Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.33 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGỌC BẢO

TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGỌC BẢO

TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. TRỊNH TIẾN VIỆT

HÀ NỘI, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội huỷ hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học
của tên người hướng dẫn PGS.TS Trịnh Tiến Việt, các đoạn trích dẫn và số liệu
được sử dụng trong luận văn đều được dẫn từ nguồn có độ chính xác cao nhất
trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Tác giả luận văn

Trần Ngọc Bảo


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

TAND

Toà án nhân dân

HĐXX

Hội đồng xét xử

THTT

Tiến hành tố tụng

CTTP


Cấu thành tội phạm

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

THTP

Tình hình tội phạm

TNHS

Trách nhiệm hình sự

XPSH

Xâm phạm sở hữu


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang


Bảng 2.1

Số liệu về công tác giải quyết, xét xử án hình sự của
tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ

39

năm 2015 đến 2019.
Bảng 2.2

Mức độ tổng quan của tình hình tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn thành phố Đà

41

Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.3

Tỷ lệ các tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
trong tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn

42

thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.4

Tỷ lệ các tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
trong tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 đến 2019.


43


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM
HƯ HỎNG TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ............................................... 8
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản..8
1.2. Quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật hình
sự Việt Nam.........................................................................................................16
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH VỀ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ
HỎNG TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..........................25
2.1. Quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản............................25
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.................................................................344
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP
DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HỦY HOẠI
HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN....................................................666
3.1. Phương hướng hoàn thiện quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015.............................................................666
3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay về tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.....................................................................69
3.3. Một số giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội
hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản....................................................................711
KẾT LUẬN........................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan trọng
nhất của con người và bất kỳ quốc gia nào trên thế giới luôn được sự quan tâm
đặc biệt của các nhà lập pháp của. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam luôn khẳng
định sở hữu là một quyền cơ bản của công dân và được nhà nước bảo vệ chống
lại mọi hành vi xâm hại. Cụ thể tại khoản 1 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy
định như sau: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.”
Bộ luật hình sự với vai trò là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền sở hữu của
công dân, đã quy định hệ thống các tội XPSH, trong đó có Tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản làm cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh, xử lý và phòng ngừa
loại tội phạm này. Điều 178 BLHS năm 2015 quy định cấu thành của Tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản với đặc điểm là hành vi làm cho tài sản bị
mất giá trị sử dụng hoặc làm giảm đi đáng kể giá trị sử dụng của tài sản. Tội này
gồm hai hành vi độc lập là hành vi hủy hoại tài sản và hành vi cố ý làm hư hỏng
tài sản nhưng do có cùng một tính chất là bị mất đi giá trị hoặc giá trị sử dụng tài
sản thuộc sở hữu của người khác, nên nhà làm luật quy định chung trong cùng
một điều luật. Trên cơ sở quy định này, các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là
tòa án áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong quá trình tố
tụng quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, công bằng và có hiệu quả
nhất.
Đà Nẵng là địa bàn có vị trí trọng yếu về quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã
hội ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Dân số ngày một gia tăng,

1



đồng thời cũng là điểm đến hấp dẫn của số lượng lớn khách du lịch, đây là những
đặc điểm khiến tình hình an ninh chính trị, trật tự trị an ở đây có những diễn biến
phức tạp. Giai đoạn 2016-2019, kinh tế duy trì nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng; các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh
tranh, có hàm lượng công nghệ cao được chú trọng phát triển, nổi bật trong đó là
các ngành dịch vụ, nhất là du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có
thương hiệu và khả năng cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, mặc dù chính quyền các
cấp thành phố Đà Nẵng đã rất quan tâm tới công tác phòng, chống tội phạm, giữu
gìn trật tự trị an, đảm bảo hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội
tuy nhiên trên thực tế cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức. Một số loại tội
phạm hiện nay vẫn chưa thực sự được kiềm chế hiệu quả, trong đó nổi lên là các
tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao
trong cơ cấu tình hình tội phạm của thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là các hành vi
phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Giai đoạn 2015 đến năm 2019,
trên địa bàn TP Đà Nẵng có 101 vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
được xét xử với 287 bị cáo chiếm 7,89% tổng vụ án về tội phạm sở hữu (1.280
vụ). Trong khi đó, tỷ lệ bị cáo bị khởi tố trong giai đoạn này liên quan đến tội
phạm về hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là 131 bị cáo chiếm 7,04%.
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm XPSH có tính chất
chiếm đoạt nói chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng
trên địa bàn thành phố còn nhiều khó khăn, bất cập gây ảnh hưởng đến kết quả
phòng ngừa nhưng chưa được tổng kết về mặt thực tiễn và rút ra kinh nghiệm về
mặt lý luận. Việc nghiên cứu chuyên sâu về loại tội phạm này là một trong những
yêu cầu cấp thiết mà lý luận và thực tiễn đặt ra đối với chúng ta.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tội hủy hoại

2


hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn

Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học và cán bộ
làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Việc
nghiên cứu đề tài này cũng đã được thể hiện qua các đề tài nghiên cứu khoa học,
luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ luật học, một số giáo trình giảng dạy và được
đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, báo chí truyền thông. Tác giả đã tiếp cận
một số đề tài về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong những năm gần
đây như:
Về giáo trình, sách chuyên khảo có: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần
các tội phạm cụ thể của Trường Đại học Luật TP. HCM năm 2013; của Khoa luật
Đại học quốc gia Hà Nội năm 2005; của Đại học Luật Hà Nội năm 2008; “Các
tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2009)” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2010, Hà
Nội.
Một số luận án, luận văn liên quan như: Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm
hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà
nước và pháp luật, Hà Nội, 2001; Trần Thị Phường, Định tội danh đối với
nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010 Luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Ngô Thị Huyền
Phương, “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự Việt
Nam” Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, năm 2010; v.v...
Các bài viết như: Trịnh Tiến Việt (2001), “Một số điểm mới về các tội xâm
phạm sở hữu trong luật hình sự năm 1999”, Pháp lý; Võ Khánh Vinh (2003),

3


“Thay đổi định tội danh, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tòa án nhân dân,...

Như vậy có thể thấy việc nghiên cứu về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, qua tìm hiểu tác giả nhận thấy rằng
một số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng, có công trình chỉ nghiên cứu tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản với ý nghĩa là tội phạm để nghiên cứu
các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt hoặc xem xét dưới góc độ tội phạm
học, cũng có công trình liên quan nhưng đã nghiên cứu cách đây khá lâu, do vậy
giá trị lý luận và thực tiễn đã không còn cao. Chưa có một công trình nghiên cứu
khoa học nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học giải quyết riêng rẽ và độc lập
một tội phạm cụ thể, việc áp dụng pháp luật tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để từ đó đưa ra những
giải pháp áp dụng pháp luật, cũng như để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định trong công tác phòng, chống tội phạm này trong thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng về
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp
luật hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, cũng như kiến nghị,
giải pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản một cách phù hợp hơn nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đã thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội hủy hoại hoặc cố ý

4


làm hư hỏng tài sản quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam; Khái quát lịch sử
hình thành các quy định của pháp luật Việt Nam về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư

hỏng tài sản ở Việt Nam;
- Phân tích thực tiễn xét xử về loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Qua đó làm sáng tỏ những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và đưa ra giải pháp
góp phần hoàn thiện về áp dụng pháp luật đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật của những người tiến hành tố
tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng trên thực tế.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả lấy quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, thực tiễn áp dụng pháp luật
đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ của các quy định pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu và lấy số liệu trong phạm vi thành
phố Đà Nẵng.
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu số liệu thực tế từ thực tiễn xét xử của
TAND thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận dựa trên nền tảng phương pháp luận của phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng

5


chống tội phạm. Quá trình nghiên cứu đề tài luận văn còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học khác để thu thập tài liệu làm sáng tỏ các nội dung cần

nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng linh hoạt và đan xen các phương pháp nghiên cứu
khoa học như: so sánh, phân tích, thống kê hình sự để làm sáng tỏ vấn đề cần
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài không những góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà còn góp phần nâng cao nhận thức và áp
dụng pháp luật cũng như hoàn thiện lý luận về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Với kết quả đạt được tác giả
mong muốn luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
đào tạo luật tại Học viện cũng như là tài liệu để các học viên nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài là một công trình nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn
về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Kết quả nghiên cứu và những giải pháp đưa ra trong của luận văn có ý
nghĩa nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả về áp dụng pháp luật đối với tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đồng thời góp phần đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Bên
cạnh đó, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, hội thảo tập huấn chuyên đề, nâng
cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng khi giải quyết các vụ án đối với loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà

6


Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Vấn đề chung về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
theo luật hình sự;
Chương 2: Quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và thực
tiễn áp dụng tại địa bàn thành phố Đà Nẵng;
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định
pháp luật hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

7


CHƯƠNG 1
VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ
HỎNG TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài

sản
1.1.1 Khái niệm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Theo quy định của pháp luật hình sự nước ta, khái niệm tội phạm được ghi
nhận trong Điều 8 BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự” [2, Điều 8].
Trong pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ thì tội hủy hoại hoặc cố ý

làm hư hỏng tài sản là tội được nhập từ tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản của công dân quy định tại Điều 160 và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản XHCN quy định tại Điều 138 BLHS 1985. Đến nay được quy định tại
Điều 178, trong chương XVI các tội xâm phạm sở hữu BLHS năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017 với khách thể trực tiếp bị xâm hại của tội phạm này là quyền
sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức. Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là
hành vi làm cho tài sản bị xâm hại bị mất hoàn toàn giá trị sử dụng hoặc bị giảm
đi đáng kể giá trị sử dụng của tài sản.

8


Căn cứ quy định của Điều 178 BLHS năm 2015 và trên cơ sở tổng kết các
quan điểm khác nhau trong khoa học luật hình sự, khái niệm tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản được định nghĩa như sau: “Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản là làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng hoặc làm giảm đáng kể giá
trị sử dụng của tài sản đang do người khác quản lý, được thực hiện bởi người có
năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quan
hệ sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân”.
Do xuất phát từ những điểm giống nhau, Tội hủy hoại tài sản và tội cố ý làm
hư hỏng tài sản là hai tội danh độc lập nhưng được quy định chung trong một
điều luật là Điều 178 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Chính vì vậy, rất dễ
nhầm lẫn về 2 tội danh này, ngay cả trong nhiều vụ án vẫn còn quan điểm khác
nhau giữa tội hủy hoại tài sản và tội cố ý làm hư hỏng tài sản.
Có thể hiểu một cách khái quát về hành vi hủy hoại tài sản và cố ý làm hư
hỏng tài sản như sau:
- Hành vi hủy hoại tài sản có thể hiểu là hành vi làm cho tài sản của người
khác đang quản lý bị thiệt hại đến mức không còn giá trị sử dụng hoặc tài sản đó
bị phá hủy hoàn toàn.
- Hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi làm tài sản của người khác bị

mất đi một phần một phần hoặc giảm giá trị sử dụng nhưng ở mức độ còn có thể
phục hồi, sửa chữa lại được.
Dấu hiệu nhận diện và phân biệt tội hủy hoại tài sản và tội cố ý làm hư hỏng
tài sản, thường dựa vào những căn cứ sau:

Về mục đích
của người
thực hiện

Tội hủy hoại tài sản

Tội cố ý làm hư hỏng
tài sản

Mục đích của người thực hiện
hành vi phạm tội là làm cho tài sản
bị hư hỏng, tiêu hủy hoàn toàn

Mục đích là chỉ muốn
làm hư hỏng một phần
nào đó của tài sản hoặc

9


Tài sản mà
người phạm
tội muốn gây
thiệt hại là gì
hành vi.


hoặc làm cho tài sản không còn giá
trị hoặc mất giá trị sử dụng

làm cho tài sản đó bị mất
một phần hoặc giảm giá
trị sử dụng nhưng thực tế
tài sản đó có thể khôi
phục, sửa chữa lại được

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc làm rõ mục đích của người phạm tội đôi khi gặp
khó khăn, có thể mục đích của họ ban đầu là muốn hủy hoại tài sản nhưng họ lại


khai là chỉ muốn làm hư hỏng một phần tài sản hoặc ngược lại.
Điều này đòi hỏi người tiến hành tố tụng cần nhận định, đánh giá hết sức thận trọng
và khách quan. Vì nếu không xác định và không chứng minh được mục đích của
người phạm tội thì có thể xác định tội danh không chính xác.
Xác định thiệt
hại thực tế
của tài sản bị
xâm hại là
như thế nào.

Hành vi của người phạm
Hành vi của người phạm tội làm tội rõ ràng chỉ làm hư
cho tài sản bị hư hỏng toàn bộ hoặc hỏng một phần của tài sản
không còn sử dụng được…

hoặc làm giảm một phần

giá trị tài sản

Tuy nhiên, có những trường hợp mục đích của người phạm tội là muốn hủy hoại
tài sản nhưng vì lý do nào đó tài sản chỉ bị hư hỏng một phần thì hành vi đó phải là
hành vi hủy hoại tài sản. Ví dụ: Một người dùng xăng đốt nhà của người khác
nhưng do phát hiện và ngăn chặn kịp thời nên căn căn nhà chỉ bị chấy một phần
nhỏ. Tuy nhiên phải xác định hành vi này là hủy hoại tài sản.
Tài sản mà người phạm tội muốn gây thiệt hại là gì?
Thực tiễn hiện nay, khi phân biệt tội hủy hoại tài sản và tội cố
ý làm hư hỏng tài sản, điều khó khăn nhất là tài sản bị thiệt hại là
vật đồng bộ. Theo Điều 114 BLDS năm 2015 thì “Vật đồng bộ là
vật gồm các phần hoặc các bộ phận ăn khớp, liên hệ với nhau hợp
thành chỉnh thể mà nếu thiếu một trong các phần, các bộ phận
hoặc có phần hoặc bộ phận không đúng quy cách, chủng loại thì
không sử dụng được hoặc giá trị sử dụng của vật đó bị giảm sút.”
Tuy nhiên, đối với tài sản là vật đồng bộ như xe máy, xe ô tô…

10


thì thông thường người phạm tội chỉ gây thiệt hại cho một bộ
phận của chiếc xe như gương chiếu hậu, kính chắn gió… mà
không nhằm vào toàn bộ chiếc xe thì hành vi này phạm tội hủy
hoại tài sản hay cố ý làm hư hỏng tài sản?
Ví dụ: “Do mâu thuẫn va chạm trên đường, nên Nguyễn Văn A
đã chạy theo sau xe ô tô của anh T. Khi anh T đậu xe cặp lề
đường đi vào một cửa hàng thì A chạy tới dùng một đoạn sắt
mang theo đập bể toàn bộ kính của hai gương chiếu xe ô tô anh
T. Kết quả giám định, giá trị thiệt hại tài sản là 2.500.000 đồng”.
+ Có quan điểm cho rằng, hành vi của A là hủy hoại tài sản, vì

đối tượng tài sản là A nhắm vào là kính của gương chiếu hậu. Do
hai tấm kính bị bể toàn bộ nên A phạm tội hủy hoại tài sản.
+ Nhưng cũng có quan điểm cho rằng xe ô tô là vật đồng bộ.
Gương chiếu hậu là một phần của chiếc xe ô tô. Nếu gương chiếu
hậu bị bể thì xe vẫn có thể chạy và lưu thông trên đường được
trong một điều kiện nhất định nào đó. Vì vậy, A chỉ phạm tội cố ý
làm hư hỏng tài sản.
Về mặt lý luận, có thể phân biệt tội hủy hoại tài sản và tội cố ý làm hư hỏng
tài sản theo những tiêu chí nêu trên. Trong đó căn cứ mục đích của người thực
hiện hành vi được xem là căn cứ quan trọng nhất. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay
vẫn còn tranh luận và chưa thống nhất về xác định tội danh.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm
cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Cấu thành tội phạm phải có đầy đủ
bốn yếu tố: mặt khách quan, khách thể, mặt chủ quan và chủ thể. Yếu tố cấu
thành tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản cũng có đầy đủ bốn yếu tố này.
Thứ nhất, mặt khách quan của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có một trong hai hành vi: Hành

11


vi hủy hoại tài sản và hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản.
Hành vi hủy hoại tài sản là hành vi làm cho tài sản mất hoàn toàn giá trị sử
dụng; không thể khôi phục lại được hoặc khó có thể khôi phục lại được. Hành vi
này có thể được thực hiện dưới dạng: hành động (đập, đốt, phá,…) và không
hành động (bỏ mặc cho tài sản rơi vào tình trạng bị hư hại hoặc tiêu huỷ). Hành
vi có thể được người phạm tội thực hiện bằng các hình thức, công cụ, phương
tiện khác nhau (dùng dao, búa, gậy, hóa chất,...).
Hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác là hành vi làm tài sản của

người khác bị mất một phần hoặc giảm giá trị, giá trị sử dụng nhưng ở mức độ có
thể khôi phục lại được (ví dụ: Đập phá làm hư hỏng kính của xe hơi nhưng các
bộ phận khác của xe vẫn còn).
Hậu quả trong tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác. Người phạm tội khi thực hiện hành vi
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng đối với những tài sản sau sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội này: tài sản có trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc tài sản
trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác mà còn vi phạm; đã bị
kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là kỷ vật, di vật; tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Thứ hai, khách thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Cũng như những tội xâm phạm đến quyền sở hữu khác, tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản của người khác xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của
người khác. Tuy nhiên, khác với các tội xâm phạm đến quyền sở hữu khác,
những người phạm tội này không phải đều vì mục đích thu lợi bất chính. Những
người phạm tội này, nếu vì mục đích thu lời thì thường không phải là chủ mưu

12


mà chỉ đóng vai trò đồng phạm, tham gia hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
của người khác để nhận được một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ người chủ
mưu.
Thứ ba, mặt chủ quan của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Người phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản luôn thực
hiện hành vi phạm tội của mình với lỗi cố ý. Người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản của người khác luôn đặt ra mục đích trước khi thực hiện
hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác nên không thể có

trường hợp phạm tội do vô ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả
xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy
ra.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài
sản của người khác. Ngoài mục đích này thì người phạm tội không có mục đích
nào khác và đây cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu người
phạm tội có mục đích khác, còn việc huỷ hoại tài sản hoặc làm hư hỏng tài sản
chỉ là phương pháp để đạt được mục đích đó thì không phạm tội huỷ hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng. Ví dụ: Người phạm tội đốt
nhà với mục đích giết người thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội là
tội hủy hoại tài sản và tội giết người, hoặc phá cây ATM để trộm tiền thì bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về hai tội là tội hủy hoại tài sản và tội trộm cắp tài sản.
Thứ tư, chủ thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Chủ thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác là
bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, những người từ đủ
14

đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này khi thực hiện

13


các hành vi được quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 178 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xuất phát từ nhiều
động cơ khác nhau như: để trả thù, vì ghen tuông... nhưng chủ yếu là vì tư thù.
Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này mà chỉ có ý
nghĩa trong việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.

Người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là người thực hiện
hành vi tác động vào tài sản thuộc sở hữu của người khác, làm cho tài sản đó bị
mất giá trị sử dụng (hủy hoại tài sản) hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của
tài sản (làm hư hỏng tài sản) với giá trị thiệt hại gây ra từ 2 triệu đồng trở lên
hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc các trường hợp được Bộ luật hình sự quy
định (Điều 178 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hay nói cách
khác, người phạm tội thực hiện hành vi thỏa mãn bốn yếu tố cấu thành tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như đã phân tích ở trên.
Người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản phải chịu trách
nhiệm hình sự với 04 khung hình phạt, cụ thể:
- Khung hình phạt quy định hình phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu
đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm áp dụng đối với người phạm tội không có tình tiết tăng nặng định khung
hình phạt.
- Khung hình phạt quy định hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm áp dụng đối
với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: có tổ chức; gây thiệt
hại cho tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; tài sản là bảo vật
quốc gia; dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; để che
dấu tội phạm khác; vì lý do công vụ của người bị hại; tái phạm nguy hiểm. Trong

đó:

14


+ Dùng chất nổ, chất cháy phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
là trường hợp thực hiện các hành vi phạm tội nêu trên bằng chất nổ hoặc chất
cháy. Chất nổ là chất có khả năng gây nên một phản ứng hóa học nhanh, mạnh,
các loại thuốc nổ, dây nổ, dây cháy chậm, thuốc phóng v.v… Chất cháy là chất
có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ô xi trong không khí, nước hoặc khi có

tác động của các yếu tố khác và những chất dễ bị bốc cháy ở nhiệt độ cao, diêm
tiêu, phốt pho, thuốc đạn…
+ Dùng thủ đoạn nguy hiểm khác phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản như: sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm; sử dụng thuốc ngủ, thuốc
mê với liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người đang
quản lý, trông coi để thực hiện việc hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được
dễ dàng.
+ Nhằm che giấu tội phạm khác là trường hợp hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản với mục đích che dấu một tội phạm khác đã được thực hiện. Tài sản
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng có thể là những vật, tiền bạc có giá trị chứng
minh tội phạm và người phạm tội, bao gồm: vật, tiền bạc là công cụ, phương tiện
dùng vào việc phạm tội; vật, tiền bạc do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác
những thứ ấy mà có; vật khác mang dấu vết của tội phạm mà người hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng nhằm mục đích che giấu.
+ Vì lý do công vụ của người bị hại là trường hợp người phạm tội thực hiện
hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xuất phát từ việc người chủ sở
hữu hoặc quản lý tài sản thực hiện công vụ của mình. Mục đích của việc hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là để trả thù người sở hữu hoặc người quản lý
tài sản.
-

Khung hình phạt quy định hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm áp dụng đối

với người phạm tội gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới

15


500 triệu đồng.
- Khung hình phạt quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm áp dụng đối

với người phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 500 triệu đồng trở lên.
- Khung hình phạt bổ sung người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10
triệu đồng đến 100 triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
1.2. Quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật Hình sự 1985
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa non trẻ vừa ra đời đã phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, vừa từng
bước xây dựng xã hội mới. Đặc điểm của giai đoạn này là áp dụng pháp luật cũ
của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới nhưng đảm bảo nguyên tắc dân
chủ, công bằng. Để bảo vệ thành quả cách mạng,từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật. Chỉ trong một thời
gian rất ngắn kể từ ngày Bản Tuyên ngôn Độc lập được công bố đến ngày
19/12/1946 - Ngày Toàn quốc kháng chiến Nhà nước Việt Nam đã ban hành 479
văn bản pháp luật, trong đó có 243 sắc lệnh 172 nghị định, 46 thông tư và 12 văn
bản khác.
Ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua
Hiến pháp đầu tiên, tại Điều 12 đã ghi nhận: “Quyền tư hữu tài sản của công dân
Việt Nam được bảo đảm”.
Cùng với đó, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản pháp luật hình sự mới
quy định những hành vi xâm phạm đến sở hữu của Nhà nước và công dân, qua
đó đảm bảo các quan hệ xã hội tiến bộ trong xã hội mới được bảo vệ. Tuy mới
được ban hành nhưng pháp luật hình sự thời kỳ này đã khái quát được

16


những hành vi XPSH trong thực tế và quy định thành các tội phạm cụ thể làm cơ
sở cho Tòa án kịp thời xét xử. Đồng thời, các văn bản này còn quy định đường

lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu dựa trên nguyên tắc trừng trị kết hợp với
khoan hồng, giáo dục cải tạo và đã có sự cá thể hóa hình phạt đối với các hành vi
phạm tội.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan chức năng đã có
những văn bản hướng dẫn giải quyết đối với các trường hợp cụ thể như: Báo cáo
tổng kết công tác của TAND tối cao năm 1971, 1972; Thông tư 213/NCPL ngày
5/5/1973 của TAND tối cao - VKSND tối cao - Bộ Công an.
Tư tưởng chủ đạo giai đoạn này là chú trọng bảo vệ tài sản chung là tài sản
XHCN hơn tài sản riêng tài sản cá nhân. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985
được ban hành thì các hình phạt không được quy định tập trung, sắp xếp theo
một trình tự nhất định và cũng không có tiêu chí đánh giá chung, áp dụng thống
nhất.
1.2.2. Giai đoạn từ 1985 đến 1999
Các văn bản pháp luật hình sự kể trên đã phát huy vai trò to lớn trong một
thời gian dài cho đến khi BLHS năm 1985 ra đời. BLHS năm 1985 được Quốc
hội khoá VII thông qua ngày 27/6/1985 đã thể hiện hai loại hành vi XPSH là
hành vi xâm phạm sở hữu tài sản XHCN và hành vi xâm phạm sở hữu của công
dân, quy định ở hai chương khác nhau: Các tội xâm phạm sở hữu XHCN và các
tội xâm phạm sở hữu của công dân. Các tội xâm phạm sở hữu được quy định
thành hai chương độc lập:
- Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu XHCN.
- Chương VI: Các tội xâm phạm sở hữu công dân.
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định thành hai điều
luật riêng biệt là: Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản XHCN quy định tại

17


Điều 138 thuộc Chương IV và tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
của công dân Điều 160 thuộc chương VI BLHS 1985.

Điều 138. Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa.
1- Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu
không thuộc trường hợp quy định ở Điều 79 và Điều 94, thì bị phạt tù từ một
năm đến bảy năm.
Tội phạm này gồm 3 khung hình phạt
Trường hợp không có tình tiết định khung hình phạt mức phạt tù từ 1 năm
đến 5 năm.
Trường hợp có các tình tiết định khung tăng nặng có mức phạt tù từ 5 năm
đến 15 năm
Trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20
năm, tù chung thân hoặc tử hình
Điều 160. Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân:
“1- Người nào huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác thì
bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.
Tội phạm này gồm 3 khung hình phạt
Trường hợp không có tình tiết định khung hình phạt mức phạt tù từ 6 năm
đến 5 năm.
Trường hợp có các tình tiết định khung tăng nặng có mức phạt tù từ 3 năm
đến 13 năm
Trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20
năm.
Theo quy định tại Điều 138 và Điều 160 BLHS năm 1985 ta có thể thấy
mức hình phạt của hai điều luật áp dụng để bảo vệ hai khách thể của tội phạm có
sự chênh lệch về tính nghiêm khắc của hình phạt, theo đó do tầm quan trọng của

18


×