định bị sửa, bị hủy do lỗi chủ quan của thẩm phán. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn còn một số ít trường hợp áp dụng
pháp luật hình sự giải quyết vụ án về tội trộm cắp tài sản chưa đúng, dẫn tới việc
định tội danh cũng như quyết định hình phạt chưa thật sự chính xác, dẫn tới sai
sót cần phải khắc phục.
Như vậy, cả về lý luận, quy định của luật thực định và thực tiễn áp dụng
để giải quyết các vụ án về tội trộm cắp tài sản đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu
7



một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu để nhận thức và áp dụng đúng đắn
pháp luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trong thời
gian tới.
Xuất phát từ lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài:“Tội trộm cắp từ
thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ: Luật học, Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam được nhiều nhà
khoa học và cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu do vậy đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu khoa học về chủ đề này, điển hình là:
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm do GS. TS Võ
Khánh Vinh chủ biên, NXB khoa học xã hội, 2014; Bình luận khoa học chuyên
sâu BLHS Phần các tội phạm, Tập II. “Các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả
Đinh Văn Quế, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2005; Bình luận khoa học BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Phần các tội phạm, quyển I của tác giả
Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp 2018; cuốn sách chuyên khảo “Các tội xâm
phạm sở hữu trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)” của tác giả
Mai Bộ, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2010;
- Luận án tiến sĩ, luận văn cao học: “Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận án Tiến sĩ của
tác giả Nguyễn Văn Thanh, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016; “Trách nhiệm
hình sự đối với với các tội chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam”,
Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Tường Vy, Học viện Khoa học Xã hội năm 2016;
“Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc
Giang,”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH năm 2017; “Tội trộm cắp tài sản
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà
Nội”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Luận văn thạc sĩ, Học viện


8


KHXH năm 2018; “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH năm 2020.
- Các bài báo khoa học: “Về các tội xâm phạm sở hữu” của TS. Nguyễn
Mai Bộ, Tạp chí TAND số 7/2018, tr 1-9; “Một số điểm mới cần thống nhất
nhận thức và áp dụng pháp luật đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại BLHS
năm 2015” của tác giả Đinh Công Thành và Nguyễn Thị Tuyết Loan, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số 2/2018; tr 47-54; “Dấu hiệu pháp lý và cách phân loại
các tội xâm phạm sở hữu theo BLHS năm 2015” của tác giả Nguyễn Trường
Giang, Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11/2017, tr 18-23.
Như vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học về tội trộm cắp tài
sản theo Luật hình sự Việt Nam ở các cấp độ, phạm vi khác nhau. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về “Tội trộm cắp từ thực
tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng”. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài này
không trùng với các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố về chủ đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu luận văn là hướng tới làm sâu sắc thêm về lý luận,
đánh giá quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản qua các
thời kỳ và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở
đó, đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS hiện
hành về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
+ Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội trộm cắp tài sản;

+ Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về
tội trộm cắp tài sản của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, rút ra

9


những mặt tích cực cũng như hạn chế, sai sót và nguyên nhân;
+ Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của
BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp
tài sản và thực tiễn áp dụng của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tội trộm cắp tài sản dưới góc độ Luật hình sự và tố
tụng hình sự
Về thực tiễn, luận văn tập trung nghiên cứu hai nội dung cơ bản của áp
dụng pháp luật hình sự là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm
cắp tài sản trong xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Về thời gian: từ năm 2015 - 2019
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận (cơ sở lý luận)
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội
phạm và đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của
công dân.
Ngoài ra, luận văn còn dựa trên những tri thức nền tảng của khoa học luật
hình sự để luận giải đối tượng nghiên cứu trong luận văn của mình.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực

tiễn của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
chuyên gia… để làm rõ từng nội dung nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

10


Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm những
vấn đề lý luận của khoa học luật hình sự về tội phạm cụ thể như: khái niệm, các
dấu hiệu định tội, định khung hình phạt; dấu hiệu phân định giữa tội phạm với
hành vi trộm cắp không phải là tội phạm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để hoàn thiện các quy
định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản; khắc phục những hạn chế, sai
sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết vụ án của TAND, bảo đảm đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu,
giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được cơ cấu thành ba chương
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản
Chương 2. Thực tiễn về pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại quận
Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp
luật hình sự về tội trộm cắp tài sản.

11



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Trong khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm là khái niệm trung tâm,
khái niệm cơ bản nhất, đóng vai trò là cơ sở để xây dựng khái niệm về từng tội
phạm cụ thể, cũng như các khái niệm khác liên quan đến tội phạm.
Khái niệm tội trộm cắp tài sản là một trong những khái niệm về một tội
phạm cụ thể, do vậy phải được xây dựng dựa trên khái niệm tội phạm nói chung.
Hiện nay, xoay quanh khái niệm tội phạm có nhiều cách diễn đạt khác
nhau, nhất là việc phản ánh các dấu hiệu (đặc điểm) đặc trưng của tội phạm
trong nội hàm khái niệm. Song dựa trên định nghĩa lập pháp về khái niệm tội
phạm được quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành, đa số các nhà khoa học luật
hình sự Việt Nam đều thống nhất cho rằng: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, được quy định trong BLHS, do cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và phải bị xử lý hình sự”.
Từ khái niệm này cho thấy, tội phạm với tính chất là một hiện tượng xã
hội, pháp lý, có các đặc điểm đặc trưng khác với các hiện tượng không phải là tội
phạm, đó là:
+ Đặc điểm “Là hành vi nguy hiểm cho xã hội” (tính nguy hiểm cho xã
hội).
Trước hết, tội phạm phải là hành vi của con người. Hành vi bị coi là tội
phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều đó có nghĩa là: Về mặt khách
quan, hành vi bị coi là tội phạm phải gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây
thiệt hại đáng kể cho những lợi ích được pháp luật hình sự bảo vệ.

12



Đây là đặc điểm phản ánh nội dung chính trị - xã hội của tội phạm, đặc
điểm quan trọng nhất, quyết định các đặc điểm khác của tội phạm (đặc điểm về
hình thức và hậu quả pháp lý của tội phạm).
+ Đặc điểm “được quy định trong BLHS”
Đặc điểm này cho thấy chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS mới có thể bị coi là tội phạm, nghĩa là hành vi bị coi là tội
phạm phải là những xử sự trái với quy định của BLHS, cấm thực hiện hoặc cấm
không thực hiện (phải thực hiện khi có điều kiện để thực hiện). Đây chỉ là đặc
điểm về hình thức pháp lý của tội phạm, phản ánh đặc điểm nội dung của tội
phạm (tính nguy hiểm cho xã hội), nhưng có tính độc lập tương đối và có ý
nghĩa quan trọng. Bởi việc khẳng định tội phạm phải có đặc điểm này là biểu
hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế, là sự thừa nhận nguyên tắc đã được ghi
nhận trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hợp quốc: “Không ai bị kết án
vì một hành vi mà lúc họ thực hiện pháp luật quốc gia hay quốc tế không coi là
tội phạm” (Khoản 2 Điều 11)
+ Đặc điểm “do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”.
Đây là dấu hiệu về chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo
đó họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà luật định và không trong
“Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” do mắc bệnh tâm thần hoặc
bệnh khách làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của
mình. Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực pháp lý được Nhà nước xác định
và thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Đồng thời, năng lực trách nhiệm
hình sự cũng là điều kiện để chủ thể thực hiện hành vi có thể có lỗi. Do có ý
nghĩa như vậy, nên dấu hiệu về chủ thể “Có năng lực trách nhiệm hình sự” cần
được coi là một dấu hiệu của tội phạm [16;tr.58].
+ Đặc điểm “Thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”
Đặc điểm này cho thấy, tội phạm phải là hành vi có lỗi, tức là phải do chủ
thể cố ý hoặc vô ý thực hiện. Việc thừa nhận dấu hiệu này là một dấu hiệu độc


13


lập của tội phạm cho thấy, Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội
khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào việc một người
đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Do
vậy, “tính có lỗi” phải được xác định là một đặc điểm của tội phạm.
+ Đặc điểm “phải bị xử lý hình sự”.
Đây là đặc điểm thể hiện hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm.
Tuy nhiên, không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm, mà là đặc điểm có
tính quy kết, kèm theo của tội phạm; nó được xác định bởi chính những thuộc
tính bên trong của tội phạm. Theo đó, chỉ những hành vi bị coi là tội phạm thì
mới “phải bị xử lý hình sự”, không có tội phạm thì cũng không có biện pháp “xử
lý hình sự”. Đây là lý do mà BLHS năm 2015 bổ sung đặc điểm “phải bị xử lý
hình sự” trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8.
Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm nói chung, do vậy cũng
có đầy đủ những đặc điểm, đặc trưng chung của tội phạm. Mặc dù vậy, khi đưa
ra các khái niệm khoa học về tội trộm cắp tài sản, các nhà nghiên cứu luật hình
sự chỉ tập trung phản ánh những đặc điểm (dấu hiệu) riêng có của tội phạm này,
chẳng hạn như:
“Tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản”
[43;tr.49]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của
người khác” [31;tr.196]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác một cách lén lút” [4, tr.199].
Qua đây thấy rằng, các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam có nhiều cách
diễn đạt khác nhau khi đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản, nhưng đều thống
nhất ở chỗ, tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người
khác.
Chúng tôi cho rằng, các định nghĩa nêu trên mới chỉ là những định nghĩa

khái quát về tội trộm cắp tài sản, phản ánh đặc điểm đặc trưng riêng có của tội
trộm cắp, đó là “hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”.

14


Theo chúng tôi, để đưa ra được một khái niệm đầy đủ về tội trộm cắp tài
sản thì trong nội hàm khái niệm này phải thể hiện được đầy đủ các đặc điểm, đặc
trưng của tội phạm này. Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm tội
trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản của người khác, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được
pháp luật hình sự bảo vệ và theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự”.
Như vậy, khái niệm này không chỉ thể hiện được những dấu hiệu (đặc
điểm) chung của tội phạm mà còn thể hiện được dấu hiệu (đặc điểm) riêng của tội
trộm cắp tài sản, đó là “lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác nắm giữ”.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
* Những dấu hiệu định tội
Nghiên cứu lý luận và quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài
sản thấy rằng, tội trộm cắp tài sản có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau đây:
- Dấu hiệu khách thể, đối tượng tác động của tội phạm.
Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
Quyền sở hữu tài sản gồm ba quyền năng cụ thể, đó là: quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Khi tài sản
bị trộm cắp chủ sở hữu sẽ mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản bị chiếm đoạt.
Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải là tài sản đang có người
quản lý, nghĩa là: tài sản đó đang ở trong sự chiếm hữu, sự chi phối về mặt thực
tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc tài sản đang
nằm trong khu vực quản lý của chủ tài sản. Với đặc điểm như vậy thấy rằng,

những hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lý, hoặc chưa có
người quản lý đều không phải là hành vi trộm cắp tài sản.
- Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm
Mặc dù điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản

15


nhưng cả lý luận và thực tiễn đều thừa nhận hành vi khách quan của tội trộm cắp
tài sản là “Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý”
Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu: về mặt khách quan, hành vi
này được thực hiện bằng hình thức có khả năng không cho chủ tài sản (người
quản lý tài sản) biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra; Về mặt chủ
quan, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản người phạm tội có ý thức che giấu
hành vi đang thực hiện của mình. Đối với chủ tài sản, người phạm tội không chỉ
che giấu mặt thực tế của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn che
giấu tính chất bất hợp pháp của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tuy
nhiên, đối với những người không phải là chủ tài sản, không biết rõ nguồn gốc
tài sản thì có trường hợp người phạm tội chỉ che giấu tính chất bất hợp pháp của
việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Tội trộm cắp tài sản được nhà lập pháp quy định dưới dạng cấu thành tội
phạm vật chất. Do vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ coi là hoàn thành khi người phạm
tội đã chiếm hữu được tài sản trên thực tế. Để xác định thời điểm tài sản đã được
chiếm hữu trên thực tế phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Cụ thể
là: nếu tài sản bị chiếm đoạt nhỏ gọn thì chỉ coi là đã chiếm hữu được khi người
phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người; nếu tài sản bị chiếm đoạt không
thuộc loại nhỏ gọn thì chỉ coi là chiếm hữu được khi người phạm tội đã mang
được tài sản ra khỏi khu vực quản lý; nếu tài sản bị chiếm đoạt là tài sản để ở nơi
không hình thành khu vực bảo quản riêng thì chỉ coi là chiếm hữu được khi đã
dịch chuyển được tài sản ra khỏi vị trí ban đầu.

- Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Theo quy định của BLHS hiện hành, chủ thể của tội trộm cắp tài sản là bất
kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự mà luật định.
Như vậy, chủ thể của tội phạm này chỉ có thể là cá nhân (thể nhân) mà
không bao hàm pháp nhân thương mại

16


Cá nhân chỉ được coi là chủ thể của tội trộm cắp tài sản khi đáp ứng được
những điều kiện sau:
+ Là con người cụ thể, đang sống đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt
tài sản của người khác
+ Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà luật định. Theo quy định của Điều
12 và Điều 173 BLHS hiện hành, thì: nếu hành vi được thực hiện, được quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 BLHS thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi trở
lên; còn hành vi được thực hiện quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 173 BLHS
thì người phạm tội phải đủ 14 tuổi trở lên.
+ Họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là không trong
tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (Điều 21 BLHS).
- Dấu hiệu lỗi
Tội trộm cắp tài sản luôn được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp của chủ thể.
Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, người phạm tội luôn mong muốn chiếm
đoạt được tài sản của người khác. Động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu
hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản.
* Dấu hiệu phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với hành vi trộm cắp tài
sản chưa phải là tội phạm (vi phạm pháp luật).
Theo quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành thì hành vi trộm cắp tài sản

chỉ cấu thành tội phạm nếu tài sản bị trộm cắp phải có trị giá từ 02 triệu đồng trở
lên. Trường hợp tài sản bị trộm cắp có trị giá dưới 02 triệu thì chỉ cấu thành tội
phạm nếu có một trong những dấu hiệu sau đây:
+ Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.
Đây là trường hợp chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản (như công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản…) chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính mà còn vi phạm. Theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành

17


chính năm 2012 thì cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 06
tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể
từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc kể từ ngày hết
thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính mà không tái phạm thì được coi
là chưa bị xử phạt hành chính [27;tr.18]
+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều
168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm.
Đây là trường hợp chủ thể đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản hoặc về một
trong các tội chiếm đoạt tài sản quy định tại các Điều 168 (tội cướp tài sản);
Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài
sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 172 (tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản); Điều 174 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 175 (tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản) và Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của BLHS năm 2015,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội
Đây là trường hợp mới được quy định trong BLHS năm 2015. Đến nay

vẫn chưa có văn bản hướng dẫn vào giải thích về tình tiết này. Tuy nhiên, căn cứ
vào các văn bản quy phạm pháp luật quy định về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ
gìn trật tự an toàn xã hội có thể hiểu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội”, là trường hợp hành vi trộm cắp tài sản, ngoài gây hậu quả về tài
sản còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn công cộng ở một địa bàn
nhất định, gây xáo trộn cuộc sống bình thường của người dân, hoặc tâm lý hoang
mang, lo lắng trong nhân dân…
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ
Đây là cũng tình tiết mới bổ sung trong BLHS năm 2015 và cũng chưa
được hướng dẫn, giải thích. Tuy nhiên, về cơ bản có thể hiểu tài sản là phương

18


tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ là tài sản có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, là phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình
họ, nếu bị trộm cắp thì người bị hại và gia đình họ, sẽ lâm vào tình trạng hết sức
khó khăn về kinh tế. Chẳng hạn, nguồn thu chính của gia đình người bị hại là thu
từ việc sử dụng chiếc xe máy chở khách để kiếm tiền mưu sinh, nhưng đã bị
người phạm tội trộm cắp mất.
+ Tài sản là di vật, cổ vật
Theo quy định tại Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2010 thì: di vật là hiện
vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; cổ vật là hiện vật
được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ 100
năm tuổi trở lên.
* Hình phạt là các dấu hiệu định khung hình phạt.
BLHS hiện hành quy định bố khung hình phạt chính đối với tội trộm cắp
tài sản
- Khoản 1 Điều 173 BLHS hiện hành quy định khung hình phạt cơ bản
gồm phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03

năm. Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội mà trị giá tài
sản trộm cắp dưới 50 triệu đồng.
- Khoản 2 của Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ
nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm
tội có một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau đây:
+ Có tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản có sự câu kết
chặt chẽ giữa những người đồng phạm (đồng phạm có tổ chức).
+ Có tính chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên
tiếp phạm tội trộm cắp tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu thập
chính [33;tr.44]
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt là

19


trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản bằng những thủ đoạn tinh vi để che giấu
hành vi chiếm đoạt tài sản, làm cho mọi người dễ nhầm và không cho rằng đó là
hành vi trộm cắp tài sản; còn dùng thủ đoạn nguy hiểm là dùng thủ đoạn trộm
cắp tài sản có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại
hoặc của người khác.
+ Hành hung để tẩu thoát: Đây là trường hợp người trộm cắp tài sản đã có
hành vi chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát. Mục đích chống trả là để tẩu thoát.
Nếu mục đích chống trả để giữ bằng được tài sản vừa trộm cắp được thì có sự
chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản [16; tr.298]
+ Tài sản là bảo vật quốc gia: Đây là trường hợp đối tượng tác động của
tội trộm cắp tài sản là bảo vật quốc gia, tức là hiện vật được lưu truyền lại, có giá
trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học (Điều 4
Luật Di sản văn hóa năm 2010).
+ Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp bị kết án về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà
lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 173
BLHS hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm
cắp tài sản.
- Khoản 3 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai
(rất tăng nặng) có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường
hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung hình phạt
tăng nặng sau đây:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng
+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh
- Khoản 4 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba
(đặc biệt tăng nặng) có mức phạt tù từ 12 đến 20 năm được áp dụng cho trường
hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung tăng nặng
sau đây:

20


+ Chiếm đoạt có trị giá 500 triệu đồng trở lên
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
- Khoản 5 Điều 178 BLHS, quy định phạt tiền từ 05 triệu đến 50 triệu là
hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản
Những tình tiết (dấu hiệu) định khung hình phạt tăng nặng trên đây là cơ
sở để xác định khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội
1.1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt khác
* Phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt được
quy định tại Chương XVI BLHS: “Các tội xâm phạm sở hữu”
Trong BLHS hiện hành (Chương XVI) có quy định 8 tội có tính chất
chiếm đoạt gồm: tội cướp tài sản (Điều 168); tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
(Điều 169); tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170); tội cướp giật tài sản (Điều 171);

tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); tội trộm cắp tài sản (Điều 173); tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
(Điều 175).
Những tội phạm này có nhiều dấu hiệu pháp lý giống tội trộm cắp tài sản
như: có cùng khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản; hành vi phạm tội đều có
tính chất chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý; đều được thực hiện với
lỗi cố ý trực tiếp với động cơ, mục đích phạm tội có tính chất vụ lợi; chủ thể của
tội phạm là chủ thể bình thường.
Tuy nhiên, so với các tội có tính chất chiếm đoạt khác, tội trộm cắp tài sản
có những điểm khác sau đây:
+ Về hành vi khách quan và thủ đoạn thực hiện hành vi khách quan của tội
phạm: Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản (cũng như một số tội khác
như: cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm…) là hành
vi chiếm đoạt tài sản, còn hành vi khách quan của tội cướp, tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản thì hành vi khách quan của tội phạm
không phải là hành vi chiếm đoạt, mà là hành vi: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ

21


lực ngay tức khắc hay hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 168 tội cướp tài sản;
hoặc là hành vi bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản), (Điều
169 tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản )hoặc là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực
hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều
170 tội cưỡng đoạt tài sản). Như vậy, đối với 03 tội phạm này “chiếm đoạt tài
sản của người khác” được quy định là mục đích của việc thực hiện hành vi
khách quan.
Nếu so với các tội có tính chất chiếm đoạt còn lại (cướp giật, công nhiên
chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) thì tội trộm cắp tài

sản khác những tội phạm này ở thủ đoạn chiếm đoạt tài sản: Đối với tội cướp
giật tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt là “công khai, nhanh chóng chiếm đoạt”; đối
với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn
“lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công khai chiếm đoạt tài
sản”; đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là thủ
đoạn “gian dối”; đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn
“lợi dụng niềm tin sẵn có của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản mà chủ tài sản
giao cho trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản… sau đó dùng thủ đoạn
gian dối hoặc bỏ trốn hoặc cố tình không trả lại tài sản đó mặc dù có điều kiện,
khả năng để trả lại, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản”.
+ Về trị giá tài sản bị chiếm đoạt là ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý
hành chính
Ở tội trộm cắp tài sản: trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu đồng
trở lên mới xử lý hình sự, dưới mức đó chỉ có thể xử phạt hành chính (nếu không
có tình tiết khác làm tăng tính nguy hiểm của hành vi).
Ở các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản
và cướp giật tài sản thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt không có ý nghĩa đối với việc

22


xử lý hình sự.
Ở các tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo thì trị giá tài sản chị
chiếm đoạt cũng giống như tội trộm cắp, tức là phải từ 02 triệu đồng trở lên mới
xử lý hình sự, dưới mức đó thì phải có bổ sung các dấu hiệu khác.
Riêng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì trị giá tài sản
bị chiếm đoạt phải từ 04 triệu đồng trở lên mức bị xử lý hình sự.
* Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS

năm 2015)
Theo quy định tại Điều 290 BLHS hiện hành thì tội sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
là hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử
thực hiện một trong các hành vi sau đây nếu không thuộc một trong các trường
hợp được quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này:
a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá
nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa,
dịch vụ;
b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm
chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân
nhằm chiếm đoạt tài sản;
d) Lừa đảo trong thương mại diện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền
tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng
nhằm chiếm đoạt tài sản;
đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm
đoạt tài sản.
Qua đây cho thấy, điểm khác cơ bản giữa tội trộm cắp tài sản (Điều 173)
với tội phạm này (Điều 290) là ở chỗ:

23


+ Về khách thể trực tiếp của tội phạm
Đối với tội trộm cắp tài sản, khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản
Đối với tội phạm này, khách thể trực tiếp là an toàn mạng máy tính, mạng
viễn thông và phương tiện điện tử, một trong những lĩnh vực an toàn công cộng.
Ngoài khách thể trực tiếp cơ bản này, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản còn xâm phạm

đến quyền sở hữu tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ.
+ Về hành vi khách quan của tội phạm.
Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản (Điều 173) chỉ là hành vi lén
lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý. Thủ đoạn chiếm đoạt tài sản
là thủ đoạn lén lút chứ không thông qua thủ đoạn sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như là ở
tội quy định tại Điều 290 BLHS.
Hành vi khách quan của tội quy định tại Điều 290 BLHS là hành vi: sử
dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức cá nhân để
chiếm đoạt tài sản; làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả
nhằm chiếm đoạt tài sản…; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn
thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. Việc chiếm đoạt tài sản không phải là
hành vi khách quan mà là mục đích của việc thực hiện một trong những hành vi
khách quan nêu trên.
+ Về trị giá tài sản bị chiếm đoạt
Đối với tội trộm cắp tài sản thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu
đồng trở lên mới xử lý hình sự (hành vi mới cấu thành tội phạm) dưới mức đó thì
phải có bổ sung các dấu hiệu khác.
Còn đối với tội quy định tại Điều 290 thì trị giá tài sản mà người phạm tội
có mục đích chiếm đoạt không có ý nghĩa định tội (nghĩa là bất kỳ có trị giá là
bao nhiêu từ 02 triệu trở lên hay dưới 02 triệu)

24


Điều 290 BLHS còn quy định dấu hiệu “không thuộc một trong các
trường hợp quy định tại Điều 173…” Điều đó có nghĩa là các hành vi quy định
tại Điều 290 cũng có thể được thực hiện bằng thủ đoạn lén lút và trị giá tài sản bị
chiếm đoạt cũng từ 02 triệu đồng trở lên (đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài

sản) thì sẽ bị xử lý về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS, mà
không xử lý về tội quy định tại Điều 290 BLHS. Chẳng hạn, hành vi sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử lén lút chiếm đoạt tài sản
của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ có giá trị từ 02
triệu đồng trở lên thì xử lý về tội trộm cắp tài sản (Điều 173); ngược lại, nếu tài
sản bị chiếm đoạt dưới 02 triệu và không thuộc các trường hợp có bổ sung dấu
hiệu khác mà BLHS quy định đối với tội trộm cắp tài sản thì sẽ xử lý về tội sử
dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS)
Nắm vững những điểm khác nhau này giúp cho việc định tội danh được
chính xác, hạn chế sự nhầm lẫn giữa tội phạm này với tội phạm khác có liên quan.
1.1.4 Khái quát lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội trộm cắp tài sản
Định tội danh tội trộm cắp tài sản là một trong những trường hợp định tội
danh đối với một hành vi phạm tội cụ thể, đó là hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy,
khái niệm định danh tội trộm cắp tài sản phải được xây dựng dựa trên khái niệm
chung về định tội danh.
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều cách diễn đạt
khác nhau về định tội danh như: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về
mặt pháp lý sự phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ
thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định
trong quy phạm pháp luật hình sự” [46;tr.10]; hoặc “Định tội danh là quá trình
nhận thức lý luận có tính logic, là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ,

25


×