Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.04 KB, 48 trang )

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
1. Cơ hội và thách thức của thị trường bán lẻ Việt Nam
Cơ hội của thị trường bán lẻ Việt Nam
Sức thu hút của thị trường bán lẻ Việt Nam
Quy mô thị trường bán lẻ VN năm 2007 khoảng 20 tỉ USD và đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân 8%/năm. Kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng 13%, tuy nhiên tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm rất cao - khoảng 30%. Sang năm 2008 với quy mô thị
trường trên 83 triệu dân, với doanh số là 55 tỷ USD, và có tổng trị giá thị trường bán lẻ
trị giá hơn 40 tỷ USD/ năm (số liệu của Tổng cục Thống kê). Chỉ số lòng tin của người
tiêu dùng (Consumer Confidence Index)- Việt Nam xếp thứ 5 trên toàn thế giới và
người tiêu dùng Việt Nam dẫn đầu thế giới về tiêu dùng hàng kỹ thuật cao. Riêng tại
TPHCM và Hà Nội, kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng khoảng 28% (năm 2008) và dự
kiến lên đến 37% vào năm 2010.
Thị trường lớn
Việt Nam là một thị trường khá lớn, với gần 90 triệu dân, cơ cấu dân số rất trẻ
với khoảng 65% dân số trong độ tuổi lao động, trên 55% dân số dưới 45 tuổi, hơn một
nửa dân số có độ tuổi dưới 30 và thu nhập của người dân ngày càng cao, tốc độ tăng
trưởng hàng năm cao, và dự báo con số tương ứng năm 2018 là 95 triệu (70 triệu dân
thành thị). Người thành thị VN dẫn đầu về tiêu dùng hàng Hi-tech. Việt Nam có mức
tăng trưởng GDP cao và ổn định, theo đó nhu cầu tiêu dùng cũng ngày một tăng lên.
Năm ngoái, tăng trưởng GDP là 8,4% và tiêu dùng thông qua thương mại hơn 45 tỷ
USD. Số liệu thống kê gần đây nhất cho thấy, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và
doanh thu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2008 ước tính đạt 447,3 nghìn tỷ đồng, tăng 30% so
với cùng kỳ năm trước. Qua đó cho thấy, tiềm năng phát triển hệ thống phân phối ở
nước ta là rất lớn.
Mặt khác sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ VN còn do áp lực cạnh tranh giữa
các hệ thống bán lẻ chưa nhiều và VN có đến 65% dân số là người tiêu dùng trẻ, chi
tiêu mạnh tay. Tầng lớp trung lưu với thu nhập 250USD/tháng trở lên đang tăng nhanh.
Riêng tầng lớp trung lưu thu nhập trên 500USD/tháng chiếm trên 1/3 số hộ gia đình ở
thành thị. Chính vì thế, sức hút của thị trường bán lẻ VN tăng nhanh khi năm 2007, VN
xếp hạng 2 trên thế giới sau Ấn Độ, nhưng tháng 6.2008 - theo xếp hạng của Cty tư vấn


Mỹ A.T.Keaney (Tổ chức Nghiên cứu thị trường hàng đầu tại Hoa Kỳ), về chỉ số phát
triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu thì Việt Nam đã đứng số 1, được coi là thị trường đầu
tư bán lẻ hấp dẫn nhất trong số 30 nước thuộc nhóm thị trường đang nổi lên. Trong
danh sách Top 10 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất, sau Việt Nam là Ấn Độ, giữ vị trí thứ
ba là Nga và thứ tư là Trung Quốc; tiếp đến là Ai Cập, Morocco, Ả-rập Saudi, Chile,
Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong các nước ASEAN, Malaysia đứng thứ 13, Indonesia ở vị
trí 15, Thái Lan là 24 và Philippines xếp thứ 26.
Theo các chuyên gia của A.T. Kearney, Việt Nam đạt được bước tiến ấn tượng
trong năm nay là nhờ kinh tế tăng trưởng mạnh, thể chế chính sách đang cải tiến theo
hướng thân thiện với nhà đầu tư nước ngoài và đặc biệt là nhu cầu của người tiêu dùng
về những mô hình bán lẻ hiện đại.
Theo Mike Moriarty, trưởng bộ phận nghiên cứu về tiêu dùng và bán lẻ của A.T.
Kearney, quy mô thị trường bản lẻ ở Việt Nam còn nhỏ, song vẫn rất hấp dẫn bởi áp lực
cạnh tranh chưa lớn, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên dưới 8%. Bên cạnh
đó, người tiêu dùng Việt Nam thuộc hàng trẻ nhất ở châu Á và ngày càng mạnh tay chi
tiêu. A.T. Kearney bắt đầu công bố GRDI từ năm 2001, trong đó đánh giá về độ hấp dẫn
của thị trường bán lẻ ở những nền kinh tế mới nổi, dựa trên 25 yếu tố khách nhau, bao
gồm cả rủi ro kinh tế, chính trị, mức độ hấp dẫn cũng như bão hòa của thị trường bán lẻ
, mức bão hòa của thị trường bán lẻ và sự khác nhau giữa tăng trưởng tổng sản phẩm
nội địa (GDP) và tăng trưởng bán lẻ. Hiện nay không nước nào trong số 10 thị trường
bán lẻ hàng đầu năm 1995 còn giữ được ngôi vị của mình. Song Linh (theo Reuters,
The Economic Times)
Theo Bộ Công Thương, hiện nay một số tập đoàn, DN phân phối,bán lẻ quốc tế
đang hoàn thiện hồ sơ,chuẩn bị đăng ký kinh doanh tại Việt Nam như: Dairy Farm
(Singapore) đã nộp đơn xin thành lập DN 100% vốn; Lotte (Hàn Quốc) vào Việt Nam
qua hình thức liên doanh; 2 tập đoàn hàng đầu thế giới là Wal – Mart (Mỹ) và Carrefour
(Pháp) cũng đang bắt đầu để ý tới thị trường Việt Nam. Đây là những thông tin đáng
mừng cho sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam nhưng lại là đáng lo đối với các
doanh nghiệp bán lẻ trong nước bởi từ lúc này sự cạnh tranh sẽ gay gắt hơn bao giờ hết.
Các tập đoàn bán lẻ lớn của nước ngoài như Metro của Đức, Casino của Pháp,

Parkson... đều đã có mặt ở Việt Nam. Một tập đoàn bán lẻ của Canada cũng đã công bố
kế hoạch khai trương chuỗi cửa hàng tiện lợi mang tên Circle K ở Việt Nam.
Thế mạnh của các nhà bán lẻ Việt Nam:
 Số lượng tăng nhanh chóng
 Lớp DN mới, trẻ, được đào tạo tốt;
 Năng động, sáng tạo; đa dạng hoạt động
 Tiềm năng phát triển và cơ hội
 Được quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước và Hiệp hội ngành hàng
 Hiểu biết về văn hóa, truyền thống, tâm lý của người tiêu dùng
 Phản ứng kịp thời, nhanh nhạy trước biến động của thị trường.
 Bước đầu sử dụng có hiệu quả các hoạt động.
Số lượng các DN nước ngoài và DN mới tham gia vào thị trường bán lẻ đã và sẽ
tăng lên: có cơ hội hợp tác, chia sẻ công nghệ, thông tin, kinh nghiệm.
Khi phát triển song song hai mô hình bán lẻ truyền thống và hiện đại:
 Tiềm năng phát triển mạnh mẽ của bán lẻ hiện đại: phong cách sống mới;
thu nhập và tiêu dùng tăng lên; người tiêu dùng Việt Nam trong thời đại
hội nhập; đa dạng các loại hình bán lẻ hiện đại (từ siêu thị, đại siêu thị,
chuỗi cửa hàng chuyên doanh, tiện lợi… đến trung tâm thương mại tổng
hợp) vv …
 Sức sống và sự thu hút của bán lẻ truyền thống ở Việt Nam: nét văn hoá
riêng, phong cách “cổ điển”, sản phẩm tươi mới và giá cả cạnh tranh,
người tiêu dùng ở khu vực nông thôn vv …
 Hội nhập kinh tế quốc tế: Ứng dụng công nghệ thông tin; Thương mại
điện tử; Các phương thức bán hàng qua điện thoại, qua mạng…
Thách thức của thị trường bán lẻ Việt Nam
Bà Vũ Thị Nga, Trưởng ban Bảo vệ người tiêu dùng, cho biết: “Nhiều doanh
nghiệp kinh doanh hàng nhập lậu, không rõ nguồn gốc nên không thực hiện nghĩa vụ
bảo hành. Một số doanh nghiệp lại thực hiện nghĩa vụ bảo hành không đầy đủ như, vi
phạm thời gian sửa chữa, bắt người tiêu dùng phải chịu chi phí sửa chữa, vận
chuyển…”

Thị trường kinh doanh bán lẻ dù đang phát triển nhanh chóng nhưng phần lớn
vẫn chỉ tập trung ở khu vực thành thị. Loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại vẫn chưa
đến được nhiều với người tiêu dùng Việt Nam.
Tác dụng hỗ trợ nông dân, các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp sản xuất lớn
thay đổi cung cách sản xuất theo hướng bài bản chỉ là một phần nhỏ, mà bên cạnh đó,
việc các hệ thống siêu thị của nước ngoài đang và sẽ “làm mưa làm gió” trên thị trường
tiêu dùng trong nước là một điều hết sức nguy hại.
Thay mặt Hiệp hội bán lẻ Việt Nam, bà Loan khẳng định: “Trong thời gian tới,
phân phối bán lẻ truyền thống sẽ thu dần phạm vi hoạt động, vẫn tồn tại chợ truyền
thống, cửa hiệu tạp hóa, nhưng số lượng sẽ ít đi. Đồng thời phát triển các loại hình kinh
doanh mới cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin".
Một vài chuyên gia đang dự đoán rằng suy thoái kinh tế sẽ “nghèo hóa” hàng
triệu người Việt Nam những người vừa thoát khỏi đói nghèo gần đây nhờ vào quá trình
phát triển và đô thị hóa nhanh chóng.
Ở phương diện người tiêu dùng, thu nhập trung bình mỗi hộ dân đang gia tăng
và trong khi những người giàu ngày càng giàu hơn thì có một tầng lớp trung lưu mới
nổi được hình thành.
Theo số liệu của ACNielsen, tổng giá trị tăng trưởng của ngành hàng tiêu dùng
nhanh là 20% trong tháng 12/2008 so với trước đó một năm và tỉ lệ tăng trưởng 4%
cách đây một năm. Lạc quan về viễn cảnh việc làm, giá cả thức ăn và năng lượng cho 6
tháng tới có thể nói đang ngày càng phân cực và những người đi mua sắm ngày càng
thắt lưng buộc bụng hơn trong một vài tháng đầu năm 2009 theo Nielsen Vietnam
Omnibus tháng 1-2/2009, chi tiêu dịp Tết trong năm nay đã giảm so với cùng kỳ năm
trước với hầu như 50% trong tổng số cho biết họ đã cắt giảm chi tiêu ít hơn trong Tết
này so với Tết năm ngoái. Có một điều thú vị là 10% cho biết họ chi tiêu nhiều hơn
trong những ngày nghỉ lễ Tết năm nay. Và 40% số người Việt Nam được khảo sát cho
biết họ quan tâm tới giá cả hơn so với trước. Người tiêu dùng nói rằng mọi thứ trở nên
đắt đỏ hơn và họ có ít tiền mặt hơn để tiêu xài cho dịp Tết vừa qua. 1/3 người dân chi
tiêu giảm xuống đối với những ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) ngoại trừ thực
phẩm và nói rằng họ giảm chi tiêu ở tất các các kênh mua sắm siêu thị, chợ và tiệm tạp

hóa. Người tiêu dùng Việt Nam còn cho biết trong vòng 6 tháng tới, họ sẽ giảm mức chi
tiêu đối với những ngành hàng không phải ăn uống như đồ dùng trong nhà, hàng điện
tử, hàng chăm sóc mặt và quần áo và cả các hoạt động giải trí. Hơn phân nửa số người
được khảo sát nói rằng họ sẽ giảm chi tiêu tiền điện thoại, tiền điện, xăng dầu và chi phí
sinh hoạt nói chung. Hơn một nửa có ý định sẽ giảm chi tiêu trong 6 tháng tới với
ngành hàng thức ăn nhanh và nước ngọt có ga. (Vneconomy.vn)
Trong thời gian qua, chúng ta có giảm thiểu một chút do lạm phát nhưng về lâu
dài, thị trường Việt Nam vẫn là thị trường nóng bỏng.
Thương mại thế giới sẽ suy giảm xuống mức gần 9%, theo dự báo của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Bị tác động mạnh mẽ nhất sẽ là các nước phát triển,
thương mại sẽ bị rơi xuống 10%. Các nước nghèo xuất khẩu sẽ giảm 2-3%, WTO cảnh
báo tình trạng suy thoái kinh tế sẽ còn tiếp tục suy sụp, nhưng những quyết định thương
mại sẽ là “một công cụ tiềm năng” để phục hồi, tổng giám đốc WTO, Pascal Lamy
nhận định: Đây là lần suy giảm thương mại lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai,
đồng thời ông kêu gọi các nhà lãnh đạo toàn thế giới đấu tranh chống lại chủ nghĩa bảo
hộ.
Thương mại là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu được thảo luận tại
cuộc họp của các quan chức chính phủ các nước G20 tại London vào ngày 2.3 vừa qua.
Ngài Lamy cảnh báo rằng việc sử dụng biện pháp bảo hộ đã tăng lên, với những hậu
quả nguy hiểm: “ hàng nghìn việc làm liên quan đến thương mại đã bị mất. Chính phủ
phải tránh để đưa tình trạng này trở nên tồi tệ hơn khi trở lại với phương pháp bảo hộ,
một phương pháp không thật sự bảo vệ được quốc gia nào và đe dọa nghiêm trọng hơn
tới việc làm”
2. Thực tế thị trường bán lẻ Việt Nam
Nhận định về các doanh nghiệp bán lẻ trong nước
Việt Nam mới chỉ có một số đơn vị có phương thức kinh doanh và phân phối
tương đối chuyên nghiệp như: Tổng công ty Thương mại Sài Gòn Satra với 40 doanh
nghiệp (DN) trực thuộc, Tổng công ty thương mại Hà Nội, chuỗi siêu thị Citimax,
Fivimart, hệ thống Maxi Mart, CoopMart...
Thực tế cho thấy các đơn vị bán lẻ trong nước còn chưa nhiều, lại thiếu tính

chuyên nghiệp và vốn ít; hệ thống hậu cần như kho bãi, xe chuyên dùng, nguồn hàng
rời rạc, thiếu đồng bộ và chưa đạt chuẩn; hạ tầng giao thông kém...Hầu hết các nhà
phân phối bán lẻ đều ở quy mô nhỏ, yếu về năng lực, hạn chế về mặt hàng phục vụ,
nguồn nhân lực chưa được đào tạo cơ bản...Vì thế, việc mở thị trường bán lẻ cho các
doanh nghiệp nước ngoài với trình độ văn minh thương mại cao là một thách thức rất
lớn để tồn tại và phát triển.
Bên cạnh đó, Chính phủ hầu như chưa phát huy được vai trò của mình trong việc
định hướng cũng như giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước. Điển hình là việc cấp giấy
phép hoạt động cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài nhìn lại ta sẽ thấy hầu hết
những siêu thị, trung tâm thương mại nước ngoài đều chọn được những vị trí đẹp nhất,
gần vị trí trung tâm, nơi tập trung dân cư, giao thông thuận tiện, mặt bằng rộng.
Khó khăn đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam đó là năng lực cạnh
tranh của từng doanh nghiệp yếu vì đại bộ phận các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình
độ quản lý lạc hậu, phương thức kinh doanh chưa tiên tiến, cơ sở hạ tầng kinh doanh
chưa hiện đại, chiến lược kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức.
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm trong đào tạo, tổ chức
cung ứng…
Đồng thời, tính liên kết giữa các doanh nghiệp yếu như: liên kết dọc giữa nhà
sản xuất-nhà bán buôn-nhà bán lẻ; liên kết ngang giữa nhà bán buôn với nhà bán buôn,
nhà bán lẻ với nhà bán lẻ; liên kết giữa nhà phân phối với các nhà cung ứng dịch vụ
ngân hàng…
Đối với DN bán lẻ Việt Nam trong những năm qua, chúng ta rất tiến bộ và tăng
trưởng đáng khích lệ. Cụ thể, từ hình thức bán lẻ truyền thống chúng ta đã bắt nhịp hình
thức bán lẻ hiện đại thông qua các siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm,
các chuỗi cửa hàng mang tính chuyên ngành như may mặc, điện máy, nội thất... Trong
những hình thức như vậy thì các DN Việt Nam cũng cần nỗ lực phấn đấu hết sức để làm
sao học tập những điểm mạnh, ưu điểm của hệ thống phân phối của các nhà bán lẻ nước
ngoài.
Với phẩm chất của DN Việt Nam, trong thời kỳ hội nhập với rất nhiều doanh
nhân trẻ, năng động, được đào tạo bài bản và với một quyết tâm cùng với sự khéo léo.

Đặc biệt đối với DN bán lẻ chúng ta có lợi thế là hiểu biết về văn hóa, lịch sử, truyền
thống cũng như tập quán mua sắm, tiêu dùng của người Việt Nam cùng sự linh hoạt của
các DN vừa và nhỏ trong lĩnh vực này. Mặc dù sẽ gặp nhiều khó khăn và thách thức rất
lớn nhưng DN trong nước sẽ khẳng định được mình.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao các nhà sản xuất trong nước và nước ngoài lại
phải tìm đến các nhà phân phối và bán lẻ nước ngoài như Diethlem, Metro, Big C,
Lotte, v.v. thay vì các đối tác trong nước?
Câu trả lời đó chính là chất lượng và hiệu quả phân phối. Các doanh nghiệp này
đã thực hiện chuyên nghiệp và hữu hiệu các chức năng cơ bản và quan trọng của kênh
phân phối đó là nghiên cứu, chiêu thị, tiếp xúc, làm thích ứng, đàm phán, kho vận, đầu
tư và chấp nhận rủi ro. Ngoài ra, các nhà phân phối và bán lẻ này sở hữu 3 chữ E rất
quan trọng đó là sự thông thạo (expertise), vốn (equity) và kinh nghiệm toàn cầu
(experience) trong lãnh vực phân phối và bán lẻ. Các nhà phân phối và bán lẻ Việt Nam
chỉ phân phối và bán lẻ trong lãnh thổ Việt Nam do vậy thiếu sự thông thạo về các mô
hình phân phối và bán lẻ đã và đang áp dụng trên thế giới. Cùng với sự thiếu thông thạo
là sự thiếu hiểu biết về thông tin của các nhà phân phối và bán lẻ nước ngoài. So với các
đồng nghiệp nước ngoài, các nhà phân phối và bán lẻ Việt Nam không có tiềm lực tài
chính đủ mạnh vì chỉ tham gia phân phối và bán lẻ tại thị trường Việt Nam. Mặc khác,
họ lại hoạt động độc lập và thiếu sự liên kết do vậy không huy động được nguồn tài
chính đủ mạnh để cạnh tranh. Cuối cùng đó là thiếu kinh nghiệm trong quản lý phân
phối và bán lẻ cũng như trình độ nhân lực phục vụ cho ngành phân phối và bán lẻ còn
yếu kém.
Nhìn bề ngoài ta có thể nhận thấy sự bùng nổ của các nhà phân phối và bán lẻ
Việt Nam với sự gia tăng với tốc độ chóng mặt về số lượng các cửa hiệu (stores) của
CoopMart, Vinatex, Hapro, G7, Citimart, v.v. nhằm chiếm lĩnh những mặt bằng tốt
chuẩn bị đón đầu với làn sóng của các nhà phân phối và bán lẻ nước ngoài tuy nhiên sẽ
là chưa đủ và không hiệu quả nếu các doanh nghiệp này không hoàn thiện thực chất các
yếu tố 3E kể trên.
Nếu không nhìn vào tên, có lẽ chẳng ai nhận ra sự khác biệt giữa các siêu thị
Co.op Mart, Big C hoặc Citimart…Nhỏ hơn một chút là các hệ thống: Hapro,

Maximark… Tuy nhiên, những hệ thống này cũng chưa cho thấy lý do để thuyết phục
khách hàng đến với họ mà không phải là những siêu thị khác. Dường như những siêu
thị của Việt Nam chỉ đơn thuần tạo nên nơi mua sắm có gắn máy lạnh, nhiều hàng hoá
và… phải xếp hàng khi thanh toán. Thấp hơn một chút nữa là các cửa hàng tiện dụng.
Tại Việt Nam, chúng ta biết đến các hệ thống như Shop & Go, Fresh Mart (Tập đoàn
CP, Thái Lan), G7 Mart… Ngoài ra, tại thị trường Việt Nam tồn tại những mô hình bán
lẻ theo kiểu chuyên biệt: Nguyễn Kim, Best Caring, Viễn Thông A…Đây có thể là một
xu hướng khả dĩ để đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt. Bởi chính độ chuyên biệt đã
xác định rõ nhóm khách hàng. Chẳng hạn, tới Nguyễn Kim nghĩa là khách hàng muốn
mua hàng điện máy gia dụng. Sự chuyên biệt hoá sẽ góp phần hình thành chân dung
khách hàng mục tiêu. Tuy nhiên, dường như sự khác biệt giữa các đối thủ cùng phân
khúc này cũng thật sự chưa rõ ràng. Một loại hình nữa là: trung tâm thương mại. Với
nhữngn tên tuổi: Diamond Plaza, Zen Plaza, Parkson… tập trung vào nhóm khách hàng
cao cấp ở những đô thị lớn. Chính nhóm này sẽ cạnh tranh quyết liệt với nhau để tồn
tại. Đây là nhóm có đội quản lý chuyên nghiệp, chất lượng, dịch vụ và thương hiệu lớn.
Bản thân nhóm này cũng có nhiều chiêu thức marketing để thu hút khách hàng mục tiêu
của mình. Trong khi đó, Metro Cash & Carry có thể được xem là mô hình cung cấp sỉ
những mặt hàng thiết yếu khác biệt nhất hiện nay ở Việt Nam.
Metro làm marketing bài bản, chuẩn mực. Họ xác định nhóm khách hàng của
mình rất rõ ràng bằng cách xác lập 90.000 hội viên. Đây là nhóm khách hàng có thu
nhập trung bình cao. Quan trọng là Metro kết hợp với nhà cung cấp để có mực giá rẻ
nhất có thể. Đó là lý do mà Metro dường như không có đối thủ tại Việt Nam.
Tóm lại, các nhà bán lẻ Việt Nam ít nhiều cũng đã có sự chuẩn bị về công tác
marketing. Tuy nhiên, những chuẩn bị của họ dường như chưa đủ mà chỉ cần nhìn vào
cách định vị khách hàng cũng có thể nhận thấy nhiều nỗi lo.
Điểm yếu của các DN phân phối ở Việt Nam là tính chuyên nghiệp chưa cao, do
chỉ có khoảng 4-5% nhân lực được đào tạo chuyên ngành. 60-70% DN phân phối chưa
sử dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực quản lý và khoảng 20% đơn vị mới xây dựng
website với nội dung đơn giản, ít được cập nhật.
Theo một nghiên cứu mới đây của Tập đoàn IBM, thách thức lớn nhất mà ngành

bán lẻ VN đang phải đối mặt là sự xuất hiện của nhật kí điện tử (blog), diễn đàn trực
tuyến và thế giới ảo…Cụ thể, ông Andrew Ma, Giám đốc phụ trách Giải pháp ngành
bán lẻ của IBM Châu Á - Thái Bình Dương trong một hội thảo về ngành bán lẻ VN mới
đây đã cho hay, với sự xuất hiện của blog, diễn đàn trực tuyến, internet…đã làm cho
phạm vi và cách thức tiếp xúc khách hàng của doanh nghiệp (DN) bán lẻ trở nên đa
dạng và rộng hơn - sự thuận tiện mọi lúc mọi nơi và công nghệ ảo hóa đã và đang tác
động mạnh đến ngành bán lẻ VN, tương lai của ngành nằm ở khả năng hợp nhất thực tế
và môi trường ảo của DN để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Nói về tác động của internet
tới ngành bán lẻ ông Andrew Ma cho biết hiện tại trên thế giới đã có nhiều DN áp dụng
công nghệ ảo hóa vào kinh doanh, tiến hành tạo mẫu và phát triển sản phẩm trên nền
sản phẩm Cuộc sống thứ hai (Second Life) như thiết lập mạng internet 3 chiều, khởi
động mạng internet 3D, kinh doanh ảo EBO và các môi trường ảo khác.
Theo đó, ban đầu chỉ có vài DN gia nhập thế giới ảo như Sony, Reebok,
Nissan… nhưng đến nay đã có rất nhiều hãng áp dụng thành công công nghệ ảo hóa
vào kinh doanh bán lẻ, tăng cao lợi nhuận như Sears, Adidas, American Apparel, Apple
và Samsung. Tại VN, theo khảo sát của IBM, các hệ thống bán lẻ lớn như Metro
CashCary, Big C, Parkson… đã vận hành các giải pháp công nghệ tiến tiến dành cho
ngành bán lẻ, còn các DN VN hiện chỉ có một số tiến hành dùng thí điểm. Riêng đối với
việc gia nhập kinh doanh trong thế giới ảo thì vẫn còn xa lạ tại thị trường VN.
“Chúng tôi cho rằng đây là thời điểm để DN bán lẻ VN đánh giá lại thị trường,
xác định rõ đối thủ cạnh tranh của mình là ai để kịp thời chọn các giải pháp kinh doanh
theo xu hướng bán lẻ hiện đại” - ông Andrew Ma nói.
“Đây là cơ hội đồng thời cũng là thách thức mới của DN, bởi đối thủ cạnh tranh
bây giờ có thể là bất kỳ ai, ở bất cứ nơi đâu. Khách hàng ngày càng có nhiều thông tin,
đòi hỏi cao hơn và có sức mạnh lớn hơn” - ông Andrew Ma cho biết thêm.
Bên cạnh đó, IBM cho rằng sự xuất hiện các chuỗi cửa hàng chuyên biệt và sự
có mặt của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu tại thị trường VN cũng góp phần thay đổi diện
mạo thị trường. Các cửa hàng VN muốn cạnh tranh buộc phải cải tiến dây chuyền cung
ứng, cải tiến qui trình kinh doanh để nâng cao năng suất, hiệu quả.
DN bán lẻ nước ngoài có tính chuyên nghiệp rất cao. Họ sử dụng công nghệ hiện

đại, có tiềm lực về tài chính mạnh, có hệ thống hỗ trợ tốt...
Thuận lợi và khó khăn của nghành bán lẻ Việt Nam.
Thuận lợi.
Hiện kênh phân phối truyền thống đang chiếm khoảng trên 85% lưu chuyển
hàng hóa bán lẻ.
Về dài hạn, tỷ lệ này giảm dần nhưng về tuyệt đối sẽ tăng lên. Đây là dư địa cho
các doanh nghiệp, hộ kinh doanh Việt Nam vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chủ yếu vào khai thác thị trường thông qua kênh phân phối hiện đại (trung tâm
thương mại, đại siêu thị, siêu thị…). Đặc điểm của phân phối (nhất là bán lẻ) là tính
phân tán cao và gắn với địa điểm bán lẻ cụ thể, với địa bàn dân cư cụ thể.
Với mạng lưới các điểm bán lẻ khá dày đặc, phân bố khắp nơi đang trở thành
một lợi thế cho doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam. Hơn ai hết, các doanh nghiệp
và hộ kinh doanh Việt Nam gắn bó về văn hóa, hiểu biết về tập quán, nhu cầu của người
tiêu dùng Việt Nam và có cơ hội để học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, phương thức
kinh doanh hiện đại cũng như có thêm động lực trong việc đổi mới và phát triển kinh
doanh.
Hơn nữa, trong cam kết, để có thời gian cho doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị,
Chính phủ đã thực hiện việc mở cửa theo lộ trình, áp dụng kiểm tra nhu cầu kinh tế khi
cấp phép từ cơ sở bán lẻ thứ hai trở lên đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
không mở cửa hoặc mở cửa theo lộ trình đối với một số hàng hóa.
Để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho các DN, Hiệp hội các
nhà bán lẻ Việt Nam đã ra mắt vào ngày 5/10/2007 với khoảng 130 DN tham gia. Vai
trò của Hiệp hội là đảm bảo môi trường kinh doanh cho các nhà sản xuất, cung cấp
hàng hóa dịch vụ cho các nhà bán lẻ, bảo vệ quyền và ích chính đáng cho DN hội viên;
bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng...
Khó khăn của các doanh nghiệp nước ngoài:
Thị trường bán lẻ Việt Nam với quy mô khoảng 20 tỷ USD và thu nhập đầu
người dưới 1.000 USD/năm; Quy mô thị trường nhỏ, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ cản
bước tiến của những doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu khiến sức mua sụt giảm mạnh trên toàn thế giới, trong đó có cả Việt

Nam. Các doanh nghiệp phân phối lớn hiện phải đối phó với những khó khăn do cuộc
khủng hoảng tài chính đưa lại và sẽ không để mắt đến những thị trường mới trong một
vài năm tới.
Thông thường hệ thống bán lẻ muốn phát triển phải có vị trí kinh doanh thuận
tiện là mặt đường đồng nghĩa với việc phải có tiềm lực tài chính rất mạnh, đó là chưa
kể các nhà bán lẻ nước ngoài muốn thiết lập các chuỗi siêu thị tại Việt Nam. Vấn đề này
thật không đơn giản vì phân bổ đất đai cho hạ tầng thương mại của Việt Nam còn chật
hẹp, giá thuê lại quá cao . Tại các tòa nhà thương mại cao cấp ở trung tâm với giá thuê
dao động 65 - 150 USD/m2/tháng, tại các vị trí không trung tâm có giá thuê khoảng 25 -
60 USD/m2/tháng.
Phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam
Một loạt sự kiện trong nước và thế giới đang diễn ra khẳng định một điều: người
bán lẻ, người tiêu dùng Việt Nam đang là tâm điểm của thế giới kinh doanh hiện nay.
Nhiều nhà đầu tư đang nhắm đến Việt Nam…
Ngày 01.01.2009 là thời điểm mà Việt Nam mở cửa thị trường bán lẻ theo lộ
trình cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam. Dư luận "đồn đoán" nhiều về số phận
của các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ trong nước sẽ bị ảnh hưởng, khi các doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài được tham gia vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, theo phân tích
của các chuyên gia thương mại trong và ngoài nước cho thấy sẽ không có biến động lớn
trên thị trường ngay sau ngày mở cửa.
Các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ trong nước nói chung, có lợi thế rất lớn về
"sân nhà" với sự thông thuộc, am hiểu một cách sâu sắc văn hóa, thói quen tiêu dùng
của người địa phương, trong khi "nhập gia tùy tục" không phải là chuyện đơn giản mà
những "vị khách lạ" có thể làm tốt trong ngày một ngày hai; ngoài ra các doanh nghiệp
phân phối, bán lẻ Việt Nam còn rất nhiều không gian để phát triển khi mà các đại gia
bán lẻ nước ngoài chỉ tập trung vào những tỉnh, thành phố lớn. Vì vậy, nếu biết tận dụng
thế mạnh này, liên tục tiếp cận, nắm bắt nhu cầu ngày càng cao và khắt khe của khách
hàng, tiến hành đồng bộ các giải pháp để trang bị những điều kiện cần thiết có thể thỏa
mãn được những nhu cầu đó, thì các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ Việt Nam hoàn
toàn có cơ hội và khả năng thích ứng.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ Việt Nam có lợi thế vượt trội
khi phát triển mô hình cửa hàng tiện lợi; còn các doanh nghiệp nước ngoài khó có khả
năng thao túng phân khúc thị trường này do có nhiều hạn chế từ hiểu biết về tập quán,
về thị hiếu, thu nhập đến thời gian đầu tư và thu hồi vốn, địa điểm bán lẻ,... trong khi
các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ Việt Nam lại rất dễ thực hiện thông qua việc cải tạo,
mua đứt, thuê hoặc sáp nhập cửa hàng, kể cả các bà buôn thúng, bán mẹt, chỉ cần cải
tạo các cơ sở đó thành điểm bán lẻ tiện lợi đã có mạng lưới bán lẻ rộng khắp, do đó
tương lai các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ Việt Nam có nhiều thuận lợi để tồn tại và
phát triển.
Kết quả khảo sát người tiêu dùng tại Hà Nội và TPHCM của AGROINFO cho
thấy, các nhà bán lẻ trong nước đang đáp ứng tốt hơn sự kỳ vọng của người tiêu dùng
trong một số tiêu chí. Trường hợp của chuỗi siêu thị Co.opMart là một ví dụ điển hình.
Chuỗi siêu thị Co.opMart được người tiêu dùng đánh giá khá cao khi đáp ứng được
phần lớn các tiêu chí mà họ kỳ vọng nhiều như giá cả cạnh tranh, thanh toán nhanh gọn,
gần nhà và thuận tiện về giao thông so với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài là Metro
Cash & Carry và Big C. Điều này rõ ràng là một tín hiệu đáng mừng cho ngành kinh
doanh bán lẻ của Việt Nam trong bối cảnh thị trường sắp tới.
2.2.2.2 Khó khăn.
Khó khăn đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam đó là năng lực cạnh
tranh của từng doanh nghiệp yếu vì đại bộ phận các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình
độ quản lý lạc hậu, phương thức kinh doanh chưa tiên tiến, cơ sở hạ tầng kinh doanh
chưa hiện đại, chiến lược kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức.
Đồng thời, tính liên kết giữa các doanh nghiệp yếu như: liên kết dọc giữa nhà
sản xuất-nhà bán buôn-nhà bán lẻ; liên kết ngang giữa nhà bán buôn với nhà bán buôn,
nhà bán lẻ với nhà bán lẻ; liên kết giữa nhà phân phối với các nhà cung ứng dịch vụ
ngân hàng…trong đó các doanh nghiệp Việt Nam có 3 điểm yếu lớn sau:
Tài chính: Đây là yếu tố không cần bàn cãi nhiều.
Hậu cần (logistics): Kinh doanh siêu thị hiện đại đòi hỏi một hệ thống hậu cần
chuyên nghiệp. Tổng giám đốc của Metro Cash&Carry cho biết Metro đã chi gần 20-25
triệu euro trang bị hệ thống cung ứng hàng (kho lạnh, xe chuyên dụng, thiết bị kiểm tra,

bảo quản hàng hóa...) theo chuẩn của Metro toàn cầu và chi gần 800.000 euro cho công
tác huấn luyện. Trong khi đó, ở các siêu thị của Việt Nam, các giám đốc siêu thị vẫn còn
tranh cãi với nhau về việc trung tâm phân phối hoặc nhà cung cấp không giao đủ hàng
bán trong dịp lễ, Tết mà chưa có biện pháp nào để khắc phục tình trạng này. Việc điều
phối các xe giao hàng đúng loại, đúng nơi, đúng thời điểm vẫn còn được điều hành,
quản lý khá đơn giản. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà còn
làm gia tăng chi phí lao động cũng như quản lý.
Tính chuyên nghiệp: Kinh doanh bán lẻ hiện đại đòi hỏi nhà quản lý có những
công cụ hỗ trợ để đưa ra các quyết định. Đối với một hệ thống siêu thị, bộ phận mua
hàng đóng vai trò khá quan trọng. Chuyên viên mua hàng chuyên nghiệp có thể điều
đình với nhà cung cấp trên tất cả mọi phương diện từ giá cả, số lượng, thời gian giao
nhận hàng, các chương trình tiếp thị, khuyến mãi, quy cách bao bì, đóng gói... Thậm chí
họ có thể tư vấn lại cho nhà cung cấp nên sản xuất hàng như thế nào, tiếp thị, quảng bá
ra sao... Tuy nhiên, ở khâu này, dường như các chuyên viên mua hàng của các nhà bán
lẻ nước ngoài tỏ ra lấn lướt. Giám đốc một doanh nghiệp dệt may kể rằng ông chào
hàng ở Metro, bộ phận mua hàng ở đây trình bày cho ông xem tất cả những quy chuẩn
của ngành hàng, mẫu mã, màu sắc, kích cỡ, phần trăm cho tiếp thị quảng cáo, những
điều khoản hỗ trợ của bên mua và những yêu cầu với nhà cung cấp... Tất cả được vi
tính hóa, cập nhật và trình bày rõ ràng, minh bạch cho nhà cung cấp tham khảo. Trong
khi đó, khi ông làm việc với các siêu thị Việt Nam, quá trình thương lượng diễn ra rất
sơ sài. Cho nên khi bộ phận mua hàng từ chối bán hàng của doanh nghiệp, ông hoàn
toàn cảm thấy không thể nào “tâm phục, khẩu phục”.
Từ ba điểm yếu lớn nhất này của hệ thống bán lẻ Việt Nam, có thể thấy trong
một tương lai không xa, việc doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam bị chi phối và mất dần thị
phần về tay các nhà bán lẻ nước ngoài là điều khó tránh khỏi.
Sự đổ bộ của các doanh nghiệp nước ngoài:
Tập đoàn Best Denki, một trong 5 “đại gia” bán lẻ điện máy lớn nhất Nhật Bản
đã “tăm tia” thị trường Việt Nam. Best Denki hiện sở hữu 570 chuỗi siêu thị tại Nhật và
40 siêu thị ở Singapore, Malaysia, Hồng Kông (Trung Quốc), Indonesia, ...Với kinh
nghiệm 55 năm thành lập và gần hai năm hoạt động theo phương thức nhượng quyền

thương mại với một DN Việt Nam, Best Denki đã sẵn sàng liên doanh để trực tiếp tham
gia thị trường này. Ông C.J. Raij, Giám đốc bộ phận kinh doanh tiếp thị và phát triển thị
trường nước ngoài của Best Denki cho biết, với mong muốn trực tiếp đầu tư và được
tham gia kinh doanh tại thị trường bán lẻ điện máy ở Việt Nam, Best Denki và các đối
tác vừa kết thúc giai đoạn đàm phán và đang hoàn tất thủ tục, chuẩn bị thành lập liên
doanh trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, không thể không kể đến những tên tuổi đã có mặt và chiếm thị phần
đáng kể ở thị trường bán lẻ Việt Nam như: South Asia Investments Pte (Singapore), hệ
thống siêu thị Big C (Pháp), Metro Cash & Carry (Đức), Zen Plaza (Nhật Bản),
Diamond Plaza (Hàn Quốc), Parkson (Tập đoàn Lion, Malaysia),... Các tập đoàn này
không chỉ tập trung tại các thành phố có sức mua lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội mà
còn mở rộng phạm vi hoạt động đến các tỉnh thành tại miền Trung, miền Tây... Metro
Cash & Carry - nhà phân phối lớn thứ 5 thế giới, một trong hai tập đoàn phân phối có
mặt đầu tiên tại Việt Nam - mới đây đã đưa 2 trung tâm phân phối tại Hải Phòng và Đà
Nẵng vào hoạt động, nâng tổng số trung tâm phân phối của tập đoàn này tại VN lên con
số 7. Big C sau khi khai trương siêu thị ở Hà Nội cũng đang tiếp tục kế hoạch đầu tư
120 triệu USD để mở các siêu thị tại Cần Thơ, Đà Nẵng và mở thêm nhiều siêu thị tại
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; Tập đoàn Parkson cũng có dự định xây dựng 10 trung tâm
mua sắm...
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay một số tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới
đã đến khảo sát thị trường và bày tỏ ý định đầu tư vào Việt Nam, trong đó có tập đoàn
bán lẻ hàng đầu thế giới với doanh số gần 40 tỷ USD là Tesco (Anh). Ngoài ra, hai nhà
bán lẻ nổi tiếng là WalMart và Carrefoul cũng đang “lăm le” đầu tư. Theo ông Tham
Tuck Choy, Tổng giám đốc Parkson tại Việt Nam: “Với hơn 80 triệu dân, trong đó đa
phần là giới trẻ, thu nhập của người dân ngày càng cao, nhu cầu tiêu dùng đa dạng...,
Việt Nam luôn được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng”.
2. PHÂN TÍCH 4 MÔ HÌNH BÁN LẺ ĐẶC TRƯNG TẠI VIỆT NAM
1. Siêu thị - siêu thị Coop Mart
Sơ lược về Coop Mart
Theo Bộ Công Thương, hoạt động dịch vụ phân phối, bán lẻ, đóng góp khoảng

15% GDP cả nước hàng năm. Với hơn 90 triệu dân và hàng chục triệu du khách mỗi
năm, thị trường bán lẻ Việt Nam khá lớn và hấp dẫn đối với các nhà phân phối nước
ngoài.
Hệ thống Co.opMart là chuỗi siêu thị bán lẻ trực thuộc Saigon Co.op, đơn vị
này hiện đang sở hữu 47 siêu thị bao gồm 22 siêu thị tại TP.HCM và và 25 siêu thị tại
các tỉnh, thành phố lớn khác trong cả nước. Các siêu thị Co.opMart có đặc điểm chung
là thân thiện, gần gũi với khách hàng, mang đến cho khách hàng sự tiện lợi và nhiều
dịch vụ tăng thêm. Có thể ví Saigon Co-op và chuỗi siêu thị Co.opMart như một cô gái
được mến thương, không vì nhan sắc lộng lẫy, gia tài kết sù, học vấn siêu hạng,.. nhưng
là nét bình dị, duyên dáng, đảm đang, ân cần, đầy tình người, đượm phong cách VN,..
Thương hiệu Co.opMart đã trở thành một trong những thương hiệu có tên tuổi trên thị
trường hệ thống bán lẻ bởi việc luôn cố gắng hoàn thiện để đem đến sự phục vụ tốt hơn
cho khách hàng. Với gam màu xanh đỏ trắng (Mart màu đỏ, nhỏ nổi bật trên nền màu
xanh của chữ Co.op, hai chữ ấy kết hợp hài hòa trên nền màu trắng) tạo nên một phong
cách riêng,độcđáo cho thương hiệu. Ngoài ra, với slogan (khẩu hiệu): “Bạn của mọi
nhà" và "Nơi mua sắm đáng tin cậy" nó đã trở nên có sức sống thật sự, tồn tại trong "bộ
nhớ" của người tiêu dùng chứ không chỉ trên băng rôn, tờ bướm quảng cáo hay các bản
tin hàng hoá thông thường.
Sản phẩm kinh doanh
Hệ thống siêu thị Co.op Mart kinh doanh gần 30.000 mặt hàng, bao gồm: Thực
phẩm tươi sống tươi ngon, thực phẩm công nghệ đa dạng, đồ dùng phong phú với nhiều
mẫu mã mới, hàng may mặc thời trang, chất lượng, giá phải chăng, cùng với dịch vụ
khách hàng phong phú, tiện lợi và sự thân thiện của nhân viên Co.opMart là lý do
Co.opMart trở thành “Nơi mua sắm đáng tin cậy, bạn của mọi nhà” là kênh thông tin
phản hồi nhanh diễn biến giá cả thị trường cho các cơ quan điều hành thành phố, trở
thành nhà bán lẻ chuyên nghiệp nhất trong hệ thống bán lẻ Việt Nam. Các siêu thị của
Co.opMart đều mang đặc điểm chung là thân thiện, gần gũi với khách hàng, mang đến
cho khách hàng sự tiện lợi và nhiều dịch vụ tăng thêm. Với phương châm “Hàng hóa
chất lượng, giá cả phải chăng, phục vụ ân cần”,Co.opMart đã thâm nhập thị trường cả
nước bằng phong cách Saigon kết hợp với từng nét đặc thù của địa phương, tập hợp

giữa tập trung và sự linh hoạt, sáng tạo và cải tiến không ngừng của mỗi đơn vị, mỗi cá
nhân. Thế nên, càng ngày Co.opMart càng được nhiều khách hàng chọn lựa để đến mua
sắm và thư giãn cùng gia đình mỗi ngày. />option=com_content&view=article&id=107&Itemid=56&lang=vi
Trung bình mỗi siêu thị nước ngoài ở VN hiện kinh doanh 40.000-50.000 mặt
hàng khác nhau, trong khi tại các siêu thị trong nước con số này chỉ 25.000-30.000 mặt
hàng. Sự đa dạng trong chủng hàng của các siêu thị ngoại thường nhỉnh hơn siêu thị
trong nước ở ngành hàng lẫn nhãn hàng. Ví dụ như mặt hàng gia vị hạt tiêu.Trên quầy
gia vị của siêu thị Big C có đến gần 10 loại tiêu khác nhau như tiêu sọ, tiêu xanh, tiêu
hạt mịn, tiêu cay, tiêu nhập khẩu... Ngay trong cùng một loại tiêu cũng có đến 2-3 nhà
cung cấp khác nhau. Trong khi đó, tại siêu thị Co.op Mart khách hàng chỉ có hai sự lựa
chọn: tiêu sọ hoặc tiêu đen đóng gói sẵn.
Co.opMart đã chứng tỏ mình xứng đáng là một hệ thống bán lẻ hàng đầu Việt
Nam. Với mục tiêu là chuộng hàng nội, thúc đẩy tinh thần Người Việt Nam dùng hàng
Việt Nam, dùng hàng nội để thay thế cho hàng ngoại nhập cho nên khoảng 80% trong
số hơn 20.000 mặt hàng thường xuyên có trong chuỗi siêu thị là hàng Việt Nam chất
lượng tốt, giá cả phù hợp với mặt bằng thu nhập chung của xã hội và thậm chí không
cao hơn các cửa hàng tạp hóa. Nếu trước đây doanh thu hàng Việt Nam của toàn hệ
thống siêu thị Co.op Mart chỉ khoảng 70%, thì nay đã trên 90%. Như vậy có thể thấy
hàng sản xuất trong nước đã thuyết phục được người tiêu dùng. “Khác với sự lấn lướt
của hàng ngoại những năm trước, tỉ trọng hàng nội tăng dần cùng thời gian, trong nhiều
nhóm hàng, hàng Việt còn đóng vai trò chủ đạo. Chẳng hạn ở ngành vải sợi, 95% quần
áo trẻ em, trung niên, giới trẻ đều là hàng nội, hàng ngoại chỉ xuất hiện ở dòng áo thun
nam, trong khi trước đây cơ cấu ngành hàng này 40% là hàng ngoại, với tỷ trọng chiếm
đến 90% số lượng mặt hàng, chiếm 95% doanh thu trong hệ thống, hàng Việt đang ngày
càng chiếm ưu thế tại chuỗi siêu thị Co.opMart, Co.op Food và cửa hàng Co.op.”, Bà
Bùi Hạnh Thu - phó tổng giám đốc Saigon Co.op cho hay.
- Thực phẩm tươi sống và chế biến nấu chín: Đây là 1 trong những nét đặc
trưng của Hệ thống Co.opMart, với tiêu chí: phục vụ nhanh và đáp ứng nhu cầu về giảm
bớt thời gian cho các bà nội trợ. Hệ thống Co.opMart cung cấp cho người nội trợ những
sản phẩm ngon, sạch và tiện lợi, bao gồm:

• Thực phẩm sơ chế và tẩm ướp.
• Thực phẩm chế biến nấu chín.
• Rau an toàn.
• Trái cây.
Các nguồn hàng mà Co.opMart lựa chọn kỹ để bán cho quý khách được thu
mua trực tiếp từ chợ cá Phan Thiết, rau an toàn Đà Lạt, Rau ấp Đình Củ Chi, rau Hưng
Phát, rau Sao Việt... việc hợp tác giữa nông dân, ngư dân và hệ thống Co.opMart đem
lại lợi thế cạnh tranh lớn cho các mặt hàng kinh doanh tại hệ thống với giá tốt nhất và
sản phẩm có chất lượng đảm bảo.
Trái cây được mua từ nhiều nguồn khác nhau, từ những quả nho tươi, cam
vàng nhập từ Mỹ, Uc hay đến những trái cây từ các vùng miền của Việt Nam như : ổi,
sari, sầu riêng, xoài cát Hòa Lộc, …phong phú và đa dạng trong từng chủng loại.
Hàng hóa được trưng bày tại khu vực dành riêng trong các tủ lạnh, tủ mát và tủ
cấp đông ở nhiệt độ luôn ổn định để đảm bảo cho hàng hóa luôn tươi ngon và bắt mắt.
Bên cạnh đó, hàng hóa luôn được nhân viên chăm sóc thường xuyên và sẵn sàng tư vấn
cho khách hàng lựa chọn những thực phẩm ngon, cách nấu các món ăn phục vụ cho
thực đơn hàng ngày.
- Thực phẩm công nghệ: Co.opmart có những nhà cung cấp và các đối tác
chiến lược như Bibica, Vissan, Pepsi Co, Dầu Tường An, Đồ Hộp Hạ Long,… Đó là
Bánh kẹo Kinh Đô, Bột ngọt Ajinomoto, Đường Biên Hòa, Nước suối Lavie, Dầu ăn
Neptune, Nước ngọt Pepsi, Sữa Vinamilk, Sữa Cô gái hà Lan, Thực phẩm đóng hộp
Vissan…Hệ thống Co.opMart luôn đảm bảo cung cấp những mặt hàng thiết yếu phục
vụ cho nhu cầu hàng ngày của quý khách hàng.
Quy trình mua hàng và kiểm soát chất lượng hàng hóa luôn được chú trọng,
với các hàng hóa thuộc nhóm thực phẩm, việc đảm bảo hạn sử dụng, nhãn hàng hóa và
thông tin hướng dẫn sử dụng luôn được quan tâm.
- Hóa phẩm: Nhiều chủng loại hàng hóa từ những nhà cung cấp hàng đầu như
Unilever, P&G, Mỹ phẩm Saigon, Mỹ Hảo… luôn đem lại những mặt hàng thiết yếu
phục vụ hàng ngày cho ngừơi tiêu dùng. Các sản phẩm như Bột giặt, nước xả, dầu gội,
sữa tắm, xà bông, nước rửa chén …. hàng tuần đều có các chương trình khuyến mãi

dành riêng cho người tiêu dùng với nhiều giải thưởng hấp dẫn. Ngoài các sản phẩm
thông dụng, Co.opMart còn có những sản phẩm chăm sóc chuyên biệt hơn cho các nhu
cầu đa dạng của khách hàng. Bạn có thể tìm thấy trên các kệ hóa phẩm những sản phẩm
như : Gel dưỡng tóc, thuốc nhuộm tóc, kem dưỡng da tay, sữa dưỡng thể, kem dưỡng
gót chân hay các sản phẩm chăm sóc răng miệng.
Việc hình thành các khu vực bán hàng phục vụ cho ba mẹ và em bé, Mỹ phẩm
dành cho Nam giới là nét mới của hệ thống Co.opMart, hàng hóa được trưng bày đẹp,
phong phú hợp lý tạo thuận lợi cho việc mua sắm. Đội ngũ nhân viên tư vấn của Saigon
Co.op và chính nhà cung cấp luôn sẵn sàng phục vụ khách hàng ngay tại thời điểm mua
hàng, các thông tin hàng hóa và sử dụng sản phẩm được cung cấp chi tiết và kịp thời
giúp khách hàng đễ dàng lựa chọn sản phẩm sử dụng.
- Hàng may mặc: Các thương hiệu hàng đầu Việt Nam như Việt Tiến, Việt
Thắng, Piere Cardin, An Phước và các nhà cung cấp sản phẩm may mặc nổi tiếng khác
đều có mặt tại khu may mặc của Co.opMart để đáp ứng nhu cầu mặc đẹp của quý khách
hàng. Hàng hóa đẹp, chất lượng cao, giá cả hợp lý và chủng loại phong phú. Các
chương trình khuyến mãi thường xuyên đem lại nhiều quyền lợi cho người tiêu dùng.
Đội ngũ nhân viên phục vụ và các nhân viên của nhà cung cấp sẵn sàng tư vấn
giúp khách hàng lựa chọn những kiểu quần áo hợp thời trang, cùng với các dịch vụ
cộng thêm không thu phí như cắt lai, thu nới size. Khu trưng bày các sản phẩm may
mặc được đầu tư rất chuyên nghiệp với quầy kệ đẹp, tiện lợi cho việc lựa chọn mua
sắm.
-Đồ dùng: Hàng hóa chất lượng, giá cả phải chăng đó là những tiêu chí lựa
chọn hàng đầu để Co.opMart lựa chọn phục vụ cho khách hàng, với các thương hiệu
nổi tiếng: Happy Cook, Nhôm Kim Hằng, Supor, Phalê Việt Tiệp, Nhựa Phát Thành…
Hàng hóa đa dạng, phong phú với hàng ngàn chủng lọai hàng hóa, đáp ứng nhu cầu
ngày càng đa dạng của người tiêu dùng.
Hàng hoá trong khu đồ dùng được trưng bày theo từng nhóm các sản phẩm
phục vụ các tiện ích của gia đình như : đồ dùng gia đình, trang bị cho nhà bếp, thuận
tiện cho việc mua sắm và lựa chọn cho căn bếp của gia đình. Các bà nội trợ thích trang
trí còn có thể tìm thấy nhiều sản phẩm xinh xắn, kiểu dáng lạ, đẹp, bắt mắt để chăm

chút cho căn nhà của mình như: tô, dĩa, chén kiểu bằng gốm sứ, thủy tinh, phalê, bình
hoa, bộ ly, các loại đồ kiểu độc đáo với mẫu mã đa dạng phong phú, thường xuyên cập
nhật hàng mới sẽ làm cho buổi mua sắm của quý khách thêm thú vị. Các sản phẩm phục
vụ cho việc trang trí căn nhà của người tiêu dùng : các sản phẩm phale, hoa trưng bày.
-Nhãn hàng Co.opMart: Việc xây dựng hơn 300 sản phẩm dưới nhãn hiệu
Coop Mart (7/2010) cũng góp phần tạo nên dấu ấn thương hiệu.Việc cung cấp các mặt
hàng thực phẩm tươi sống và chế biến của các nhà cung cấp đạt tiêu chuẩn và đồng thời
tạo ra hàng trăm mặt hàng riêng, mang thương hiệu Co.opMart, như canh chua gà lá
giang, cá rô, lóc kho tộ, mướp đắng, cà chua nhồi thịt, cá bống, cá diêu hồng, lươn om...
thời trang SGC và mạnh nhất là các mặt hàng thực phẩm khô, đông lạnh và chế biến sẵn
nhãn hiệu Co.opMart luôn thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu mua sắm đa dạng của người tiêu
dùng, phù hợp bữa ăn gia đình trong tuần và cuối tuần, được các bà nội trợ ưa thích.
( />Saigon Co.op đã xây dựng hình ảnh Co.opMart là một siêu thị hiện đại văn
minh của phương thức bán hàng tự chọn, vừa có nét giản dị gần gũi trong kinh doanh
và các dịch vụ đi kèm. Sự khác biệt mà các nhà bán lẻ Việt Nam nói chung và
Co.opMart nói riêng đã khai thác khá thành công là: Mô hình kết hợp giữa tự chọn và
có phục vụ, sự có mặt của nhân viên mậu dịch giúp đỡ, tư vấn cho khách hàng chọn lựa
sản phẩm phù hợp, điều này không có tại các cửa hàng tự chọn các nước khác; Phục vụ
tận nhà cũng được xem như một ưu việt của các siêu thị; Lựa chọn mặt hàng kinh
doanh phù hợp với thị hiếu, khẩu vị từng vùng với giá cả hợp lý phù hợp với khả năng
thanh toán của đa số người dân cũng là sự khác biệt cơ bản của siêu thị.
Thị trường mục tiêu
Theo bà Loan, hàng hóa đến tay người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ
(khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập (khoảng 44%). Hàng hóa
qua hệ thống phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện lợi… chỉ mới chiếm khoảng
10% vì phần lớn hệ thống phân phối còn rất non trẻ, còn lại là 6% là do nhà sản xuất
trực tiếp bán thẳng. Như vậy, kênh mua sắm truyền thống vẫn tiếp tục đóng vai trò then
chốt trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam, chiếm 68% doanh thu từ các tiệm
tạp hóa cả nước. Rõ ràng kênh mua sắm truyền thống vẫn giữ được chỗ đứng riêng và
các kênh thương mại bán lẻ hiện đại sẽ cần chiến đấu đề giành được một phần của

miếng bánh đó. ( />lam.htm)
Quy mô thị trường ngày càng mở rộng hơn, hiện VN có gần 400 siêu thị, trung
tâm thương mại nhưng có tới hơn 8.000 chợ các loại, sự chênh lệch là rất lớn. Và bình
quân mỗi hệ thống siêu thị có 2.000-3.000 nhà cung cấp hàng hóa là các DN, cơ sở sản
xuất trong nước. Siêu thị đang trở thành kênh quảng bá thương hiệu quan trọng cho
hàng VN và là một trong những mục tiêu mà nhiều DN nhắm tới. Người dân đang dần
chuyển thói quen từ mua, bán ở chợ truyền thống sang các trung tâm thương mại và
siêu thị. Thêm nữa, Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
nên hình thức phân phối không qua chợ sẽ trở nên phổ biến hơn bao giờ hết.
/>Mô hình chuỗi siêu thị Co.opMart là sự kết hợp giữa chợ truyền thống với
phong cách bán hàng văn minh, hiện đại. Định vị của Co.op Mart là trở thành người bạn
thân thiết của người tiêu dùng và để tạo nét đặc trưng cho Co.opMart, Saigon Co.op đã
phân khúc khách hàng mà Co.opMart nhắm đến là tầng lớp dân cư có thu nhập trung
bình và thấp, khách hàng đã lập gia đình là chủ yếu và cán bộ công nhân viên- đối
tượng chiếm số đông của xã hội, ngoài ra Co.opMart còn nhắm đến những bà nội trợ
bận rộn với công việc ít có thời gian nấu nướng cho bữa ăn của gia đình. Xác định thị
trường mục tiêu của Coop Mart là thành phố. Hồ Chí Minh, các thành phố và thị xã, thị
trấn có đông dân cư trong cả nước. Do đó, việc phát triển Coop Mart có chọn lọc theo
thứ tự, ưu tiên cho những địa bàn có tiềm lực kinh tế mạnh, sức mua cao. Đến nay
Saigon Coop đã phát triển 47 siêu thị, trong đó 22 ở thành phố và 25 ở các tỉnh thành
khác trong cả nước.
Những đối tượng khách hàng đến với hệ thống siêu thị Co.opMart là ai?
o Đa số là những người nội trợ đủ mọi thành phần lứa tuổi.
o Họ thường là những người có thu nhập trung bình khá trở lên.
o Họ là những người không thích sự ồn ào náo nhiệt của việc mua sắm ngoài
chợ
o Họ không thích trả giá
o Họ là những người mua sắm bốc đồng, vì có thể họ đến siêu thị là đi cùng
với bạn bè, hoặc chỉ để ngắm nhưng có thể một mặt hàng nàođó khiến họ
không thể kiềm lại cái cảm giác thích mua sắm bốc đồng của mình.

o Họ là những người bận rộn.
o Họ là những người quan tâm đến vệ sinh an toàn thực phẩm.
o Họ thường ở khu vực thành phố.
Dẫn lời bà Nguyễn Thị Hạnh: hiện nay doanh số kinh doanh hàng Việt Nam
của chúng tôi ngày càng tăng, có nghĩa là chúng tôi đã xác định đối tượng phục vụ chủ
yếu của hệ thống siêu thị Co.op Mart là những người có thu nhập trung bình – khá. Đây
là đối tượng tiêu dùng vừa quan tâm đến chất lượng hàng hoá, vừa đòi hỏi hàng hoá
phải có giá cả hợp lý. Chúng tôi đánh giá hiện nay hàng sản xuất trong nước có chất
lượng tốt và giá cả có thể đáp ứng được khả năng chi tiêu của đa số người tiêu dùng
Việt Nam. Đó là chiến lược kinh doanh chính của chúng tôi. Vì vậy, khi triển khai
chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, thì chúng tôi nhận thấy
rất phù hợp với tiêu chí kinh doanh của hệ thống siêu thị Co.op Mart từ khi thành lập
đến nay. Và chúng tôi tin rằng điều này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến doanh số. Điều
mà chúng tôi quan tâm nhất là luôn nhắc nhở, và đồng thời cũng yêu cầu nhà cung cấp
cam kết, đảm bảo ổn định chất lượng, mặt khác cũng cần phải thường xuyên cải tiến
mẫu mã hàng hoá, có giá cả hợp lý để giữ vững được niềm tin của người tiêu dùng. Để
từ đó người tiêu dùng Việt Nam sẽ ngày càng sử dụng hàng sản xuất trong nước nhiều
hơn.
Cũng theo bà Hạnh:” Việc các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thâm nhập vào thị
trường Việt Nam tạo ra sự cạnh tranh có thể nói là rất gay gắt đối với các doanh nghiệp
bán lẻ trong nước, trong đó có SaiGon Co.op. Chính vì vậy mà ngay từ rất lâu rồi chúng
tôi đã chuẩn bị một chiến lược cho mình. Một trong những điều mà chúng tôi nghĩ rằng
nó là lợi thế và thế mạnh của mình đó là chúng tôi đã đầu tư phát triển thương hiệu từ
hơn 10 năm nay, hiện nay có thể nói người tiêu dùng Việt Nam đã quen với thương hiệu
Co.op Mart... Tôi đánh giá cao tiềm năng của thị trường nông thôn, vì trên 70% dân cư
đang sống ở đây. Vì vậy đây là một thị trường rất hấp dẫn, và sắp tới chúng tôi sẽ phát
triển hệ thống siêu thị Co.op Mart ở các địa phương của các tỉnh, thành phố. Thực tế,
hiện nay có một số tỉnh chưa thật sự mang lại hiệu quả đầu tư như mong muốn, song
chúng tôi vẫn xem đây là chiến lược lâu dài. Ngoài việc phục vụ mục đích kinh doanh,
với vai trò là một tổ chức kinh tế tập thể, chúng tôi xem đó là nhiệm vụ chính trị quan

trọng cần phải hoàn thành. Mỗi khi đầu tư vào một địa bàn mới, chúng tôi mong muốn
đem đến cho người tiêu dùng một phương tiện mua sắm hiện đại, an toàn, văn minh
hơn, và tôi mong muốn các siêu thị Co.op Mart trong tương lai có thể thay đổi thói quen
mua sắm ở các chợ truyền thống của người dân.”
Hệ thống siêu thị Coop Mart được đông đảo người tiêu dùng tin yêu, tín nhiệm
và đang từng bước vươn ra chiếm lĩnh thị trường trong cả nước, đã khẳng định được vị
trí Nhà bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam liên tiếp năm năm liền; nằm trong Top 500 Nhà
bán lẻ hàng đầu châu Á - Thái Bình Dương 6 năm liền (2004-2009)theo bình chọn của
Tạp chí Bán lẻ châu Á. Đây là niềm tự hào của hệ thống siêu thị HTX thành phố Hồ
Chí Minh và phong trào HTX Việt Nam. Thời gian tới nỗ lực và thử thách sẽ còn lớn
hơn những gì đã trải qua, do đó phải chuẩn bị đối phó với các biến động chưa lường hết
trong bối cảnh hộp nhập, đòi hỏi phải chấp nhận quy luật cạnh tranh của thị trường để
tiến lên. Dựa trên truyền thống của Đơn vị Anh hùng, Saigon Coop kiên quyết giữ vững
là mô hình, là biểu tượng có tính thuyết phục nhất cho sự phát triển phong trào HTX cả
nước và phong trào HTX châu Á-Thái Bình Dương.
Chiến lược Marketing
P1: Product
Co.opMart đã chủ động hợp tác cùng với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, hợp
tác xã và nông dân trong việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm hàng tiêu dùng cũng
như nông sản khác nhau. Không chỉ Co.opMart mà nhiều siêu thị khác đánh giá hiện
nay hàng sản xuất trong nước có chất lượng tốt và giá cả có thể đáp ứng được khả năng
chi tiêu của đa số người tiêu dùng Việt Nam. Thế nên chiến lược của Co.opMart là đưa
hàng Việt vào trong siêu thị, khuyến khích ngưởi Việt dùng hàng Việt. Phù hợp với nhu
cầu của khách hàng trong thị trường mục tiêu là vừa quan tâm đến chất lượng hàng hoá,
vừa đòi hỏi hàng hoá phải có giá cả hợp lý. Co.opMart hướng đến đa phần là các khách
hàng đã lập gia đình và các khách hàng trẻ, bận rộn với công việc. Vì vậy, bên cạnh các
sản phẩm truyền thống của 1 siêu thị, Co.op Mart còn mở rộng hệ thống nhà ăn ngay tại
siêu thị của mình, cũng như cung cấp các món ăn đã làm sẵn hoặc đã qua chế biến khá
đa dạng và phong phú, mang đến sự lựa chọn thỏa mái cho các bà nội trợ cũng như các
khách hàng không có nhiều thời gian nấu nướng cho bữa ăn của gia đình.

Thủ tục đưa hàng vào bán tại Co.opMart rất rõ ràng và từng chủng loại hàng
hóa như thực phẩm tươi sống, thực phẩm khô, hàng đồ chơi, vải sợi... phải thỏa mãn
các điều kiện: Hàng hóa hợp thị hiếu người tiêu dùng, đầy đủ quy định về chất lượng,
vệ sinh an toàn thực phẩm, nhãn mác, bao bì, hàng hóa đủ để đáp ứng nhu cầu, có thể
giao hàng nhiều tỉnh thành.
Ðể đa dạng hóa nguồn hàng, mặt hàng, trong đó chú trọng kinh doanh các sản
phẩm do các nhà sản xuất trong nước làm ra, Co.opMart đã chọn lọc 1.000 nhà cung
cấp, trong tổng số 2.000 nhà mua hàng theo các dạng sỉ, lẻ, gối đầu, ứng trước, gia
công, tùy khách mà có chế độ khuyến mãi với giá cả linh hoạt... Bộ phận mua hàng và
nghiệp vụ mua hàng được chuẩn hóa theo chức năng và chuyên nghiệp trong chọn lọc,
xét duyệt chủng loại hàng hóa, tổ chức thu mua tận gốc và tiếp nhận hàng hóa từ các
tỉnh, các nhà cung cấp. Thực hiện tốt chính sách kinh doanh, trong đó ưu tiên mua hàng
của doanh nghiệp trong nước, Co.opMart thường xuyên có 500 nhà cung cấp cho năm
ngành hàng: hóa phẩm, thực phẩm chế biến công nghệ, đồ dùng gia đình, may mặc, như
HTX rau Anh Ðào (Ðà Lạt), thủy hải sản Sài Gòn, Agifish, Vissan, Trường An, Happy
Cook, Việt Tiến, Nhà Bè, Thành Công, Vinamilk, Kinh Ðô, P/S, v.v. Các nhà cung cấp
sẵn sàng hạ giá từ 5 đến 10%, theo yêu cầu của Co.opMart. Ngoài ra Co.opMart còn
triển khai và thực hiện có hiệu quả chiến lược giá, chiến lược hàng hóa và mua hàng
cùng với việc xây dựng các tiêu chí đầu tư xây dựng các Co.opMart. Co.opMart còn ưu
tiên những DN có chính sách kinh doanh năng động, có chính sách giá tốt cho khách
hàng, ưu tiên hàng sản xuất địa phương...
Quy trình mua hàng và kiểm soát chất lượng hàng hóa luôn được chú trọng,
với các hàng hóa thuộc nhóm thực phẩm, việc đảm bảo hạn sử dụng, nhãn hàng hóa và
thông tin hướng dẫn sử dụng luôn được quan tâm. Với các mặt hàng thực phẩm tươi
sống và chế biến, Co.opMart chú trọng khai thác nguồn hàng của các nhà cung cấp đạt
tiêu chuẩn đồng thời tạo ra hàng trăm mặt hàng riêng, mang thương hiệu Co.opMart,
như canh chua gà lá giang, cá rô, lóc kho tộ, mướp đắng, cà chua nhồi thịt, cá bống, cá
diêu hồng, lươn om... phù hợp bữa ăn gia đình trong tuần và cuối tuần, được các bà nội
trợ ưa thích.
Khi được hỏi thì có 94% khách hàng quan tâm đến chất lượng sản phẩm được

bán tại siêu thị. Điều này hoàn toàn phù hợp với những mong muốn của người tiêu
dùng về các loại thực phẩm có giá cả hợp lý và đảm bảo được về mặt chất lượng. Vì thế
nên để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, Co.opMart ký hợp đồng với Trung tâm 3,
thường xuyên kiểm tra an toàn thực phẩm trong các siêu thị. Triển khai các hoạt động
quảng bá, phát tài liệu, cẩm nang mua sắm đến tận nhà của hàng chục nghìn khách hàng
thân thiết. Content.aspx?ID=4123
Chính sách chất lượng
1. Hệ thống Co.opMart - Nơi mua sắm đáng tin cậy - Bạn của mọi nhà
Với mục tiêu mục tiêu chất lượng:“hàng hóa chất lượng, giá cả phải chăng,
phục vụ ân cần, luôn mang lại giá trị tăng thêm cho khách hàng”.
• Hàng hóa phong phú và chất lượng.
• Giá cả phải chăng.
• Phục vụ ân cần.
• Luôn đem lại các giá trị tăng thêm cho khách hàng.
"Xây dựng thương hiệu doanh nghiệp được chúng tôi quan tâm ngay từ khi
thành lập Saigon Co-op đến nay. Cách đây 14 năm, Saigon Co-op đã đi đầu trong việc
hình thành hệ thống siêu thị bán lẻ, và ở khía cạnh phục vụ chu đáo, đem lại lợi ích cho
khách hàng.” Dẫn lời của bà Thu.
2. Saigon Co.op luôn ưu tiên chọn những sản phẩm của nhà sản xuất có
chứng chỉ ISO-9000 hoặc một hệ thống quản lý chất lượng tương đương, tối thiểu là
nhà sản xuất có hàng Việt Nam chất lượng cao do người tiêu dùng bình chọn.
3. Saigon Co.op là mái nhà thân yêu của toàn thể cán bộ nhân viên. Mọi hoạt động
của Co.opmart luôn hướng đến cộng đồng xã hội.
Nhằm nâng cao chất lượng phục vụ quản lý, xây dựng hình ảnh Coop Mart nơi
mua sắm tiện lợi an toàn và thân thiện thông qua việc không ngừng cải tiến đầu tư, đổi
mới trang thiết bị phục vụ kinh doanh như hệ thống thang máy, thang cuốn, tủ đông, tủ
lạnh, kho mát, cổng từ chống trộm, thiết bị chống sét lan truyền, camera quan sát, cải
tạo và lắp đặt mới hệ thống đèn tiết kiệm năng lượng, hệ thống tủ trữ thực phẩm. Tổng
kinh phí đầu tư mỗi năm lên đến hàng trăm tỷ đồng.
Để đảm bảo vệ sinh an toản thực phẩm, hệ thống Co.opMart thiết lập một bộ

phận kiểm soát xuyên suốt từ trước, trong và sau bán hàng. Bên cạnh đó, định kỳ Hệ
thống Co.opMart còn ký hợp đồng tư vấn và dịch vụ với các cơ quan chức năng như
Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng , Trung tâm y tế dự phòng và Trung tâm dịch
vụ phân tích thí nghiệm tiến hành lấy mẫu hàng hóa phân tích các chỉ tiêu lý tính, hóa
tính và vi sinh. Với hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 : 2000,
chứng chỉ HACCP công tác đảm bảo chất lượng và VSATTP , Co.opMart luôn hướng
đến mục tiêu bảo vệ sức khỏe và đem lại bữa ăn ngon cho người tiêu dùng.
Với nhân viên của siêu thị
Nhân viên bán hàng: vui vẻ, thân thiện, ân cần, nhã nhặn, trung thực bạn có
thể hỏi hỏi nhân viên về một món hàng hay thực phẩm họ sẽ hướng dẫn một cách cặn
kẽ hay đưa ra những lời khuyên đúng đắn. Cũng có thể tự do lựa chọn hàng hóa mà
không sợ bị người bán hàng khó chịu vì bị mất mở hàng hoặc trả giá quá sát…, được
ngắm thỏa thích và học cách sử dụng những mặt hàng mới từ các nhân viên bán hàng.
Ngoài ra, với bộ đồng phục xanh dương phù hợp với thương hiệu Co.opMart đã tạo cho
nhân viên một phong cách chuyên nghiệp, lịch sự.
Nhân viên quản lý: phong cách làm việc năng động do sự bổ sung liên tục nhân
sự trẻ giữ các chức vụ chủ chốt, từ Giám Đốc siêu thị, Trưởng, phó phòng chuyên môn
cho đến thành viên trong Ban Tổng Giám Đốc (điều này có được nhờ sự ra đời khá đều
đặn của các Co.opMart, góp phần tạo nên sự năng động trong toàn bộ máy); của việc "
bảo toàn lực lượng " hay nói cách khác là không bị mất chất xám khi cử người sang các
liên doanh hay đưa đi đào tạo ở nước ngoài. Chính vì điều này sẽ làm cho khách hàng
tin tưởng vào hệ thống bán hàng, bởi hệ thống này đã được phản lý bởi những người có
chuyên môn.
Với chiến lược thu hút và có chính sách đãi ngộ để giữ nhân tài qua việc mạnh
dạn trả lương cao theo năng lực chuyên môn; đề bạt cán bộ trẻ qua thử thách và đào tạo
vào các cương vị quản lý; khuyến khích lực lượng trẻ tình nguyện đi xây dựng Coop
Mart tỉnh và có chính sách ưu đãi; chú ý rèn luyện nhân viên mới vừa có tầm vừa có
tâm theo mục tiêu lý tưởng của tổ chức HTX. SaigonCoop tranh thủ sự trợ giúp của
phong trào HTX quốc tế, các chương trình đào tạo của Chính phủ, của các tổ chức nước
ngoài, các trường đại học và trung cấp kinh tế tại thành phố, mỗi đợt có 10-15 khoá học

với tổng số lượt cán bộ nhân viên tham gia từ 500-700 người. Đến nay SaigonCoop có
2 tiến sĩ, 12 thạc sĩ và hơn 25% số cán bộ nhân viên tốt nghiệp đại học.
Máy móc thiết bị, phục vụ bán hàng:
Máy tính tiền: Hệ thống máy tính tiền hiệnđạiđọc qua hệ thống mã vạch, mỗi
mặt hàng chỉ được tính trong vài giây, do đó khách hàng không cần phải chờ đợi lâu để
có được mặt hàng mà mình mua. Hiện nay, Co.opMartđã tăng cường 2-4 quầy thu ngân
phụ cho mỗi siêu thị. Mặt khác, Co.opMart còn bố trí một quầy thu ngân riêng cho
những khách hàng mua dưới 10 sản phẩm, tăng cường lực lượng xếp hàng vào bao để
thu ngân hoạtđộng nhanh tay hơn, tổ chức đóng gói sẵn một số sản phẩm, đồng thời bố
trí người điều phối hài hoà lượng khách hàng thanh toán tại các quầy.
Máy lạnh: Hệ thống máy lạnh được đặt khắp cả trong siêu thị. Bạn có thể mua
sắm bất kỳ lúc nào mà không sợ bị nóng hay bị lạnh, vì nó được lan tỏa khắp các khu
vực, gian hàng, tạo không khí mát lạnh, dễ chịu cho người mua.
Máy camera: Trong siêu thị, có lắp đặt camera quan sát, bố trí nhân viên bảo
vệ giả làm khách mua hàng trà trộn trong siêu thị, lắp đặt bộ từ bằng nhựa hoặc tem
chống trộm bằng từ tính đính trên sản phẩm. Loại bọ từ và tem từ tính này sẽ được một
cổng từ kiểm soát trong phạm vi phát sóng từ ở khoảng cách 0,9-1,5m, đặt ngay cổng ra
vào của khu vực hàng tự chọn. Nếu khách hàng quên thanh toán hoặc cất giấu các sản
phẩm có gắn bọ từ - tem từ trong người, khi đi ngang qua cổng từ, còi báo động sẽ kêu
“tít tít”. Đối với hàng quần áo thường chọn hình thức gắn bọ từ bằng nhựa (tag) lên sản
phẩm. Bọ từ nhựa là một miếng nhựa, được giữ bằng một đinh ghim. Muốn tháo bọ
nhựa ra khỏi sản phẩm phải dùng đến thiết bị. Riêng các sản phẩm tiêu dùng khác như
thực phẩm, hóa mỹ phẩm, chọn cách dán tem từ có hình dán bên ngoài rất giống với
tem của mã hàng, nhưng nếu đưa tay sờ lên mặt tem thì mới thấy cộm vì bên dưới loại
tem này có gắn thiết bị cảm ứng từ. Như vậy, khách hàng có thể yên tâm về hệ thống
bảo mật, tránh tình trạng trộm cắp làm cho một số người lo ngại, không dám đi mua
sắm.
Thời gian phục vụ: Từ 8 giờ sángđến 10 giờ tối (cả chủ nhật và ngày lễ). Như
vậy khách hàng có thể lựa chọn thời gian hợp phù hợp nhất để đi mua sắm.
Cách trình bày khu hàng: : Với việc trưng bày hàng hóa theo Concept

Co.opMart, hàng hóa luôn được trưng bày với tiêu chí : dễ thấy, dễ lấy và dễ chọn mua.
Mỗi line hàng đều có bảng hướng dẫn nên rất dễ dàng cho việc quan sát và lựa chọn
mua hàng. Xây dựng Concept Coop Mart là hệ thống ý tưởng kinh doanh và các quy
định chuẩn về kinh doanh siêu thị Coop Mart làm nền tảng cho việc phát triển chuỗi
siêu thị, vừa tăng cường quản lý mua và phân phối tập trung, đồng thời vẫn phát huy
tính chủ động của giám đốc siêu thị trong điều hành hoạt động bán ra và quản lý cán bộ
nhân viên. Các phương pháp quản lý tiên tiến như ISO, HACCP cũng đã được cấp giấy
chứng nhận. Ứng dụng hệ thống điện toán quản lý mới toàn diện, với kinh phí hơn 2
triệu USD, cho phép nối mạng quản lý chuỗi siêu thị Coop Mart trên toàn quốc.Cùng hệ
thống phân phối lớn của nó với một thương hiệu tốt sẽ được khá một trở ngại cho bất
kỳ nhà bán lẻ đến Việt Nam.
Tầng trệt: mỹ phẩm, giày dép, hoa quả, thực phẩm từ thực phẩm tươi sốngđến
thực phẩm chế biến, đồ khô,… Còn có các món ăn được chế biến, đầu tư phong phú,
các bà nội trợ tha hồ lựa chọn cho bữa cơm gia đình vừa ngon lại vừa thuận tiện về thời
gian. Nếu khách hàng chưa ăn sáng có thể lưa chọn một trong những món ăn đã được
bán sẵn ở tầng này.
Tầng 1: quần áo may sẵn, vải vóc; hàng điện,điện tử; dụng cụ nhà bếp, đồ nội
thất, hàng nhựa gia dụng... Chưa hết, còn có nhà sách, khu giải trí cho trẻ em. Khách
hàng có thể yên tâm vừa lựa chọn những mẫu áo,đồ dùng gia đình vừa có thể cho chúng
chơi những trò chơi để chúng khỏi quấy rầy đến những người bên cạnh..
Sản phẩm mang nhãn hàng riêng của hệ thống Co.opMart và các sản phẩm có
mặt trong siêu thị được sản xuất từ các nhà máy đạt tiêu chuẩn kỹ thuật – chất lượng
theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước, chính siêu thị chịu trách nhiệm với người
tiêu dùng để người tiêu dùng an tâm vào chất lượng hàng hóa mà mình đã lựa chọn.
Bên cạnh đó, trong thời gian vừa qua, Saigon Co.op cũng tập trung vào hoạt động kinh
doanh chủ đạo, không đầu tư dàn trải; tăng cường nguồn nhân lực và quản lý chặt chẽ
nguồn vốn, chi phí…
P2: price
Mục tiêu của Co.opMart là cung cấp sản phẩm bán lẻ theo giá sỉ. Trong số
20.000 mặt hàng thường xuyên có trong siêu thị là hàng Việt Nam chất lượng tốt, giá cả

phù hợp với mặt bằng thu nhập chung của xã hội và thậm chí không cao hơn các cửa
hàng tạp hóa. Điều này giúp cho Co.op Mart trở thành “bạn của mọi nhà” vì khi được
hỏi thì có đến 97,4% người tiêu dùng được hỏi quan tâm đến vấn đề giá cả trong các
siêu thị. />Thế mạnh các mặt hàng mang nhãn riêng của Co.opMart là giá cạnh tranh và
chất lượng tốt. Viêc đưa ra các nhãn hiêu riêng giúp Co.opMart có thể thực hiện được
“chiến lược giá rẻ”. Có thể nói đây là lợi thế cạnh tranh giữa các siêu thị với nhau trong
nỗ lực thu hút khách hàng. Một DN kinh doanh trong ngành hàng thực phẩm cho biết,
trước đây, khi siêu thị Co.opMart chưa có nhãn hàng riêng cùng sản phẩm với họ, sản
lượng tiêu thụ của công ty này chiếm 70%, các nhãn hàng khác 30%. Nhưng hiện nay
sản lượng của công ty giảm xuống còn 30%, các nhãn hàng khác khác 20%. Sở dĩ có sự
chênh lệch mức tiêu thụ khá cao giữa nhà sản xuất với Co.opMart là do sản phẩm mang
nhãn hàng riêng của Co.opMart có giá bán rẻ hơn sản phẩm cùng loại từ 3 - 20%. Theo
bà Phạm Thị Thanh Tuyền, Giám đốc hàng nhãn riêng siêu thị Co.opMart: “Lợi thế của
Co.opMart là không mất chi phí marketing hoặc một số phí khác như phí thuê nhân viên
tiếp thị như các nhà sản xuất khác nên giá bán rẻ hơn. Thế nhưng, lợi thế này vẫn chưa
được khai thác đúng mức, chẳng hạn như hàng hoá của các công ty thành viên bán
trong siêu thị Satra vẫn không rẻ hơn, hoặc có nhiều ưu đãi hơn so với nơi khác. Ngay
cả với Co.opmart, nhiều nguồn cung cấp hàng hoá cho hệ thống này ở các tỉnh và
TP.HCM là khác nhau, nên chưa thể khai thác tốt lợi thế quy mô để có mức giá rẻ hơn
cho người tiêu dùng”.
Ví dụ mặt hàng trứng hiện có ba nhà cung cấp chính là Công ty Ba Huân, Vĩnh
Thành Đạt và CP và hiện nay có thêm nhãn hàng của Co.opMart. Cả bốn sản phẩm này
tương đương nhưng giá bán của Co.opMart chỉ 19.000 đồng/vỉ/10 trứng, trong khi các
nhãn hàng khác là 21.000 đồng”.Thậm chí, trứng của Vĩnh Thành Đạt - đơn vị gia công
trứng cho Co.opMart đóng mác riêng cũng phải cạnh tranh về giá với trứng của
Co.opMart. Trong khi đó, việc Co.opMart làm nhãn hàng riêng, theo bà Tuyền giải
thích là do “siêu thị muốn hỗ trợ, tiếp sức cho những DN đi sau, có thị phần nhỏ”.Tuy
nhiên, chính sách này lại đang là nỗi lo của Công ty Ba Huân - một đối tác cung cấp
hàng lâu năm của Co.opMart. Công ty này mới đầu tư hàng chục tỷ đồng để nhập hai
dây chuyền hiện đại để xử lý trứng gia cầm nên việc bị thu hẹp tỷ lệ tại siêu thị có thể

dẫn đến dư thừa công suất. Vì vậy, nhiều DN đề nghị được tự quyết định giá bán đối
với những mặt hàng cùng loại với hàng nhãn hiệu riêng của các siêu thị. Không chỉ chịu
sự cạnh tranh về giá, nhiều DN cũng chia sẻ bức xúc về những bất lợi khi “đối đầu” với
chính nhà phân phối của mình. Ngay cả vị trí trưng bày hàng, nhiều DN trình bày:
“Nhóm thực phẩm, khâu trưng bày hàng tại siêu thị Big C và Metro sòng phẳng hơn vì
họ cho nhà cung cấp thuê hẳn một line riêng với diện tích giống nhau. Còn một số siêu
thị khác, sản phẩm của các nhà cung cấp phải chen chúc nhau với số lượng ít hơn trên
diện tích rất nhỏ so với hàng của siêu thị”.

×