Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Luận văn ths luật định tội danh đối với tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.87 KB, 92 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




BI TH NHUNG




ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI TộI HủY HOạI HOặC Cố ý
LàM HƯ HỏNG TàI SảN THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định)







LUN VN THC S LUT HC









H NI - 2015

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




BI TH NHUNG



ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI TộI HủY HOạI HOặC Cố ý
LàM HƯ HỏNG TàI SảN THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định)



Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04



LUN VN THC S LUT HC



Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.
TS. TRNH QUC TON





H NI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Bùi Thị Nhung
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI

VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội
danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 9
1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản 9
1.1.2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản 11
1.1.3. Phân loại định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản 14
1.1.4. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản 18
1.2. Cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 21
1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản 21
1.2.2. Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản 31
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI HỦY
HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH NAM ĐỊNH 41
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và diễn biến tình
hình tội phạm ở Nam Định 41
2.1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Nam Định 41
2.1.2. Diễn biến tình hình tội phạm ở tỉnh Nam Định 42
2.2. Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định 42
2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh
Nam Định 43
2.2.2. Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Nam Định từ năm

(2009 - 2014) 45
2.2.3. Tình hình thụ lý, xét xử phúc thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản của TAND hai cấp tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) 50
2.2.4. Tình hình thụ lý, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản của TAND tỉnh Nam Định trong thời
gian từ năm (2009 - 2014) 51
2.2.5. Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 - 2014 52
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn
định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản trên địa bàn tỉnh Nam Định 57
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế 57
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 58
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM
HƯ HỎNG TÀI SẢN 62
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối
với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 62
3.2. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 66
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trong BLHS năm 1999 67
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 70
3.3. Một số giải pháp nâng cáo hiệu quả của việc định tội danh đối
với tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản 71
3.3.1. Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán 71
3.3.2. Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để đảm bảo hoạt
động áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử 73

3.3.3. Thực hiện chặt chẽ và thường xuyên việc giám sát, kiểm tra đối
với hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án 74
3.3.4. Tăng cường nguồn lực và cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và
hoàn thiện chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ tòa án 75
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CTTP: Cấu thành tội phạm
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa












DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1:

Thống kê tội phạm trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm
2009 - 2014 43
Bảng 2.2:

Số kết quả khảo sát thu thập số liệu về tình hình thụ lý,
giải quyết theo trình tự sơ thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản được xét xử sơ thẩm của Tòa án hai
cấp tỉnh Nam Định trong những năm gần đây 45
Bảng 2.3:

Tình hình xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) về tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và các tội xâm phạm sở
hữu khác 46
Bảng 2.4:

So sánh tỉ lệ số vụ án, số bị cáo xét xử sơ thẩm, của các
tội xâm phạm sở hữu với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Nam
Định từ năm (2009 - 2014) 49
Bảng 2.5:

Bảng thống kê số vụ án phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân
dân tỉnh Nam Định 51
Bảng 2.6:


Bảng thống kê số vụ án phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của
TAND tỉnh Nam Định 52
Bảng 2.7:

Bảng thống kê số liệu về các trường hợp xác định tội danh
sai của TAND hai cấp tỉnh Nam Định (2009 - 2014) 53





1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan
trọng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích
cực, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực mặt
trái nền kinh tế thị trường làm cho đời sống xã hội có những biến động phức
tạp như sự xa hoá, xuống cấp về đạo đức, lối sống , trong đó có nhiều vấn đề
mới phát sinh có liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm và tệ nạn xã hội. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả
các lĩnh vực, trong đó tình hình tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho
thấy, trong không ít vụ án, một số

Công dân không làm tròn nghĩa vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm,
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, cho nên các cơ quan
bảo vệ pháp luật phải tốn rất nhiều công sức để điều tra, khám phá vụ án.
Việc một số công dân không thực hiện quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác
hành vi phạm tội, có nghĩa là họ không tham gia đấu tranh chống tội phạm
nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức và trong các trường hợp do pháp luật hình sự quy định. Thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, đã đặt ra
nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết
như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng, nguyên nhân, điều

2
kiện của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Về mặt lý luận, xung
quanh vấn đề đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
"Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" với nội dung "sớm hoàn thiện hệ thống
pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật…, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù…” [11, tr.3]. Đặc
biệt, trong quá trình giải quyết có nhiều vụ án không xác định đúng tội danh, đã
khởi tố sai tội danh, dẫn đến việc phải ra quyết định thay đổi tội danh, hoặc
quyết định hình phạt không đúng hoặc phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Vì
thế, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt
đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống

tội phạm. Trong trường hợp định tội không chính xác, mặc dù mức hình phạt
có thể đã tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo
thực hiện nhưng việc kết án sai tội danh sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp
lý khác mà bị cáo phải gánh chịu như: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm,
tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn xác định án tích…
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy các cơ quan tiến hành tố
tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, đặc biệt là
đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản nói riêng. Thời gian gần đây tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản luôn có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nghiêm

3
trọng cho tài sản Nhà nước, tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung
của xã hội với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. BLHS do
Nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm, tuy vậy những quy định này chỉ nêu lên các dấu hiệu đặc trưng cơ bản
nhất của một cấu thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra vô
cùng phức tạp và đa dạng.
Quá trình giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp
luật, đồng thời bảo vệ một cách vững chắc các quyền sở hữu về tài sản của
công dân bằng pháp luật hình sự là một trong những nguyên tắc trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Ý thức được tầm
quan trọng đó, TAND tỉnh Nam Định không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng
cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra
việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp
nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, đảm
bảo các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có
sức thuyết phục cao và có tính khả thi. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít trường
hợp áp dụng pháp luật không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ
phạm tội, các dấu hiệu cấu thành tội phạm (CTTP) nên dẫn đến việc định tội

danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại, phổ biến nhất là ở
các tội xâm phạm sở hữu mang tính chất chiếm đoạt.
Do vậy, việc xác định đúng tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản để khi quyết định hình phạt nhằm trừng trị đồng thời giáo dục
người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, không bỏ lọt tội phạm và
không làm oan người vô tội là vấn đề vô cùng quan trọng. Xuất phát từ tính
cấp thiết nêu trên tôi lựa chọn đề tài "Định tội danh đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định" để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ luật học.

4
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc định tội danh đối với tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đã được một số nhà khoa học và cán
bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học.
Có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy, bài
viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu về những vấn đề
này. Cụ thể như sau:
Về tài liệu nghiên cứu là sách giáo trình, sách chuyên khảo, gồm có:
“Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm)” của GS.TSKH Lê
Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007; “Định tội danh - Lý luận, lời
giải mẫu và 500 bài tập thực hành” của GS.TSKH Lê Cảm và PGS.TS Trịnh
Quốc Toản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; “Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự - Phần các tội phạm”, tập II của Đinh Văn Quế, năm 2005; “Các tội
xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009)” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2010, Hà Nội;
“Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của GS.TS Võ Khánh
Vinh, Nxb Công an nhân dân năm 2001; “Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ
luật hình sự - Phần các tội phạm”, cuả ThS Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ

Chí Minh, năm 2005; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội
phạm” của TS Uông Chu Lưu (Chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2004;
“Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của Khoa luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội”, Nxb Chính trị Quốc, năm 2010), Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 1997.
Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản được tiếp tục đề cập trong “Giáo trình luật hình sự Việt Nam” của Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, năm 2000, Hà Nội; “Giáo trình
luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, năm 2002

5
Tài liệu nghiên cứu dưới góc độ là luận văn, luận án, gồm có: “Hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự Việt Nam” của Ngô Thị
Huyền Phương, Viện Nhà nước và pháp luật, năm 2010; “Trách nhiệm hình
sự đối với các tội xâm phạm sở hữu”, của tác giả Nguyễn Ngọc Chí, luận án
tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, năm 2000, Hà Nội.
Lê Văn Đệ (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Tài liệu là bài viết tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học, gồm có: Lê Cảm
(2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Học viện Tư pháp (2009), Chỉ
dẫn tra cứu Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà
Nội. Nguyễn Văn Hương (2003), “Vấn đề tình tiết hình sự trong Bộ luật
hình sự”, Tạp chí Luật học, Hà Nội. Dương Tuyết Miên (2005), Định tội danh
và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Đoàn Tấn Minh
(2010), Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các
tội phạm trong Bộ luật hình sự hiện hành, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đinh Văn
Quế (2000), Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Đinh Văn Quế (2005). Bình luận khoa học về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ,
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đào Trí Úc

(2001), "Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo
Luật hình sự Việt Nam", Nhà nước và Pháp luật . Trịnh Tiến Việt (2001),
"Một số điểm mới về các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự năm 1999",
Pháp lý. Võ Khánh Vinh (2003), "Thay đổi định tội danh, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn", Tòa án nhân dân.
Tuy nhiên, các công trình đã nêu trên chỉ nghiên cứu riêng rẽ qua việc
tranh luận tội danh để áp dụng giữa tội phạm này với tội phạm khác hay chỉ
đề cập phân tích chung trong các chương giáo trình, sách tham khảo, khóa
luận tốt nghiệp mà chưa có một công trình khoa học nào ở cấp độ một luận
văn thạc sĩ giải quyết riêng rẽ và độc lập một tội phạm cụ thể, việc định tội

6
danh tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và thực tiễn xét xử trên địa
bàn tỉnh Nam Định để qua đó đưa ra những giải pháp định tội danh, cũng như
để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các qui định trong việc phòng,
chống tội phạm này trong thực tiễn. Tính cấp thiết và ý nghĩa khoa học thực
tiễn của luận văn hoàn toàn có tính thời sự, nhất là trong giai đoạn hiện nay
tình hình các loại tội phạm nói chung diễn biến phức tạp, hành vi thực hiện tội
phạm ngày càng tinh vi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn tốt nghiệp, tôi mong muốn đưa ra cái nhìn
tổng quát về các quy định của pháp luật hình sự đối với việc định tội danh đối
với tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”, thực tiễn xét xử trên địa
bàn tỉnh Nam Định. Từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm, tồn tại và đưa ra giải
pháp góp phần hoàn thiện về "Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản", nâng cao việc áp dụng pháp luật của những người tiến
hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn làm rõ một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa và
căn cứ của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản cũng như những phân tích làm rõ những căn cứ pháp lý và căn cứ khoa
học của việc định tội danh đối với tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản” được quy định tại điều 143 của BLHS.
Thứ hai, phân tích thực trạng của việc định tội danh đối với tội “Hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” trên địa bàn tỉnh Nam Định trong thời
gian từ năm 2009 - 2014; đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại hạn chế
xung quanh việc thực hiện và những nguyên nhân cơ bản của nó.

7
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị việc hoàn thiện các quy
định của BLHS Việt Nam hiện hành cũng như những giải pháp bảo đảm thực
hiện nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội “Hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản”, cũng như công tác đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
3.3. Phạm vi phiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh việc định
tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, kết hợp với việc
nghiên cứu thực trạng định tội danh đối với tội này trên địa bàn tỉnh Nam
Định và tìm ra nguyên nhân của những tồn tại hạn chế để kiến nghị những
giải pháp hoàn thiện luật thực định và đề xuất những biện pháp bảo đảm thực
hiện các quy định của BLHS Việt Nam đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản, nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội phạm trong
thực tiễn phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Luận văn nghiên cứu về thực tiễn định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định trong 06 năm (2009 - 2014)
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, XI của

Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những việc tiến hành tố tụng của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và TAND trong việc định tội danh về
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh
Nam Định; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Nam Định về
tội phạm này.
Phương pháp luận của luận văn là dựa trên chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp

8
quyền, về chính sách pháp luật tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp
được thể hiện trong các nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, X và các nghị
quyết số 08 - NQ/TW; Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể và đặc thù như: phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so
sánh, đối chiếu, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch và quan trọng
hơn cả là phương pháp loại trừ.
5. Những đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu và những giải pháp trong của luận văn có ý nghĩa
nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả về định tội danh đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đồng thời góp phần đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng. Thông qua kết quả
nghiên cứu và những giải pháp, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của
mình vào việc phát triển lý luận về định tội danh giúp việc điều tra, truy tố,
xét xử các loại tội phạm nói chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản nói riêng được chính xác, tránh truy tố, xét xử oan và tránh bỏ lọt người
phạm tội, giúp cho hoạt động của các cơ quan tư pháp có hiệu quả góp phần
hữu hiệu vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc định tội danh
đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội
danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
Theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999 (được sửa đổi bổ sung
năm 2009) thì:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [21, tr.51].

- Bên cạnh đó theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm cho rằng:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính
logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được
tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được
và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và
kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [4, tr.33].

10
- Còn theo quan điểm của PGS.TS. Dương Tuyết Miên:
Định tội danh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ
quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và
một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để
xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là
tội gì, theo điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đây là quá
trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [15, tr. 9].
Tổng hợp các quan điểm trên đây, đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy phạm pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự liên quan
đến việc định tội danh ở Việt Nam, có thể đưa ra định nghĩa khoa học khái
niệm định tội danh như sau: Định tội danh có thể được hiểu là một quá trình
nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự
và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập
được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm
tra nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các cấu
thành tội phạm cụ thể, tương ứng do luật hình sự quy định [4, tr.21].
Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là một loại tội phạm
cụ thể được quy định tại Điều 143 BLHS Việt Nam. Một người được coi là

chủ thể của tội phạm này khi đáp ứng các điều kiện là người có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, và là người đã thực
hiện các hành vi được quy định tại điều 143 BLHS với lỗi cố ý, xâm phạm
đến quan hệ sở hữu.
Từ cơ sở lý luận cùng với các quy định của BLHS có thể đưa ra khái
niệm định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như
sau: Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các

11
cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một
số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trên cơ sở các
chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm
xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các CTTP cụ thể
được quy định trong điều 143 của BLHS, từ đó xác định một người có phạm
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không, và phạm tội theo khoản
nào của điều luật này.
1.1.2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản
Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có
những đặc điểm được dựa trên những đặc điểm đặc trưng của tội phạm này
như phải dựa vào CTTP của tội phạm được quy định trong điều 143 của
BLHS, việc định tội danh phải được tiến hành trước, trên cơ sở đó mới có thể
tiến hành được việc quyết định hình phạt
Do đó, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic được thể hiện dưới hai
khía cạnh: Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được
thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của CTTP cụ thể do điều tương ứng

trong phần các tội phạm của BLHS này hay không. Trên cơ sở đó, đưa ra sự
đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một hành vi nguy hiểm cho
xã hội cụ thể đã xảy ra trong thực tế khách quan.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, pháp luật không thể phản ánh được
hết tất cả các mặt của đời sống xã hội vốn rất sinh động và phong phú mà chỉ
ghi nhận những nét khái quát, phổ biến đặc trưng của thực tế để từ đó áp dụng
cho các trường hợp cụ thể trong cuộc sống. Tính chất khái quát và phổ biến

12
của quy phạm pháp luật và yêu cầu phải áp dụng nó một cách cụ thể là hai
mặt của một sự thống nhất biện chứng, đòi hỏi phải có sự nhận thức và phán
ánh chính xác, theo kịp và đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của hoạt động lập
pháp và vai trò quan trọng của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt
động áp dụng pháp luật.
Về nguyên tắc, chỉ khi sự đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế của CTTP
với các dấu hiệu pháp lý của CTTP được xác định là tương ứng và phù hợp
với nhau thì mới có thể kết luận được chính xác tội phạm đã xảy ra có phải là
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không và người phạm tội đã
phạm vào tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không, đồng thời
buộc họ chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản mà họ đã thực hiện.
Thứ hai, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản còn được hiểu là một hình thức hoạt động tiến hành tố tụng được tiến
hành bởi cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà
án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền để cụ thể hóa các quy phạm pháp
luật hình sự trừu tượng vào đời sống thực tế, tức là lựa chọn đúng quy phạm
pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào
đó được thực hiện trong thực tế khách quan và từ đó đưa ra kết luận là hành vi
được xem xét ấy có đầy đủ các dấu hiệu của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản được quy định trong pháp luật hình sự thực định hay không.

Thứ ba, việc thiết lập các dấu hiệu đặc trưng cơ bản và điển hình để xác
định bản chất pháp lý của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong
thực tế khách quan là một vấn đề rất quan trọng của quá trình định tội danh đối
với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, mà toàn bộ quá trình này phải
tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm của luật nội dung - được quy định trong
BLHS hiện hành, cũng như của luật hình thức - được quy định trong BLTTHS.

13
Thứ tư, với tính chất là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự,
được tiến hành về cơ bản theo bốn bước cụ thể:
- Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án đã xảy ra
trong sự phù hợp với hiện thực khách quan và các quy định của pháp luật đối
với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
- Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm
pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành.
- Lựa chọn đúng điều luật tương ứng trong phần các tội phạm của
BLHS quy định trách nhiệm hình sự đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản, để so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu CTTP này với các
tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện.
- Sau khi đã so sánh, đối chiếu, kiểm tra đầy đủ, chính xác thì ra một
văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo
sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi thực tế đã được thực hiện với cấu
thành tội phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định tại
điều 143 BLHS Việt Nam năm 1999.
Định tội danh là quá trình đối chiếu những tình tiết thực tế của tội phạm
đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành một loại tội phạm nhất định,
đó là sự thống nhất giữa các yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và
mặt chủ quan. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ nhưng lại cũng có tính
độc lập tương đối trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Căn cứ theo những
dấu hiệu chung đó, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, khi định tội danh

đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cần làm rõ những vấn đề
cơ bản sau:
Định tội danh theo khách thể của tội phạm
Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm
Định tội danh theo chủ thể của tội phạm
Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm

14
1.1.3. Phân loại định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
Căn cứ vào chủ thể tương ứng thực hiện việc định tội danh, Khoa học
Luật hình sự phân chia định tội danh làm hai dạng: Định tội danh chính thức
và định tội danh không chính thức [4, tr.23]. Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản có thể phân chia thành hai dạng định tội danh tương ứng
là định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức
1.1.3.1. Định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
“Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước, tính chất
pháp lý hình sự về một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước
ủy quyền thực hiện” [4, tr.23].
Do đó định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản có các đặc điểm cơ bản như sau:
- Định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản do các chủ thể được nhà nước ủy quyền thực hiện, do đó chủ thể của
dạng định tội danh này nhất thiết phải là người có thẩm quyền trực tiếp tiến
hành tố tụng đối với vụ án hình sự cụ thể đó là cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng. Theo quy định tại điều 33 BLHS năm 1999 thì, các
cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án;
Những người tiến hành tố tụng gồm có: Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan
điều tra, điều tra viên, Viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát

viên, Chánh án, phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký
Tòa án [23, tr.23]. Họ tiến hành các hoạt động định tội danh đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm được quy định trong BLTTHS.
- Hậu quả của việc định tội danh do các chủ thể đã nêu trên đây tiến

15
hành là các hậu quả pháp lý trách nhiệm hình sự như khởi tố vụ án hình sự,
bắt đầu quá trình điều tra, khởi tố bị can, truy tố hoặc xét xử. Vì ngay sau khi
nhận được đầy đủ các tin báo về tội phạm do các cá nhân, cơ quan, tổ chức
chuyển đến thì cơ quan điều tra trong phạm vi quyền hạn của mình phải kiểm
tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản nếu có những dấu hiệu của tội phạm này hoặc không khởi
tố vụ án hình sự nếu có những căn cứ được quy định tại điều 107 BLTTHS đó
là những căn cứ sau:
Không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội
phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi
chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có
bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá;
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường
hợp cần tái thẩm đối với người khác [23, tr.85].
Ngoài ra hậu quả của việc định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản còn là các hậu quả pháp lý hình sự như miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc ra bản án kết tội
- Trường hợp người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong giai
đoạn trước khi Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì căn cứ vào BLTTHS
năm 2003, chỉ có tội danh cuối cùng trong bản án (quyết định) của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật mới được coi là tội danh chính thức mà người phạm tội
đã thực hiện [4, tr.24]. Định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý

làm hư hỏng tài sản do nhiều chủ thể tiến hành và trong rất nhiều các giai
đoạn tố tụng khác nhau nhưng không có nghĩa là đối tượng phải gánh chịu
hậu quả của hoạt động định tội danh đó là người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản. Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định “không ai bị coi là

16
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật” [23, tr.12].
Khoản 1 điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định
và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Điều 102 Hiến pháp 2013 cũng khẳng định: "Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp" [25]. Như vậy, Hiến pháp đã khẳng định chức năng xét xử (định tội
danh) chỉ thuộc về Tòa án chứ không thuộc bất kỳ cơ quan nhà nước nào khác.
Trong quá trình xét xử công khai tại phiên tòa. Nếu có căn cứ để khẳng
định một người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì Tòa án sẽ
ra bản án kết tội. Trong trường hợp bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng
nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị. Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản
án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải xét xử theo thủ tục
phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hội đồng xét
xử tuyên án. Như vậy bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án là
văn bản định tội danh cuối cùng khẳng định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản đối với hành vi phạm tội đã xảy ra.
1.1.3.2. Định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản.
Theo quan điểm của GS - TSKH Lê Cảm thì “Định tội danh không
chính thức là sự đánh giá không phải về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình
sự của một hành vi phạm tội cụ thể” [4, tr.24].

Theo quan điểm của GS - TS Võ Khánh Vinh thì:
Định tội danh không chính thức là sự đánh giá pháp lý về
hành vi phạm tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả

17
bài báo, tạp chí, công trình khoa học, sinh viên, học viên hoặc bất
kỳ một người nào đó quan tâm nghiên cứu cụ thể vụ án này hay vụ
án khác đưa ra [43, tr.28].
Định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản có các đặc điểm sau đây:
- Chủ thể tiến hành định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không nhất thiết là những người nhất định nào,
họ không phải là những chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo quy định của
pháp luật mà có thể là bất cứ ai quan tâm đến vụ án hình sự và biết được các
tình tiết của vụ án mà đưa ra tội danh. Người định tội danh không chính thức
đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có thể liên quan đến hoạt
động tố tụng hoặc không liên quan đến hoạt động tố tụng, nhưng thông
thường họ là các luật gia trong lĩnh vực tư pháp hình sự hay các nhà khoa học
những người đang nghiên cứu, tìm hiểu, học tập luật hình sự
- Về hình thức thể hiện của định tội danh không chính thức đối với tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là các công trình nghiên cứu khoa
học, giáo trình, sách giáo khoa hay các bài báo Hình thức thể hiện của định
tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
được viết theo ý chí chủ quan của chủ thể định tội danh không chính thức chứ
không theo quy định của pháp luật vì nó không được pháp luật điều chỉnh.
- Hậu quả của định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ hình sự trong
các quan hệ pháp luật hình sự hay pháp luật tố tụng hình sự của các chủ thể
tham gia các quan hệ đó mà chỉ là các quan điểm khoa học hay ý kiến riêng
của các chủ thể định tội danh không chính thức đối với tội phạm này. Nếu

hoạt động định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản được dư luận xã hội quan tâm nhất là trong trường hợp nó đối
lập với kết quả của hoạt động định tội danh chính thức và phản ánh đúng yêu

×