Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

Văn hóa ứng xử của các nhân vật nữ trong truyện nôm bác học cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.58 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ THANH NHỤY

VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA CÁC NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN
NÔM BÁC HỌC CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẦU THẾ KỶ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

Thái Nguyên – 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ THANH NHỤY

VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA CÁC NHÂN VẬT NỮ CHÍNH TRONG
HAI TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TIÊU BIỂU CUỐI THẾ KỶ XVIII
ĐẦU THẾ KỶ XIX

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. DƯƠNG THU HẰNG

Thái Nguyên – 2018


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích
dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực
và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Nhụy


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám
hiệu, Khoa Sau đại học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy,
Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn
PGS. TS Dương Thu Hằng đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác
giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp đỡ,
động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Nhụy


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...........................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................... ii
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài..................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề........................................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................4
3.2. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................... 4
4.1 Mục đích nghiên cứu.........................................................................................4
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 5
6. Cấu trúc của luận văn............................................................................................. 6
7. Đóng góp của đề tài................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI................................................................................................................................ 7
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan............................................................. 7
1.1.1. Khái niệm văn hóa........................................................................................7
1.1.2. Khái niệm văn hóa ứng xử............................................................................9
1.2. Văn hóa ứng xử của người Việt dưới ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo, Nho
giáo.......................................................................................................................... 10
1.2.1. Văn hóa truyền thống của người Việt.......................................................... 10

1.2.1. Văn hóa ứng xử người Việt dưới sự ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo,
Nho giáo................................................................................................................ 12
1.3. Khái niệm về giới.............................................................................................. 18
1.3.1. Quan điểm văn hoá về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại...........................19
1.3.2. Nữ giới trong văn học viết Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX..........................26
1.4. Khái quát về tác giả, tác phẩm........................................................................... 30
1.4.1. Phạm Thái và tác phẩm Sơ Kính Tân Trang................................................ 30
1.4.2. Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều......................................................... 32


iv

CHƯƠNG 2 : VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG TÌNH YÊU CỦA NHÂN VẬT NỮ
CHÍNH TRONG HAI TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TIÊU BIỂU CUỐI TK XVIII
ĐẦU THẾ KỶ XIX..................................................................................................... 36
2.1. Tình yêu chủ động, chân thành, mạnh mẽ......................................................... 36
2.1 .1. Tình yêu chủ động, chân thành, mạnh mẽ của nhân vật Quỳnh Thư trong
Sơ kính tân trang................................................................................................... 37
2.1.2 Tình yêu chủ động, chân thành, mạnh mẽ của nhân vật Thúy Kiều trong
Truyện Kiều.......................................................................................................... 41
2.2. Tình yêu thủy chung, son sắt của nhân vật nữ chính......................................... 47
2.2.1. Tình yêu thủy chung của Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang.....................47
2.2.2 Tình yêu thủy chung son sắt của nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều....52
CHƯƠNG 3 : VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI CỦA NHÂN
VẬT NỮ CHÍNH TRONG HAI TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TIÊU BIỂU CUỐI TK
XVIII ĐẦU THẾ KỶ XIX.......................................................................................... 61
3.1. Văn hóa ứng xử đề cao chữ hiếu....................................................................... 61
3.1.1. Văn hóa ứng xử đề cao chữ hiếu của nhân vật Quỳnh Thư trong Sơ kính tân
trang...................................................................................................................... 62
3.1.2 Văn hóa ứng xử đề cao chữ hiếu của nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều

.............................................................................................................................. 64
3.2. Văn hóa ứng xử đề cao chữ tâm trong ứng xử xã hội của nhân vật nữ trong
truyện nôm bác học.................................................................................................. 70
3.2.1. Văn hóa ứng xử đề cao chữ tâm trong các mối quan hệ xã hội của nhân vật
Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang....................................................................... 71
3.2.2. Văn hóa ứng xử đề cao chữ tâm trong các mối quan hệ xã hội của nhân vật
Thúy Kiều trong Truyện Kiều............................................................................... 74
KẾT LUẬN................................................................................................................. 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 85


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới, văn hóa luôn là một trong lĩnh vực được
quan tâm hàng đầu. Bởi, văn hóa biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng
và vị thế, tầm vóc dân tộc. Một trong những yếu tố của lĩnh vực văn hóa đó là văn hóa
ứng xử. Văn hoá ứng xử của người Việt đã được hình thành, vận động và biến đổi
trong suốt thời gian 4000 năm dựng nước và giữ nước. Nét đẹp trong văn hoá ứng xử
được cha ông ta lưu truyền lại từ đời này sang đời khác. Ngày nay, mặc dù xã hội đã có
nhiều thay đổi nhưng văn hóa ứng xử vẫn giữ vai trò đặc biết quan trọng. Nó tạo nên
các mối quan hệ tốt đẹp có văn hóa, có đạo đức trong cộng đồng dân cư, trong tình
bạn, trong tình yêu, trong gia đình, …
Hiện nay, do sự biến động của xã hội, văn hóa ứng xử đã bị xem nhẹ, có biểu
hiện sa sút. Một số thành phần trong xã hội có lối sống, lối suy nghĩ, ứng xử thiếu văn
hóa đi ngược lại truyền thống văn hóa và bản sắc văn hóa tốt đẹp của người Việt. Vì
vậy, nghiên cứu văn hóa ứng xử trong văn hóa truyền thống là một trong những cách
“ôn cố tri tân” để có thể học tập những nét ứng xử của cổ nhân. Từ đó, lưu giữ và phát
huy lối ứng xử tinh tế của cha ông từ ngàn xưa và loại bỏ lối ứng xử thiếu văn hóa.

Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội và văn hóa ứng xử thể hiện bản
chất con người. Trong lịch sử phát triển của văn học dân tộc, truyện Nôm – đặc biệt là
truyện Nôm bác học – chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nó đánh dấu sự phát triển
đến đỉnh cao của văn học quốc âm nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Truyện Nôm bác học phát triển nở rộ vào cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, trong đó
phải kể đến những tác phẩm tiêu biểu có giá trị như Sơ kính tân trang (Phạm Thái) và
Truyện Kiều (Nguyễn Du).
Văn hóa ứng xử của các nhân vật nữ trong truyện Nôm bác học Hoa tiên kí, Sơ
kính tân trang và Truyện Kiều vừa mang những đặc điểm chung của văn hóa ứng xử
truyền thống của người Việt Nam, vừa có những nét riêng độc đáo của từng nhân vật,
trong từng tác phẩm. Tạo nên sự riêng biệt của các nhân vật nữ phải kể đến nét độc
đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của mỗi tác giả, văn hóa ứng xử của các nhân
vật là một yếu tố quan trọng tạo nên sự độc đáo ấy . Văn hóa ứng xử của các


2

nhân vật là phương thức biểu hiện đậm nét nét tâm lý, cá tính đặc trưng của nhân vật
đó,
Nghiên cứu về văn hóa ứng xử của các nhân vật nữ trong truyện Nôn bác học,
đặc biệt là văn hóa ứng xử của nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều không phải vấn
đề mới, tuy nhiên việc nhìn nhận, đánh giá nó trong sự phát triển thể loại truyện Nôm,
qua hệ thống các nhân vật nữ trong một số truyện Nôm bác học tiêu biểu, trong tổng
thể văn hóa dân tộc...là vấn đề chưa được đặt ra trong bất kì công trình nghiên cứu nào.
Việc nhìn nhận trong dòng chảy văn học, tổng thể văn hóa ấy mới giúp người đọc thấy
hết được vai trò, ý nghĩa và tài năng kiệt xuất của các tác giả trong xây dựng hình
tượng nhân vật.
Lựa chọn đề tài Văn hóa ứng xử của các nhân vật nữ trong truyện Nôm bác học
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, chúng tôi hi vọng có thể góp thêm một góc nhìn mới
trong việc học tập và nghiên cứu một số tác phẩm truyện Nôm bác học tiêu biểu cuối

thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX
2. Lịch sử vấn đề

Là một trong những lĩnh vực rất được quan tâm, vì vậy đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu văn hóa, trong đó có thể kể đến các công trình tiêu biểu như; “ Việt
Nam văn hóa sử cương” in lần đầu tiên năm 1938 được ấn hành bởi Quan Hải Tùng
Thư. Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác như: “Cơ sở văn hóa Việt
Nam” của Trần Ngọc Thêm, “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan Ngọc, “Văn hóa
dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á” của Đinh Gia Khánh, “Văn
hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt” của Nguyễn Đăng Duy, “Văn hóa gia đình Việt
Nam” của Vũ Gia Khánh…
Về vấn đề văn hóa ứng xử cũng có rất nhiều các công trình đã nghiên cứu như:
“Ứng xử trong gia đình” của Thanh Tâm, “Văn hóa giao tiếp” của Phạm Vũ Dũng, “Văn
hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam” của Lê Như Hoa chủ biên, “Nghệ thuật ứng xử của
người Việt” của Phan Minh Thảo, “Văn hóa ứng xử của người Việt” của La Văn Quán…


3

Những công trình nghiên cứu trên đã cho thấy văn hóa ứng xử của con người và
tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu về văn hóa
ứng xử của người phụ nữ qua văn học.
Gần đây, đã có khá nhiều luận văn quan tâm tới vấn đề văn hóa ứng xử của con
người trong văn học.Trong đó, chúng tôi quan tâm tới một số đề tài nghiên cứu khoa
học sau:
“Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộ qua một số ca dao
- tục ngữ” của Trần Thúy Anh, giảng viên trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn

Hà Nội. Tác giả đã đi nghiên cứu văn hóa ứng xử cổ truyền của người Việt ở châu thổ
Bắc Bộ thông qua ca dao và tục ngữ, từ đó thấy được những nét sinh động trong văn

hóa ứng xử của họ.
“Văn hóa ứng xử người Việt trong truyện thơ Nôm” của Triệu Thùy Dương, Đại
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả nghiên cứu văn hóa ứng xử của người
Việt qua một số truyện thơ Nôm tiêu biểu thế kỷ XVIII – XIX từ đó tìm ra ảnh hưởng
của thế ứng xử với tư cách là quan niệm sống, lối sống, nếp sống, lối hành động của
một cộng đồng người trong thực tế đời sống đến văn học
“Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du” của Cao Thị Liên Hương,
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn nghiên cứu tìm hiểu văn hóa ứng
xử, những nét cư xử trong cuộc sống hàng ngày của ông cha ta đã đi vào thơ chữ Hán
của Nguyễn Du.
Những đề tài khoa học trên đã nghiên cứu rất sâu sắc về văn hóa ứng xử của
người Việt được thể hiện trong văn chương. Tuy nhiên, các công trình khoa học này
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về văn hóa ứng xử của các nhân vật nữ trong
truyện Nôm bác học giai đoạn cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX trong mối quan hệ với
bản thân, gia đình, bạn bè và cộng đồng, xã hội.
Nghiên cứu văn hóa ứng xử của các nhân vật nữ trong truyện Nôm bác học giai
đoạn cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX để thấy được sự phát triển đến đỉnh cao của thể
loại truyện Nôm bác học, tài năng của các tác giả và đặc biệt là sự phát triển trong
quan niệm và cách nhìn nhận về con người đặc biệt là người phụ nữ.


4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu văn hóa ứng xử của các
nhân vật nữ chính trong hai truyện Nôm bác học tiêu biểu. Trong khuôn khổ của luận
văn, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu các nhân vật nữ là: Trương Quỳnh Thư – Thụy
Châu trong Sơ kính tân trang của Phạm Thái và Thúy Kiều trong Truyện Kiều của

Nguyễn Du.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là văn hóa ứng xử của các nhân vật nữ chính
trong một số truyện Nôm tiêu biểu: Trương Quỳnh Thư – Thụy Châu trong Sơ kính tân
trang của Phạm Thái và Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Chúng tôi sử dụng các văn bản tác phẩm trong: Sơ kính tân trang (Phạm Thái,
Hoàng Hữu Yên hiệu đính và chú giải, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002), Truyện
Kiều (Nguyễn Du, Ban văn bản Hội Kiều học Việt Nam hiệu khảo, chú giải, Nxb Trẻ,
2015) để khảo sát nghiên cứu cùng với các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên

cứu 4.1 Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ đặc điểm văn hóa ứng xử của một số nhân vật nữ trong một số truyện

Nôm bác học tiêu biểu
- Cung cấp kiến thức để nâng cao chất lượng học tập, giảng dạy và nghiên cứu

các tác phẩm truyện Nôm bác học cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tế liên quan đến đề tài.
- Phân tích chỉ rõ những nét đặc sắc về văn hóa ứng xử với bản thân, gia đình, bạn bè

và cộng đồng xã hội của các nhân vật Trương Quỳnh Thư – Thụy Châu trong Sơ kính tân

trang của Phạm Thái và Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du


5

5. Phương pháp nghiên cứu.

Thực hiện luận văn, chúng tôi vận dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Phương pháp này giúp chúng tôi xác định được những cơ sở lí luận và thực tiễn
làm tiền đề trước khi tiến hành triển khai cụ thể vấn đề.
Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp này giúp chúng tôi thống kê những tác phẩm có đề cập đến văn
hóa ứng xử của các nhân vật nữ. Từ đó phân loại và lựa chọn chính xác đối tượng
nghiên cứu. Trong quá trình triển khai và giải quyết vấn đề, phương pháp này có tác
dụng chỉ ra và cụ thể hoá các khía cạnh của vấn đề.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành so sánh các tác phẩm viết về
“Văn hóa ứng xử của các nhân vật nữ trong truyện Nôm bác học cuối thế kỉ XVII đầu
thế kỉ XIX” với các tác phẩm khác của một số nhân vật trong các tác phẩm truyện Nôm
bác học giai đoạn trước và sau đó. Việc so sánh đối chiếu sẽ giúp vấn đề được hiểu cụ
thể sâu sắc hơn, đồng thời sẽ làm nổi bật những ứng xử thể hiện rõ bản sắc văn hóa.

- Phương pháp phân tích

Phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu, khám phá và phân tích những những
nhân vật nữ trong truyện Nôm bác học. Đây là một phương pháp không thể thiếu để có
thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp tổng hợp

Phương pháp này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi có một cái nhìn khái
quát về các vấn đề nghiên cứu. Đồng thời, nó cũng giúp cho chúng tôi có thể tóm lại
những nội dung chính của các phần, các chương.
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống:



6

Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi xem xét văn hóa ứng xử của các nhân vật
nữ với tư cách là một chủ thể văn hóa toàn vẹn trong mối quan hệ với bối cảnh bản
thân - gia đình, văn hóa – lịch sử của thời đại, xem xét “Văn hóa ứng xử của các nhân
vật nữ” trong mối quan hệ hệ thống.
- Phương pháp liên ngành

Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, chúng tôi có liên hệ và kết hợp sử
dụng một cách đúng mực kiến thức của các ngành lịch sử, xã hội học, văn hoá học,
tâm lý học, triết học…nhằm giúp cho việc đánh giá và nhìn nhận vấn đề nghiên cứu
được toàn diện và sâu sắc hơn.
6. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục đề tài được triển
khai thành 3 chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài
Chương 2: Văn hóa ứng xử trong tình yêu của các nhân vật nữ trong một số
truyện Nôm bác học tiêu biểu
Chương 3: Văn hóa ứng xử trong gia đình và xã hội của các nhân vật nữ trong
một số truyện Nôm bác học tiêu biểu
7. Đóng góp của đề tài
- Đây là công trình đầu tiên làm rõ văn hóa ứng xử của các nhân vật nữ trong một

số truyện Nôm bác học tiêu biểu. Qua đó, góp phần khẳng định tầm quan trọng của văn
hóa ứng xử đối với đời sống văn học nói riêng và với văn hóa Việt Nam nói chung.
- Trên cơ sở phân tích lối sống, lối suy nghĩ, hành động với những biểu hiện văn hóa

ứng xử của người Việt từ truyền thống đến hiện đại, đề tài đã góp một phần vào việc giáo dục


con người trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt từ ngàn xưa.
Đồng thời, nhắc nhở thế hệ đi sau cần học tập và noi gương các thế hệ đi trước về cách
ứng xử có văn hóa.
- Đề tài là một trong những nguồn tư liệu hữu ích phục vụ cho việc học tập,

giảng dạy các tác phẩm truyện Nôm bác học cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.


7

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan.
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện trình
độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại hình hoạt động cơ
bản là "sản xuất vật chất" và "sản xuất tinh thần". Do đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh
trong sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị
được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Đó là
những giá trị cần thiết cho hoạt động tinh thần, những tiêu chí, nguyên tắc chi phối
hoạt động nói chung và hoạt động tinh thần nói riêng, chi phối hoạt động ứng xử,
những tri thức, kỹ năng, giá trị khoa học, nghệ thuật được con người sáng tạo và tích
lũy trong lịch sử của mình; là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của con người và những
phương thức thỏa mãn nhu cầu đó.
Với vai trò vô cùng quan trọng, văn hóa đã và đang được toàn xã hội quan tâm

và nó đã trở thành một trong những đối tượng nghiên cứu chính của khoa học nhân
văn. Khái niệm văn hóa là một trong những khái niệm đã tạo nên sự tranh luận hết sức
phong phú.
Khái niệm văn hóa khởi nguồn từ thế kỉ XIX trong cuốn sách Văn hóa nguyên
thủy (1871) của E.Tylor. Trong cuốn sách này, ông xác định văn hóa là “một toàn thể
phức tạp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luân lý, luật pháp, phong tục và tất
thảy những năng lực khác mà con người hoạt động với tư cách là thành viên của xã
hội.” [25, tr.14]


8

Có nhiều cách phân loại định nghĩa về văn hóa. Thứ nhất là phân loại theo các
nhóm: về mặt thuật ngữ khoa học, các định nghĩa miêu tả, các định nghĩa lịch sử, các
định nghĩa chuẩn mực, các định nghĩa tâm lý học, các định nghĩa cấu trúc và các định
nghĩa nguồn gốc. Thứ hai là phân loại theo các hướng chính: hướng định nghĩa xã hội
học văn hóa, hướng định nghĩa tâm lý học văn hóa, hướng chịu ảnh hưởng của thuyết
thông tin và thuyết giá trị, hướng đồng nhất văn hóa với cấu trúc và biểu trưng. Tuy
nhiên, những cách phân loại và những hướng nghiên cứu định nghĩa văn hóa như trên
có những ưu điểm và hạn chế riêng của nó và chúng tôi cảm thấy hài lòng với định nghĩa

về văn hóa mà UNESCO đưa ra: “Văn hóa là tổng hợp các hệ thống bao gồm các mặt
tình cảm, tri thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Văn hóa không thuần túy bó hẹp trong

hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn bao hàm cả phương thức sống, những quyền cơ
bản của con người, truyền thống, tín ngưỡng” [25, tr.18]. Đây là định nghĩa mang tính
tổng quát, nó nhấn mạnh đến tính riêng biệt của mỗi nền văn hóa nhưng vẫn đảm bảo
mang đầy đủ nội hàm định nghĩa về văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành sự quan tâm lớn của mình đối với văn hóa.
Năm 1942, Người đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích

về cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày, ăn,
mặc, ở cũng như các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh tức là văn
hóa. Văn hóa là tổng thể của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã phải sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống mà đòi hỏi của sự
sinh tồn” [28, tr.21].
Trong định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã xem văn hóa là toàn bộ các hoạt động
diễn ra trong đời sống cộng đồng. Nó thể hiện bản sắc dân tộc Việt. Đây là một định
nghĩa rộng và mang tính khái quát cao.
Như vậy, từ các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu văn hóa là sản phẩm của loài
người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội.
Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật
tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội
hóa. Nó được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của


9

con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện
trong các kiểu, các hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như
trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
1.1.2. Khái niệm văn hóa ứng xử
Ứng xử là từ ghép gồm “ ứng” và “ xử”. “ Ứng” là ứng đối nghĩa là lấy cái đẹp
để giáo hóa con người. Sau đó xuất hiện nhiều định nghĩa văn hóa khác nhau: Theo
E.Henriotte, “ứng” là ứng phó, “Xử” là xử thế, xử lí, xử sự . Ứng xử là phản ứng của
con người đối với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể
nhất định. Ứng xử là phản ứng có lựa chọn tính toán, là cách nói năng tuỳ thuộc vào tri
thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt kết quả cao nhất trong giao
tiếp. Tác giả Phạm Thế Hùng đã phân tích rất rõ: “Cách ứng xử của người Việt Nam
chúng ta khác với người Châu Âu. Người Việt Nam chúng ta ứng xử duy tình (nặng về

tình cảm). Một trăm cái lí không bằng một tí cái tình. Đó là đặc trưng của nền văn
minh nông nghiệp lúa nước, làng nghề thôn dã” [41.32]. Họ trọng tình anh em, họ
hàng, tình làng nghĩa xóm. Xem bữa cơm gia đình như để cởi mở, thân thiện.Từ xa
xưa, người Việt luôn coi trọng văn hóa ứng xử bởi nó thể hiện trình độ văn hóa, văn
minh.
Hành vi ứng xử của mỗi người được biểu hiện qua lối sống, nếp nghĩ, cách xử
lý trước những vấn đề trong cuộc sống. Đó là cách con người đối xử với bản thân, với
xã hội, cộng đồng xung quanh. Mỗi cá nhân đều sử dụng lăng kính chủ quan của mình
để nhìn nhận thực tế và đưa ra hành vi ứng xử được cho là phù hợp đúng đắn nhất. Tuy
nhiên, ứng xử đó có văn hóa hay không lại là một vấn đề khác, nó đòi hỏi sự rèn luyện,
học tập, trải nghiệm và trưởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội.
Hành vi ứng xử văn hóa được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi
cá nhân được thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói của mỗi cá nhân đó.
Chính vì tầm quan trọng của nó, văn hóa ứng xử được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan
tâm. Mỗi người lại đưa ra những cách định nghĩa và cách hiểu về văn hóa ứng xử.

Theo Đỗ Long trong cuốn Tâm lý học văn hóa ứng xử, ông cho rằng: “Văn hóa
ứng xử là một hệ thống thái độ hành vi được xác định để xử lý các mối quan hệ giữa


10

người với người trên các căn cứ pháp luật đạo lý nhằm thúc đẩy nhanh sự phát triển
của cộng đồng người, của xã hội” [31, tr.73].
Còn Trần Thùy Anh thì cho rằng: “Văn hóa ứng xử là toàn bộ những tín điều,
truyền thống,…hướng dẫn hành xử mà cá nhân trong xã hội được xã hội đó trao
truyền bằng nhiều hình thức học tập” [32, tr.19].
Như vậy, văn hóa ứng xử là khía cạnh giá trị mang yếu tố tích cực, được chắt
lọc thành các kinh nghiệm, quy tắc xã hội, chuẩn mực đạo đức thể hiện ở các tình
huống ứng xử văn hóa trong đời sống của một cồng đồng, dân tộc.

1.2. Văn hóa ứng xử của người Việt dưới ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo, Nho
giáo.
1.2.1. Văn hóa truyền thống của người Việt
Trong cuộc sống hàng ngày, người Việt luôn đề cao vai trò của văn hóa ứng xử.
Người Việt sống thiên về tình hơn về lý vì vậy ứng xử của người Việt hay người
phương Đông nói chung khác với người phương Tây.
Truyền thống văn hóa của người Việt trước hết thể hiện ở tinh thần yêu nước
nồng nàn. Tinh thần đó thấm nhuần và trở thành chuẩn mực đạo đức của cả dân
tộc.Lịch sử dựng nước và giữu nước hào hùng đã trở thành minh chứng rõ nét nhất cho
truyền thống đó. Ý thức dựng nước và giữ nước ấy lại được nảy sinh và phát triển
trong cái khung xã hội Việt Nam cổ truyền, đó là Nhà – Làng – Nước, trên nền kinh tế
- xã hội: nông dân – nông thôn – nông nghiệp. Trong cái khung đó, người Việt thể hiện
được sự văn hóa trong cách ứng xử. Yêu nước chính là tín nghĩa đầu tiên của một
người con đất Việt, được truyền từ đời này sang đời khác, và trở thành thước đo đạo
đức. Yêu nước như một thứ tín ngưỡng, mà mỗi đứa trẻ sinh ra, điều đầu tiên được
giáo dục đó là ái quốc. Truyền thống quý báu đó bám rễ trong tiềm thức của người Việt
bắt nguồn từ gia đình quê hương và mở rộng ra cả dân tộc, đất nước. Từ đó, hình thành
một lối ứng xử theo kiểu “thân tộc hóa” các quan hệ xã hội.
Văn hóa ứng xử của người Việt cũng thể hiện rõ ở tính cộng đồng, ở văn hóa làng
xã. Họ đề cao tập thể, coi trọng những mỗi quan hệ họ hàng, làng xã, mối quan hệ đó
khăng khít bền vững và xây dựng theo quy ước chung. Ở Phương Tây, các gia đình sống


11

gần nhau cũng có quan hệ với nhau, nhưng quan hệ lỏng lẻo, chỉ mang tính chất xã giao.
Họ đề cao cá nhân hơn tập thể. Còn ở Việt Nam thì khác: “Thứ nhất để đối phó với môi
trường tự nhiên, đáp ứng nhu cầu cần đông người của nghề trồng lúa nước mang tính
thời vụ, người dân Việt Nam truyền thống không chỉ đẻ nhiều mà còn làm đổi công với
nhau. Thứ hai, để đối phó với môi trường xã hội (nạn trộm cướp…), cả làng phải hợp sức

mới có hiệu quả. Chính vì vậy mà người Việt Nam liên kết với nhau chặt chẽ tới mức “bán
anh em xa, mua láng giềng gần” [22, tr.91].Bởi những lý do đó, con người trở nên gắn kết
nhau, tự ý thức tính cộng đồng, tập thể và tôn trọng các quy ước dòng họ, xóm làng. Cũng
bởi đó mà con người gần gũi, yêu thương, đùm bọc, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong mọi vấn
đề cuộc sống. Mỗi dòng họ, làng xã là một nhà nước thu nhỏ, hợp lại tạo thành một nhà
nước lớn với tinh thần đoàn kết và lòng trung quân ái quốc.
Nói tới văn hóa Việt là nói tới nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Do sống bằng
nghề nông nên con người càng gắn bó với thiên nhiên. Bởi thế những yếu tố như thời tiết,
khí hậu, đất đai, nguồn nước, ánh nắng,… trở thành yếu tố then chốt cho sự thành công
của mùa vụ, nên về mặt nhận thức, hình thành nên lối tư duy tổng hợp- biện chứng, nặng
về kinh nghiệm chủ quan cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay
quen… Từ đó dẫn tới lối sống linh hoạt luôn thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh:
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy…Tuy

nhiên, mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc, sự
thiếu tôn trọng pháp luật, tệ đi “cửa sau” để giải quyết công việc.
Người Việt sống rất coi trọng tình cảm và đề cao tín nghĩa. Ba tội lớn nhất của đời
người là “bất trung, bất hiếu, bất nghĩa”. Có thể thấy, tư tưởng đó đã đề cao lòng yêu
nước, hiếu thảo với cha mẹ, bề trên, sống tình nghĩa với người xung quanh, lối sống tình
cảm đó dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn. Lối sống được ca ngợi là lối sống tập thể đặt
lợi ích nhóm lên trên lợi ích cá nhân, đồng thời đặt lý cao hơn tình. Truyền thống tôn sư
trọng đạo, kính trên nhường dưới, uống nước nhớ nguồn khiến con người trở nên tình
nghĩa, đùm bọc và gắn kết nhau hơn. Đây là cơ sở để nghị quyết V Ban chấp hành trung
ương khóa VIII đưa ra những đặc trưng bản sắc văn hóa dân tộc, những đặc trưng thể hiện
rõ văn hóa nói chung và văn hóa ứng xử của người Việt nói riêng đó là: Lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, gắn


12


kết cá nhân – gia đình – làng xã – tổ quốc; Lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình
đạo lý; Đức tình cần cù sáng tạo trong lao động; Sự tinh tế trong cư xử, tính giản dị
trong lối sống; Hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo…
1.2.1. Văn hóa ứng xử người Việt dưới sự ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo,
Nho giáo
Văn hóa Việt là nền văn hóa hội tụ đầy đủ yếu tố hướng nội và hướng ngoại. Nền
văn hóa đó là quá trình tích lũy tư duy của cả dân tộc, mang trong mình đặc trưng riêng,
đồng thời cũng là kết quả của sự giao lưu tiếp biến với những nền văn hóa khác. Văn hóa
ứng xử cũng chịu sự chi phối đó. Cùng với các phong tục như tục thờ Mẫu, thờ Thần, thờ
cúng ông bà tổ tiên… và tín ngưỡng bản địa như tín ngưỡng phồn thực, sùng bái tự
nhiên…thì các tôn giáo ngoại sinh cũng ngày càng thể hiện được vai trò của mình đối với
đời sống tinh thần của người Việt. Trong các tôn giáo ấy chúng tôi quan tâm nhiều nhất tới
sự ảnh hưởng Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo với nền văn hóa Việt Nam.

1.2.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo
Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tìm đến với văn hóa dân gian để kết thành duyên
nợ, từng bước tạo được chỗ đứng trong tâm thức nhân dân. Nơi gặp gỡ của Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian bản địa đã trở thành bảo tàng lịch sử văn hóa dân tộc để từ đó Phật
giáo luôn gắn bó và đồng hành với đất nước và con người Việt Nam. Tìm đến với văn hóa
dân gian, kết hợp với tín ngưỡng dân gian là Phật giáo đã tìm đến với nguồn cội của văn
hóa dân tộc, tìm đến với sức sống và bản sắc của văn hóa Việt Nam. Phật giáo sẽ bổ sung
cho văn hóa, thúc đẩy văn hóa phát triển, làm xuất hiện một nền văn hóa Phật giáo của
Việt Nam, khác với Phật giáo ở Trung Quốc hay Ấn Độ cổ đại. Bản chất của Phật giáo, cái
tinh túy của Phật giáo là ở chỗ mục đích của đạo Phật chỉ là một, đó là giải thoát. Mục
đích ấy là bất biến, nhưng tiến trình lịch sử văn hóa lại là một quá trình động cho nên
phương pháp và cách thức thể hiện của đạo Phật lại hết sức linh hoạt, uyển chuyển và
sáng tạo. Phật giáo truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam vốn không phải là một sự kiện đơn
độc, mà kéo theo nó (hoặc trước, hoặc sau, hoặc đồng thời với nó) là sự ảnh hưởng của
tổng thể văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa Việt cổ, ảnh hưởng ấy diễn ra trên nhiều lĩnh vực
như: nông nghiệp, y dược, âm nhạc, vũ đạo, ngôn ngữ…Thực chất của



13

đạo Phật là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát. Về con người, Phật giáo tập trung
ở học thuyết cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và tái sinh.

Những nội dung tư tưởng trên của Phật giáo đã thấm nhuần và ăn sâu vào lối sống
của người Việt với những lối ứng xử rất nhân văn theo nhân sinh Phật giáo như: Thương
người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách, nhiễu điều phủ lấy giá gương, người
trong một nước phải thương nhau cùng, cứu nhân độ thế… và quan niệm ác giả ác báo,
gieo gió gặp bão, ở hiền gặp lành…. Đạo Phật hướng con người đến cái thiện,

khơi dậy trong con người những bản năng bị ẩn sâu đó là tình thương, lòng bác ái, đức
khiêm nhường, hi sinh. Bởi thế, con người trở nên tĩnh hơn, và cộng đồng gắn kết hơn.
Không chỉ vậy, với tinh thần “Từ bi - hỷ xả - vô ngã - vị tha”, năng động hóa
bởi đạo lý Bát Chính đạo, là điều giáo dục phổ biến đối với dân tộc ta, dân tộc thường
xuyên bị những thế lực xâm lược đem theo sự thống trị đầy những cái ác bất nhân,
gieo mầm bất nghĩa, trái đạo lý dân tộc. Bởi thế Phật giáo phương xa đến Việt Nam đã
đương nhiên trở thành Phật giáo Việt Nam với tư tưởng yêu nước là chủ yếu. Tư tưởng
yêu nước này được xác minh qua nhiều thế hệ, suốt dòng lịch sử tranh đấu giữ nước và
dựng nước của dân tộc ta.
Phật giáo ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày cũng như
đời sống tâm linh của người Việt. Một số yếu tố của Phật giáo đã trở thành tín ngưỡng
bản địa hóa khi mà ngày càng xuất hiện nhiều chùa chiền – nơi gửi gắm niềm tin yêu,
những ước nguyện tốt đẹp của người dân với Phật. Phật giáo đã góp phần làm phong
phú thêm tâm hồn, đạo đức, hành vi cư xử của người Việt, làm phong phú thêm nền
văn hóa dân tộc.
1.2.1.2. Ảnh hưởng của Đạo giáo
Trong triết lý Đạo giáo, nó quan tâm nhiều tới mối liên hệ mật thiết giữa con

người và tự nhiên, con người sống hòa thuận và nương theo trời đất, tự nhiên,, con
ngưởi cần sống hòa thuận gắn bó với thiên nhiên, tuân theo quy luật của thiên nhiên, tu
luyện để sống lâu và gần với Đạo.
Đạo giáo khi du nhập vào Việt Nam đã có sự hòa nhập mạnh mẽ vào các tín
ngưỡng dân gian bản địa. Trước hết, nó thể hiện ở việc Đạo giáo phù thủy đã thâm


14

nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ dàng với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền. Dẫn tới
tình trạng nhiều người không phân biệt được đâu là tín ngưỡng dân gian và đâu là yếu
tố của Đạo giáo. Tuy nhiên một số tín ngưỡng hiện nay nhìn bề ngoài thì có vẻ là sản
phẩm của Đạo giáo nhưng kỳ thực đó là tín ngưỡng dân gian của Việt Nam, với một
vài ảnh hưởng của Đạo giáo.
Đạo giáo có ảnh hưởng trên mọi lĩnh vực: chính trị, y dược, văn học tới văn hóa
tư tưởng…đặc biệt có ảnh hưởng tới thế ứng xử xã hội của người Việt. Người dân đặc
biệt tin vào những phép thuật, quyền năng của một thế lực siêu nhiên có thể giao tiếp
chi phối cuộc sống của con người. Người Việt tin là có thánh thần, vì vậy khi Đạo giáo
quảng bá ý thức thờ Thần thì ngay lập tức nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần
chúng nhân dân. Nhưng người Việt vẫn giữ đôi mắt tỉnh táo để không sa đà vào các
hoạt động tâm linh mang tính chất cực đoan, tiêu cực của những kẻ mạo danh thần
thánh. Có thể thấy, Đạo giáo du nhập vào Việt Nam nhưng được chắt lọc, hòa hợp
những nét tương đồng với văn hóa Việt chứ không tác động hoàn toàn lên văn hóa.
Điều đó càng làm văn hóa nước ta trở nên đa dạng và nhiều màu sắc. Con người cũng
trở nên lạc quan trước thực tế, sống thanh cao, gắn bó với tự nhiên và có ý thức rèn
luyện bản thân. Đó là nét tích cực mà Đạo giáo mang lại cho văn hóa Việt.
1.2.1.3. Ảnh hưởng của Nho giáo
Nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam không thể tách rời nó với truyền thống
Việt Nam. Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc thời
cổ đại đó là những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức, thể chế cai trị vốn đã có cơ sở

ở Trung Quốc từ thời Tây Chu, đến cuối thời Xuân Thu (TKXI-TKV TCN) thì được

Khổng Tử (551-479TCN) và các môn đệ của Ông là Mạnh Tử (372-289 TCN) và Tuân Tử
( 313 -238 TCN) hệ thống hóa ổn định lại trong hai bộ kinh điển là Tứ Thư và Ngũ

Kinh. Đây là một trong những trường phái tư tưởng, một học thuyết đạo đức chính trị
ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài không chỉ ở Trung Quốc mà ở mà còn ở cả các nước
phương Đông trong đó có Việt Nam.
Nho giáo coi giữa con người và con người có năm quan hệ gọi là ngũ luân: chacon, anh- em, vợ- chồng, bè bạn và vua- tôi. Về sau được nhấn mạnh ba trong năm quan
hệ đó được coi là cơ bản nhất, tức là tam cương: cha- con, vua- tôi và vợ- chồng. Ngoài


15

ra họ cũng nói đến ba ngôi tôn quý là vua, cha và thầy. Theo Khổng Tử thì cách trị
nước là làm cho “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. Đó là cách quan niệm
của một xã hội luân thường và một con người chức năng theo luân thường. Con người
có giá trị hay không là ở chỗ hoàn thành hay không hoàn thành chức năng là cha hay là
con, là vua hay là tôi, là anh hay là em.
Đáng chú ý là tuy năm quan hệ đã đề cập đến con người trong đời sống gia đình, xã
hội và với nhà nước; nhưng quan hệ vua- tôi (nhà nước với dân) lại đồng nhất với chacon, quan hệ bạn bè (xã hội) lại đồng nhất với anh- em. Thế là các quan hệ xã hội và với
nhà nước đều quy về các quan hệ gia đình. Nho giáo lấy gia đình để hình dung thế giới:
những cộng động như họ, làng, nước, thế giới cho đến cả vũ trụ, tuy có phạm
vi rộng hẹp khác nhau nhưng đều được coi giống như gia đình, tức là với các quan hệ

cha- con, anh- em và vợ- chồng, có trên có dưới. Người trên (cha, anh và chồng) phải
thương yêu, chăm sóc người dưới và người dưới (con, em và vợ) phải thương yêu,
phục tùng và biết ơn người trên. Cách cư xử đúng chức năng như vậy làm cho gia đình
thuận hoà, êm ấm. Theo Nho giáo áp dụng cách thức như vậy trong quan hệ xã hội và
trong quan hệ nhà nước, giữa người cầm quyền và dân cũng tạo ra một cảnh êm ấm

thuận hoà. Đó là cách lấy gia đình thuận hoà làm mẫu để xây dựng xã hội thái bình,
hoà mục, trật tự và ổn định.
Nho giáo mong có một xã hội tốt đẹp, nhưng không phải là bằng cách làm điều
lợi, bỏ điều hại, kinh doanh, làm cho phú cường… mà bằng cách làm cho mọi người
đều nỗ lực tu dưỡng đạo đức để tất cả đều thiện. Sách Đại học nói: “Từ thiên tử cho
đến người dân thường ai ai cũng lấy tu thân làm gốc”.( Đạo đại học)
Những tư tưởng Nho gia trên đã có ảnh hưởng như thế nào đối với đời sống văn
hóa và đặc biệt là văn hóa ứng xử người Việt?
Nho giáo vốn rất coi trọng văn, coi trọng văn trị. Vì vậy, các nước theo Nho giáo
đều đề cao lễ nhạc, văn hiến, đề cao việc giáo dục. Điều đó được đẩy mạnh đến mức độ
biến các nước đó thành đề cao người đi học, người biết chữ, người làm được văn chương,
thơ phú. Thậm chí điều đó còn dẫn đến thói quen sùng bái chữ viết, sùng bái sách vở.
Ngày xưa ai bắt gặp một tờ giấy có viết chữ rơi vãi ở đất thì lập tức họ kính cẩn nhặt lên,
đội lên đầu và đem đốt chứ không dùng nó vào những việc thiếu kính cẩn. Nhưng


16

việc đề cao văn hoá đó lại theo một hướng không hay là khoa cử, học để làm quan, học
viết văn chương, không chú trọng kỹ thuật, khoa học, học thuật. Ở Việt Nam cũng giống
các nước Đông Á khác đã từ rất sớm việc học đã được phổ biến. Đến thế kỷ XI đã lập Văn
Miếu, Trường Quốc Tử Giám, trường đại học của cả nước. Văn học thành văn văn cũng ra
đời sớm. Đến thế kỷ XV, với Nguyễn Trãi ta đã có thể nói là có nền văn học cổ điển của
dân tộc. Những bộ sử như Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần, Ngô Sĩ Liên đời Lê đã
để lại cho đời sau hiểu biết hàng chục thế kỷ. Đó là những thành tích rực rỡ về văn hoá,
nếu không có sự truyền bá rộng rãi của Nho học thì không thể có sớm như vậy. Với Nho
giáo, học cũng có nghĩa là tu dưỡng đạo đức. Học trước hết là để hiểu các làm người. Con
người, như trên đã nói là con người trong quan hệ gia đình, họ hàng, trong trật tự trên dưới
của xã hội, trong quan hệ với vua quan, với Trời. Làm người là cư xử đúng lễ nghĩa trong
các quan hệ như vậy. Những người bất hiếu, bất mục trong gia đình, vô lễ, vô phép, ngỗ

ngược ngoài làng xóm, sống hám lợi, ít tình nghĩa, không chất phác... không những bị chê
trách mà còn bị xử phạt các này hay các khác. Thái độ chuộng đức và đề cao tu dưỡng của
Nho giáo một mặt làm cho con người ngoan ngoãn dễ chấp nhận quân quyền, phụ quyền,
và nam quyền có tính áp bức. Nhưng mặt khác cũng làm làm cho con người ở đây có tinh
thần hiếu học, cầm kiệm, có trách nhiệm, biết tự trách mình, vì nghĩa mà hy sinh. Họ biết
nhường nhịn không tranh hơn trong đời sống cộng đồng, thường biết nghe theo người cầm
đầu, dễ có kỷ luật. Tất nhiên mỗi điểm như vậy cũng đều phải tính đến cả mặt trái hạn chế
sự phát triển của nhân cách.

Nho giáo chủ trương một gia đình có chủ và người chủ là đàn ông. Họ nói đến
ba quan hệ có ý nghĩa đạo lý: cha-con, vợ-chồng, anh-em. Trong mỗi cặp có bề trên và
bề dưới, người dưới phải phục tùng người trên tức là con nghe cha, em nghe anh, vợ
nghe chồng. Đàn bà không bao giờ là chủ gia đình bởi xã hội phong kiến quan niệm
“tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (lúc còn là con gái thì phải nghe
cha, lúc lấy chồng thì phải nghe chồng và khi chồng chết thì phải nghe con trai chủ gia
đình - người chịu trách nhiệm với mọi người trong nhà). Người đàn ông có quyền
quyết định mọi việc trong gia đình, và người phụ nữ chỉ lo những công việc tề gia nội
trợ, tất cả lời nói hành động đều có sự cho phép của chồng.


17

Nho giáo quan niệm gia đình là khuôn mẫu thu nhỏ của một nước, bởi lẽ đó“một
nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước đều có lễ
nhượng”( Đại học, chương 9).Do đó, muốn đất nước bình an thì gia đình cần giữ sự hòa
thuận. Nho giáo quan niệm các thành viên trong một gia đình phải yêu thương, đùm bọc,
quan tâm đến nhau. Cha mẹ có trách nhiệm sinh thành nuôi nấng dạy dỗ con cái nên
người. Con cái có nghĩa vụ hiếu thảo kính trên nhường dưới với đấng sinh thành, anh chị
em đùm bọc bảo vệ nhau, vợ chồng thủy chung hòa thuận. Mỗi cá nhân tự làm tròn bổn
phận của mình, điều đó khiến gia đình trở nên gắn bó với nhau, gia đình bình yên là đất

nước sẽ thanh bình. Nho giáo đề cao danh dự của gia đình, dòng tộc, bởi vậy mỗi cá nhân
đều phải hành động để giữ gìn danh tiếng, quy ước gia phong.

Cùng với đó, Nho giáo đặt ra yêu cầu với mỗi cá nhân phải tuân theo lễ nghĩa,
lễ là chỉ hướng cho mọi hành động của con người. Lễ là hiếu kính của con với cha mẹ,
là chị ngã em nâng, là tình bằng hữu, xóm giềng. Xây dựng một gia đình biết hiếu lễ
cũng là cốt yếu nền móng để xây dựng một đất nước có kỉ cương, pháp luật. Nhà là
ngôi nhà nhỏ, nằm trong ngôi nhà to là đất nước. Giữ vững được ngôi nhà to thì cần
xây vững chắc những ngôi nhà nhỏ. Quan niệm trên của Nho gia vừa có lợi lại vừa có
mặt hạn chế khi giữ gìn được nét tốt đẹp của đất nước, nhưng cũng bảo trì luôn cả tập
tục lạc hậu như chế độ nam quyền, chế độ đa thê, trọng nam khinh nữ.
Việc đề cao chữ Nhân trong Nho giáo cũng có ý nghĩa tích cực và mang tính nhân
bản nhưng mặt khác trong quan niệm của Khổng Tử về chữ Nhân nó bao hàm cả sự thừa
nhận về chế độ, đẳng cấp và chế độ tông pháp. Chính vì vậy, bên cạnh việc làm cho con
người biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau thì yêu thương ấy cũng có những cấp độ khác
nhau dựa theo quan hệ thân sơ, sang hèn và Nhân không phải là lòng bác ái rộng lớn bao
la mà có tiêu chí cụ thể của nó. Chính điều này cùng với lối sống nông nghiệp đã dẫn tới
cách ứng xử trọng tình của người Việt. Trọng tình là lối sống coi trọng tình cảm nhưng nó
cũng đem lại hệ lụy là coi trọng người thân, người quen của người Việt.

Như vậy, Nho giáo từ khi vào Việt Nam đã có sức lan tỏa rộng rãi không chỉ
trong quá khứ mà còn cả ở hiện tại và tương lai đối văn hóa Việt. Vấn đề đặt ra là làm
sao phải “gạn đục khơi trong” Nho giáo để làm đẹp thêm nét văn hóa Việt và để phục
vụ mục đích tích cực cho đất nước.


18

1.3. Khái niệm về giới
Giới: Là một thuật ngữ xã hội học, nói đến vai trò, trách nhiệm và quan hệ xã

hội giữa nam và nữ. Giới đề cập đến việc phân công lao động, phân chia nguồn lực và
lợi ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể. Giới được hình thành do học
và giáo dục, không đồng nhất, khác nhau ở mỗi nước, mỗi địa phương, thay đổi theo
thời gian, theo quá trình phát triển kinh tế xã hội.
M.L. Andersen - một giáo sư xã hội học định nghĩa giới như sau: “Giới liên
quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông đợi được tạo nên với hai giới tính.
Trong khi con trai và con gái là những yếu tố sinh học thì việc trở thành một phụ nữ
hay một nam giới là một quá trình văn hóa” [38.40].
Các định nghĩa trên đây về giới cho phép ta hình dung cách tiếp cận đa dạng về
thuật ngữ này. Tuy nhiên, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng: “Khái niệm giới
không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả mối quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan
hệ ấy có sự phân biệt về vai trò, trách nhiệm, hành vi hoặc sự mong đợi mà xã hội đã
quy định cho mỗi giới. Những quy định/mong đợi xã hội này phù hợp với các đặc điểm
văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo; vì thế nó luôn biến đổi theo các giai
đoạn lịch sử và có khác biệt giữa các cộng đồng, xã hội” [38.42].
“Giới” là thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những đòi
hỏi, yêu cầu đối với nam và nữ. Nó là sản phẩm của xã hội - văn hóa.Trong đời sống
hằng ngày, thuật ngữ giới (gender) thường bị dùng lẫn lộn với giới tính (sex). Thực
chất đây là hai phạm trù tương hỗ nhưng không đồng nhất. Nếu giới tính chỉ nhấn
mạnh đến tính (nam/nữ) (Trung văn dịch là tính biệt) thì giới nhấn mạnh đến sự phân
biệt nam/nữ trên cả phương diện xã hội (dịch sang Trung văn có nghĩa là xã hội tính
biệt - giới tính nam/nữ xét trên phương diện xã hội. Như vậy, khái niệm giới mà chúng
tôi sử dụng không những chỉ phương diện giới tính và giải thích người đàn ông và phụ
nữ ở khía cạnh sinh lý mà còn quan tâm đến cả phương diện văn hóa - xã hội của họ
như trong mối quan hệ gia đình, quan hệ nam nữ.
Do hoàn cảnh lịch sử và đặc trưng tư tưởng, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam
hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn


19


thơ hiện đại. Nhưng đáng tiếc, trong xã hội phong kiến, người phụ nữ lại phải chịu một
số phận đầy bị kịch:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du
giống như một điệp khúc đau thương. Chẳng thế mà người phụ nữ miền núi thì than
rằng "Thân em chỉ bằng thân cọn bọ ngựa, bằng thân con chẫu chuộc thôi", còn phụ
nữ miền xuôi lại ví mình như con ong cái kiến. Đây không phải là lời nói quá mà điều
này được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong ca dao than thân, trong
Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương, trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyện
Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)… Nói
khác đi, vấn đề giới giúp cho việc nhận thức nhân vật toàn diện hơn. Trước đây, nhân
vật nam/nữ thường chỉ được nhìn theo quan điểm giai cấp, áp bức hay bị áp bức, theo
quan điểm đạo đức, đáng khen hay đáng chê thì với điểm nhìn giới, chúng ta thấy thêm
những phương diện khác của nhân vật.
1.3.1. Quan điểm văn hoá về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại
1.3.1.1. Quan điểm đề cao “Tam tòng”, “Tứ đức”
Tam tòng có nguồn gốc từ Nghi lễ, Tang phục, Tử Hạ truyện có ghi: “Phụ nhân
hữu tam tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá tòng phụ, ký giá tòng phu,
phu tử tòng tử”. Sau này, các nhà Nho vận dụng thuyết tam tòng, tứ đức vào việc giáo
hóa người phụ nữ. Vì vậy, theo Nho giáo, phụ nữ có ba điều phải tuân theo, không có
quyền tự định đoạt theo ý mình: Tại gia tòng phụ người con gái khi còn ở nhà phải
nghe theo cha. Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải nghe theo chồng. Phu tử tòng tử:
nếu chồng qua đời phải theo con trai.
Tứ đức có nguồn gốc từ Chu lễ (sách ghi những quy định về lễ nghĩa thời nhà
Chu), thiên Quan trủng tể có ghi: Cửu tần chưởng phụ học chi pháp, dĩ cửu giáo ngự: phụ
đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công. (Nghĩa là: Cái phép học của người vợ cả là lấy chín
điều - tập trung trong bốn đức: công, dung, ngôn, hạnh). Sau này, các nhà Nho vận



×