Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.41 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ PHƯƠNG QUANG

BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM,
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ ....................................................................................................................... 9
1.1. Những vấn đề lý luận về bị cáo trong tố tụng hình sự ....................................... 9
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trước khi ban hành
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ............................................................................ 15
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo theo Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 ............................................................................................................. 21
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
BỊ CÁO TẠI HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH ..................................... 43
2.1. Khái quát thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình
sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2015-2019) ............................................. 43
2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình
sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2015-2019) ............................................. 45
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............... 59


3.1 Quan điểm và yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện quy định của pháp luật về
bị cáo trong tố tụng hình sự ...................................................................................... 59
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .......................................................................... 63
3.3. Các giải pháp khác ............................................................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADPL

: Áp dụng pháp luật

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm


ĐCS

: Đảng cộng sản

HĐXX

: Hội đồng xét xử

KSV

: Kiểm sát viên

LTTHS

: Luật tố tụng hình sự

NCTN

: Người chưa thành niên

NN

: Nhà nước

PL

: Pháp luật

QCN


: Quyền con người

TAND

: Toà án nhân dân

TGPL

: Trợ giúp pháp lý

THTT

: Tiến hành tố tụng

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TP

: Thẩm phán

TTHS

: Tố tụng hình sự

HTND

: Hội thẩm nhân dân


KSV

Kiểm sát viên

TKTA

: Thư ký tòa án

VAHS

: Vụ án hình sự

XXST

: Xé xử sơ thẩm

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VP, TP

: Vi phạm, tội phạm

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Như đã biết lịch sử phát triển xã hội loài người luôn quan tâm đấu tranh bảo vệ
và phát triển QCN. Kể từ khi xã hội có giai cấp hình thành, NN ra đời thì pháp luật
chính là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo thực hiện quyền con người. Ngày nay, vấn
đề QCN càng được đề cao và phát triển thành một trong những tiêu trí quan trọng để
đánh giá mức độ dân chủ của một quốc gia. Bản chất của NN Việt Nam là NN của
dân, do dân, vì dân, vì thế vấn đề QCN đã luôn được ĐCS Việt Nam quán triệt, quan
tâm. Điều này thể hiện rất rõ ràng trong việc Đảng và NN đã nhanh chóng điều chỉnh
từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
giúp cho đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng được nâng cao, chính sách an sinh
xã hội ngày càng được chú trọng quan tâm. Tuy nhiên thời gian gần đây, song song
với việc phát triển kinh tế thị trường và bùng nổ công nghệ thông tin (4.0), thì tình
hình vi phạm, tội phạm đang có chiều hướng gia tăng cả số lượng, lẫn các loại thủ
đoạn phạm tội ngày tinh vi phức tạp hơn. Mặc dù, các cơ quan THTT đã có nhiều cố
gắng, nỗ lực trong đấu tranh, phòng ngừa VP, TP. Nhưng có những thời điểm chất
lượng công tác tư pháp còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội và xây dựng NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vẫn còn tình trạng bỏ lọt tội phạm,
làm oan người vô tội, vi phạm các QCN.
Đứng trước khó khăn, thách thức nêu trên Đảng và NN đã đề ra chiến lược cải
cách tư pháp, với các Chỉ thị và Nghị quyết như: Nghị quyết 08/NQ - TW ngày
02/01/2002 [7]; Nghị quyết 48/NQ -TW ngày 24/5/2005 [8]; Nghị quyết 49/NQ - TW
ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng
định: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng
tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [9]; và
tiếp theo đó là Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội [36], yêu
cầu TAND tối cao chỉ đạo các tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa;
đảm bảo việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật… Những chủ
trương, chính sách nêu trên cũng chính là việc Đảng và NN muốn nâng cao QCN
trong hoạt động tư pháp. Và để cụ thể QCN trong hoạt động tư pháp, Hiến pháp Việt


1


Nam năm 2013 đã khẳng định các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật [33]; Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp về QCN trong hoạt động TTHS, tại
BLTTHS 2015 đã tiếp nối bằng rất nhiều các quy định về quyền, nghĩa vụ cũng như
các nguyên tắc để bảo vệ những người tham gia tố tụng như: Người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, bị hại …; Trong đó tại Điều 61 BLTTHS 2015 [29], các nhà làm luật đã rất
chú trọng đến việc ban hành các quyền về con người để đưa vào BLTTHS nhằm mục
đích để bảo vệ được nhiều những quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo.
Ở địa phương huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định - nơi học viên công tác trong
những năm qua tình hình VP, TP nói chung diễn biến ngày càng phức tạp, trung bình
mỗi năm TAND huyện Hoài Nhơn thụ lý XXST hơn 100 VAHS [50]. Nhìn chung các
HĐXX của TAND luôn quan tâm áp dụng đầy đủ các quy định của luật TTHS về
quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử thì vẫn còn dấu hiệu vi
phạm các quy định và quyền và nghĩa vụ của bị cáo, dẫn đến việc vị trí, vai trò của bị
cáo trong TTHS có những thời điểm chưa được nhận thức và đánh giá đúng mức, dẫn
đến khi áp dụng các quy định của pháp luật về bị cáo trong XXST các VAHS không
bảo đảm QCN theo quy định của PL. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó,
trong đó bị cáo - là chủ thể tham gia tố tụng chưa nhận thức và thực hiện đày đủ, các
quyền và nghĩa vụ tố tụng. Vì vậy việc nghiên cứu các quy định của luật TTHS về
người tham gia tố tụng nói chung và bị cáo nói riêng, một cách khoa học không những
bổ sung thêm về mặt lý luận bị cáo còn giúp cho những người làm công tác thực tiễn
thực hiện tốt các quy định của PL về quyền và nghĩa vụ trong xét xử các VAHS, góp
phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng PL, không kết tội oan sai, bản án được nhân
dân đồng tình ủng hộ, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp là đề tài có tính thời sự
cấp thiết.
Xuất phát từ yêu cầu việc nghiên cứu khoa học trong chương trình đào tạo thạc sĩ
luật học của Viện hà lâm khoa học xã hội Việt Nam, học viện khoa học xã hội và nhu

cầu phục vụ thực tiễn công tác xét xử của bản thân, học viên đã chọn đề tài: “Bị cáo
trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định” làm
luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2


Bảo vệ QCN nói chung, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội nói riêng là
một đề tài được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Trong thời gian gần đây đề
tài về bị cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng bắt đầu thu hút được
sự chú ý quan tâm, nghiên cứu như:
Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa
vụ pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Thảo, Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, 2015 [44]. Đây là đề tài nguyên cứu các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự trong việc bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng, gồm tất cả
các giai đoạn kể từ khi tội phạm xảy ra, được các cơ quan THTT phát hiện khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử … và những người tham gia tố tụng với những tư cách như:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, người bào chữa (Luật sư, trợ giúp viên pháp
lý)…
Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, của tác
giả Võ Quốc Tuấn, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và
Pháp luật, 2017 [58]. Đây là đề nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS về bảo
đảm quyền của bị cáo trong phiên tòa XXST của TAND cấp tỉnh. Điểm trọng tâm và
mấu chốt của đề tài, do đây là giai đoạn chuyển giao giữa BLTTHS 2003 và 2015,
lên tác đã rất thành công khi đưa ra những so sánh giữa hai BLTTHS để tìm ra những
điểm mới, điểm tiến bộ trong các quy định của pháp luật TTHS.
Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phan Thị Thanh Tâm, Viện hàn lâm

khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [42]. Đây là đề nghiên
cứu các quy định của pháp luật TTHS về bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên (người dưới 18 tuổi phạm tội) từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố
và xét xử. Tác đã thành công công khi phân tích và so sánh những điểm khác nhau
giữa hai cụm từ: “Người chưa thành niên”, theo quy định của BLHS 1999, BLTTHS
2003 và “Người dưới 18 tuổi” của BLHS và BLTTHS 2015 để qua đó thấy được
những điểm mới về quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên (người dưới 18
tuổi) giữa Luật hình sự và TTHS mới 2015 với các Luật trước đấy.

3


Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong
hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Hữu Hậu, Viện hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [19].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam,
trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” của tác giả Lê Viết Kiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Khoa luật - 2015[22].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam” của tác giả Dương Văn Công, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật 2017 [15].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội”
của tác giả Đinh Hải Ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2017[24]. Đây là đề
tài nghiên cứu về quyền của người bị buộc tội, trong đó tác giả cũng đã nêu ra được
trong các giai đoạn điều tra, truy tố thì người bị buộc tội được pháp luật TTHS gọi
với tư cách tham gia tố tụng là Bị can; Còn trong giai đoạn xét xử thì người bị buộc
tội, được gọi với tư cách là Bị cáo…; tác giả cũng đã so sánh được quyền và nghĩa vụ
của bị can, bị cáo được quy định trong hai BLTTHS 2003 và 2015 và đã nêu nên
được thực tiễn áp dụng các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong các giai đoạn

tố tụng hình sự tại địa phương thành phố Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh”, của tác giả Phạm Hồng Khải, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
Học viện khoa học xã hội, 2017 [21].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ
án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Phan Hùng, Viện
hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [20].
Luận văn thạc sĩ luật học: “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, của tác giả Phạm Nguyễn Việt Cường, Viện hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [13].

4


Bài viết: Một số kiến nghị hoàn thiện chế định người tham gia tố tụng trong
BLTTHS, của các tác giả Thái Chí Bình - Tạp chí Nghề Luật số 2/2015[4].
Bài viết: Quy định pháp luật quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân của các tác giả Võ Quốc Tuấn - Tạp
chí Nghề Luật số 4/2015[57].
Bài viết: Trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị buộc tội trong Tố tụng
hình sự Việt Nam, của các tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy, Tạp chí Khoa học pháp lý số
4/2015[16].
Bài viết: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng
minh buộc tội của Viện kiểm sát, của các tác giả Nguyễn Hữu Hậu, Tạp chí Kiểm sát
số 12/2015[18].
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một
số công trình nghiên cứu cơ bản về người bị buộc tội, người tham gia TTHS Việt
Nam. Nhưng đối với việc nghiên cứu một cách toàn diện về Bị cáo trong luật TTHS
Việt Nam thông qua thực tiễn xét xử ở TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thì

chưa có công trình nào đề cập đến.
Từ thực tiễn trong công tác xét xử sơ thẩm các VAHS của bản thân học viên tại TAND
huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Cũng như trước yêu cầu của sự nghiệp cải cách tư pháp, tổ
chức thực hiện Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức TAND 2014 và thi hành BLTTHS 2015 cùng
các văn dưới bản luật trong lĩnh vực TTHS quy định về Bị cáo, thì việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận, và thực tiễn để đưa ra giải pháp đảm bảo thực hiện tốt những quy định của pháp
luật TTHS về Bị cáo trong XXST các VAHS là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của
PL về bị cáo trong xét xử án hình sự sơ thẩm, đảm bảo thực hiện các quy định về bị
cáo trong TTHS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về bị cáo
trong XXST các VAHS tại TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đình; qua đó, luận
văn đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của
luật THHS về bị cáo trong XXST các VAHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

5


Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về bị cáo trong xét xử án
hình sự sơ thẩm, như: Khái niệm Bị cáo, đặc điểm của bị cáo; quyền và nghĩa vụ của
bị cáo trong xét xử sơ thẩm các VAHS;
- Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của Bị cáo trong TTHS Việt Nam, từ
sau Cách mạng tháng 8.1945 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về bị cáo của BLTTHS 2015, từ đó thấy
được những điểm mới, tiến bộ cũng như một số điểm còn bất cập của các chế định về
Bị cáo trong BLTTHS 2015, để từ đó đề xuất quan điểm về hướng sửa đổi, bổ sung
BLTTHS 2015;

- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về bị cáo trong XXST
các VAHS theo luật TTHS Việt Nam trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định;
đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những
nguyên nhân của nó;
- Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về bị cáo
trong XXST các VAHS theo luật TTHS Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong XXST các VAHS trong thực tiễn ở nước ta
trước yêu cầu tiếp tục cải cách tư pháp và xây dựng NN pháp quyền.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về bị cáo
trong xét xử án hình sự sơ thẩm qua thực tiễn xét xử ở Toà án nhân dân huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề bị cáo trong XXST các
VAHS theo luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp
dụng các quy định của PL tố tụng về quyền và nghĩa vụ của bị cáo tại TAND Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc ADPL quy
định về bị cáo trong TTHS tại các phiên tòa XXST các VAHS ở TAND huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định giai đoạn 2015-2019.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

6


5.1. Cở sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
(chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) và tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của ĐCS Việt Nam về NN và PL, xây dựng NN pháp quyền, về cải cách tư
pháp và bảo vệ QCN trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng
hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp của các bộ môn
khoa học khác, như phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống
hóa, phương pháp logic...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn
thạc sĩ luật học về thực hiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về bị cáo
trong XXST các VAHS theo yêu cầu cải cách tư pháp, mà trong đó giải quyết nhiều
vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới quyền và nghĩa vụ của bị cáo
theo luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Nghiên cứu việc đảm bảo ADPL về quyền, nghĩa vụ của bị cáo trong XXST
nhằm bổ sung những vấn đề lý luận về hoàn thiện PL bảo đảm thực hiện quyền và
nghĩa vụ của bị cáo trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay;
- Tổng hợp các quan điểm khoa học của một số nhà khoa học về bị cáo trong tố
tụng hình sự để đưa ra quan niệm của học viên về bị cáo trong tố tụng hình sự;
- Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của chế định bị cáo trong pháp
luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng các quy định về quyền và
nghĩa vụ của bị cáo tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAND huyện Hoài Nhơn,
tỉnh Bình Định; những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên nhân của các tồn tại,
hạn chế đó;

7


- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất phương

hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện các chế định về bị cáo trong XXST các VAHS
trong giai đoạn xây dựng NN pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay.
- Bản thân tác giả là TP công tác TAND cấp huyện, đã tham gia XXST nhiều
VAHS, từ việc nghiên cứu và trải nghiệm bản thân, những kiến nghị trong luận văn
không chỉ có ý nghĩa như một đề xuất mang tính khoa học có giá trị tham khảo cho các
cơ quan, tổ chức trong xây dựng, hoàn thiện PL bảo đảm thực hiện các quy định về bị
cáo trong TTHS. Học viên cũng hy luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích cho
các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy và học viên chuyên ngành luật học; và phục
vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ làm công tác thực
tiễn đang công tác tại các Cơ quan VKSND, TAND trong quá trình giải quyết VAHS
được khách quan, có căn cứ và đúng PL.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3
chương và 8 tiết.

8


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Những vấn đề lý luận về bị cáo trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm bị cáo trong tố tụng hình sự
Như đã biết theo quy định của pháp luật TTHS thì các giai đoạn từ khởi tố,
điều tra cho đến truy tố chỉ là giai đoạn thu thập nguồn chứng (tìm kiếm thông tin)
chứng minh sự việc phạm tội xảy ra mà chưa phải là qúa trình xác định VP, TP. Do đó
xét xử tại phiên tòa mới là giai đoạn quan trọng nhằm xác định có phạm tội hay không
phải là tội phạm của một người thực hiện hành vi trái PL. Cơ quan điều tra sẽ ra quyết
định khởi tố VAHS, khởi tố bị can. Bị can sẽ trải qua quá trình điều tra, truy tố, cho
đến khi TAND ra quyết định đưa bị can (người bị VKS buộc tội) ra xét xử thì bị can

lúc này được gọi là bị cáo. Theo quy định tại Điều 50 BLTTHS 2003 thì “Bị cáo là
người bị Tòa án quyết đưa vụ án ra xét xử” [28]. Vậy nên khái niệm bị cáo được hiểu
trong phạm vi hẹp nhưng cũng đã nêu lên được, sự việc một người bị truy cứu TNHS
hay bị VKS truy tố thì chưa được gọi là bị cáo, chỉ đến khi TAND ra quyết định đưa
VAHS ra xét xử thì bị can mới được gọi là bị cáo.
Về mặt ngôn ngữ học, có thể hiểu bị cáo là người cụ thể trong xã hội, có hành
vi gây ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến sự việc, đối tượng cụ thể. Theo từ điển luật
học, thì bị cáo là người bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử [59], định nghĩa pháp lý về
khái niệm bị cáo, bị cáo là người bị truy cứu TNHS trước Tòa án. Như vậy, có thể
hiểu là sau khi có quyết định truy tố của VKS và hồ sơ VAHS được chuyển đến
TAND, thì vẫn coi người bị VKS truy tố là bị can, chỉ khi có quyết định của TAND
đưa VAHS ra xét xử mới coi người đó là bị cáo.
Bị cáo được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, tham gia phiên tòa, đề nghị
thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch, đưa ra chứng cứ và những
yêu cầu, tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa, nói lời sau cùng trước khi nghị án,
kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm.
Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của tòa án. Trong trường hợp vắng mặt
không có lý do chính đáng, thì có thể bị áp giải.

9


Bị cáo là người bị TAND đưa ra xét xử, là người bị VKS truy tố và buộc tội, là
người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS và được gọi
là VAHS. Tuy nhiên không đồng nghĩa với việc bị cáo được coi là nghười có tội vì
theo quy định tại Điều 31 Hiếp pháp 2013 thì: “Người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật” [33]. Mặc dù bị tình nghi là người đã thực hiện hành vi vi phạm PL
hình sự dẫn đến là người bị TAND đưa ra xét xử nhưng khi chưa có bản án kết tội của
TAND có hiệu lực hoặc đã có bản án mà bản án nhưng bản án đó vẫn chưa có hiệu

lực pháp thì cũng chưa được xem người đó là có tội. Vậy nên, khái niệm bị cáo không
đồng nghĩa với chủ thể của tội phạm. Bị cáo chỉ là một trong những chủ thể tham gia
TTHS được quy định tại khoản 7 Điều 55 BLTTHS 2015 [29], bị cáo tham gia vào
quá trình giải quyết VAHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ.
Trong BLTTHS 2015 đã quy định khái niệm bị cáo trong phạm vi rộng hơn, bổ
sung thêm pháp nhân cũng có thể là bị cáo. Mà cụ thể tại khoản 1 Điều 61 quy định:
Bị cáo là pháp nhân được thực hiện qua người đại diện hợp pháp của pháp nhân theo
quy định của BLHS 2015 [29]. Tức là những người hoặc pháp nhân đã bị TAND
quyết định đưa xét xử mới gọi là bị cáo, bị cáo tham gia trong giai đoạn xét xử khi đó
họ mới có đầy đủ quyền và nghĩ vụ bị cáo được luật TTHS quy định.
Nếu pháp nhân thực hiện hành vi phạm thì đều bị TAND quyết định đưa ra xet
xử như mọi công dân với tư cách xét xử là bị cáo. Quyết định đưa ra xét xử của
TAND đối với bị cáo là pháp nhân sẽ được thông qua người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân,
Do đó, tư cách tham gia TTHS của bị cáo sẽ xuất hiện kể từ khi TAND ra
quyết định đưa VAHS ra xét và chấm dứt khi VAHS được đình chỉ hoặc khi có bản án
kết tội có hiệu PL được thi hành.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm bị cáo trong tố tụng hình sự như
sau: Bị cáo là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại bị Tòa quyết định đưa ra xét xử
về hành vi vi phạm pháp luật.
Chỉ những người, pháp nhân bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử mới được gọi
là bị cáo và bị cáo không đồng nghĩa với người có tội, không được xem bị cáo là
người có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa hoặc bản án kết tội đó chưa có hiệu

10


lực thi hành. Khi tham gia tố tụng bị cáo có quyền và nghĩa vụ được PL quy định và
bảo đảm thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm bị cáo trong tố tụng hình sự

Một là: Bị cáo là người tham gia tố tung
Bị cáo là một trong những chủ thể tham gia TTHS có quyền được PL bảo vệ
nhưng không mang quyền lực NN, bị cáo tham gia TTHS nhằm để xác định sự thật
của VAHS, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội.
Khi tham gia TTHS, bị cáo được hưởng quyền và thực hiện quyền của bị cáo theo quy
định tại Điều 61 BLTTHS 2015 [29]. Tuy nhiên do bị cáo tham gia TTHS với vai trò
là người bị đưa ra XXST vụ án hình sự. Nên bị cáo luôn ở trong tình thế bất lợi hơn
những người tham gia TTHS khác vì họ phải gánh chịu ảnh hưởng của dư luận xã hội.
Với quan điểm bị cáo luôn là người có tội vì không có thì làm sao lại bị TAND đưa ra
xét xử, bị cáo chưa bị HĐXX kết tội nhưng quan hệ xã hội của bị cáo cũng ít nhiều bị
ảnh hưởng. Vì đại đa số người dân đều cho rằng bị cáo là người phạm tội trước khi
chưa có bản án, quyết định của TAND.
Bị cáo là người tham gia TTHS nhằm xác định sự thật của VAHS, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo có
quyền được biết mình bị buộc tội về tội gì? Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào
chữa khác bào chữa cho mình; Quyền được chứng minh sự vô tội của mình bằng việc
đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền được khiếu nại các quyết định của các cơ quan
tiến hành tố tụng; Quyền được tham gia phiên tòa và được tranh luận tại phiên tòa;
Quyền không bị xét xử một cách qúa chậm trễ thể hiện các quy định về thời hạn tạm
giữ để khởi tố VAHS; thời hạn điều tra; thời hạn truy tố, thời hạn xét xử ..., cụ thể
như: Khi hết thời hạn tạm giữ hình sự nếu Cơ quan CSĐT Công an huyện Hoài Nhơn,
tỉnh Bình Định không có căn cứ để khởi tố VAHS và khởi tố bị can thì phải trả tự do
cho người bị bắt tạm giữ; Nếu hết thời hạn điều tra không chứng minh được tội phạm
thì phải đình chỉ điều tra VAHS và đình chỉ VAHS đối với bị can, hủy bỏ hết quyết
định khởi tố bị can và các quyết định TTHS về biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với
bị can, trả lại cho bị can đầy đủ quyền công dân, có thể phải công khai xin lỗi và bồi
thường thiệt hại theo quy định của PL.

11



Ngoài ra bị cáo tham gia trong TTHS cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với
bản thân họ, là nhằm mục đích đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị cáo, để đảm bảo
quyền lợi của bị cáo, cơ quan THTT phải xác định sự xuất hiện của tư cách bị cáo.
Tham gia hoạt động TTHS với tư cách là bị cáo, họ sẽ được thực hiện các
quyền đặc thù như: Nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án; xem biên bản phiên
tòa; yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa, quyền kháng cáo mà
chỉ có bị cáo mới có quyền, còn những người tham gia TTHS khác thì không.
Hai là, Bị cáo xuất hiện trong vụ án hình sự
Bị cáo xuất hiện trong VAHS để chứng minh hành vi phạm tội có xảy ra hay
không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Đây là những
vấn đề đầu tiên cần phải chứng minh trong VAHS. Trong mỗi VAHS cần phải chứng
minh một cách khẳng định rằng hành vi bị khởi tố, điều tra, truy tố đã xảy ra trên thực
tế. Việc chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện nhất
tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, có ý nghĩa đối với việc
định tội danh đúng hay sai và suy cho cùng nó có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng
đắn VAHS. Đó là những dấu hiệu thuộc chủ thể và mặt khách quan của tội phạm.
Ngoài ra bị cáo xuất hiện trong VAHS là để chứng minh có thực hiện hành vi
phạm tội hay không, có lỗi hay không có lỗi, do lỗi vô ý hay cố ý, có năng lực chịu
TNHS hay không?, động cơ, mục đích thực hiện tội phạm là gì?. Chứng minh bị cáo
là người thực hiện hành vi phạm tội, nghĩa là xác định chủ thể của tội phạm. Sau đso
là để xác định chủ thể đó có lỗi hay không?. Nếu có lỗi thì là lỗi cố ý hay vô ý?. Mục
đích và động cơ phạm tội cần được chứng minh. Khái quát lại những dấu hiệu cơ bản
thuộc chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm được làm sáng tỏ.
Cùng với thì việc bị cáo xuất hiện trong VAHS có ý nghĩa quan trọng giúp
HĐXX chứng minh sự thật khách quan, trung thực chính xác làm cơ sở để xét xử
đúng người, đúng tội. Làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện tất cả các tình tiết
liên quan đến hành vi phạm tội, nó có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng tính
chất và hành vi của tội phạm giúp cho việc giải quyết VAHS đảm bảo đúng quy định
của PL.

Ba là, Bị cáo là người bị buộc tội

12


Tính từ thời điểm VAHS được TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đình có
quyết định đưa vụ án ra XXST thì lúc này bị can đã trở thành bị cáo. Và để nhận biết
đó là bị cáo thì đồng thời cũng là việc đảm bảo của NN đối với công dân vì không ai
bị TAND đưa ra xét xử khi không có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chỉ có những
người đã bị TAND quyết định đưa ra xét xử VAHS mới được gọi là bị cáo, còn những
người mặc dù thực hiện hành vi vi phạm PL hình sự (tội phạm được quy định trong
BLHS), đã được VKSND truy tố nhưng chưa được TAND ra quyết định đưa vụ án ra
XXST thì cũng chưa được gọi là bị cáo.
Vì theo tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 thì: Bất kỳ
người nào bị buộc tội đều có quyền được coi là chưa có tội cho đến khi TAND công
khai, nơi người đó đã có được tất cả những đảm bảo cần thiết để bào chữa cho hành vi
của bản thân, chứng minh được tội phạm của người bị buộc tội trên cơ sở các quy
định của pháp luật [23].
Cũng theo quy định của Hiến pháp 2013 [33], quy định về nguyên tắc suy đoán
vô tội: Người bị buộc tội được TAND xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công
bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của PL thì việc tuyên án phải
được công khai. Tại phiên tòa sơ thẩm VAHS việc xét xử kịp thời, công khai là đảm
bảo quyền lợi cho bị cáo được xét xử trong một phiên tòa có nhiều Cơ quan THTT và
nhiều người tham dự. Sự công bằng thể hiện ở việc bị cáo được xét xử theo những
quy định chung của PL hình sự và TTHS.
Trong đó tại phiên tòa XXST các VAHS, thì HĐXX thực hiện việc điều tra
công khai, trực tiếp các tài liệu chứng cứ liên quan đến VAHS với sự tham gia của
VKSND (bên buộc tội) và bên gỡ tội (bị cáo và người bào chữa cho bị cáo). Thông
qua việc xét xử công khai, HĐXX vừa có thể thu thập thêm các chứng cứ quan trọng
để xem xét, đánh giá những chưgs cứ khác, khắc phục được những thiếu sót, sai lầm

trong hoạt động TTHS trước đấy. Để qua đó đảm bảo bản án, quyết định của HĐXX
dược ban hành một cách chính xác, công bằng và kịp thời.
Với việc nguyên tắc suy đoán vô tội đã lần đầu tiên được quy định và áp dụng
trong BLTTHS 2015 thì bị cáo được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do luật TTHS quy định và có bản án, quyết định kết tội của
TAND đã có hiệu lực thi hành....[29]. Khi bản án, quyết định của TAND chưa có hiệu

13


lực thi hành thì bị cáo vẫn chưa bị coi là tội phạm. Vậy nên các cơ quan THTT hình
sự không được đối xử với bị cáo như là tội phạm. Khi không đủ và không thể làm
sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục theo quy định tại BLTTHS thì
Cơ quan điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc
tội không có tội (vô tội). Nghĩa là, nếu trong giai đoạn TTHS nào đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp cần thiết nhưng vẫn không đủ và không thể có đủ nguồn tài liệu, chứng
cứ để chứng minh tội phạm thì cơ quan, người THTT phải kết luận người buộc tội là
không có tội và phải giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Bốn là, Bị cáo xuất hiện trong giai đoạn xét xử
Đây chính là đặc điểm để nhận biết và phân biệt rõ bị cáo, và cũng là sự bảo
đảm của NN đối với công dân vì không ai bị TAND đưa ra xét xử khi không có quyết
định đưa VAHS ra XXST. Chỉ có những người bị TAND quyết định đưa ra xét xử
mới được gọi là bị cáo, những người tuy có hành vi phạm tội, đã bị VKSND truy tố
nhưng chưa được TAND ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì cũng không gọi
là bị cáo.
Bị cáo là người được TAND đưa ra xét xử nhưng không vì thế mà xem bị cáo
là người có tội (là tội phạm), khi chưa có bản án, quyết định kết tội của TAND có hiệu
lực PL được thi hành. Nên bị cáo được đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. Các
quyền tự do cơ bản của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp 2013 chính là những
giá trị xã hội có ý nghĩa to lớn về mặt mọi mặt cần phải được tôn trong và bảo vệ một

cách có hiệu quả. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân được quy định trong Điều 8 BLTTHS 2015: “Khi tiến hành tố tụng, trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp
dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp
luật hoặc thấy không còn cần thiết” [29]. Nghĩa là, khi có các căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ không còn cần thiết hoặc
những biện pháp này không còn cần thiết nữa thì cắc cơ quan, người có thẩm quyền
phải kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp đó. Nguyên tắc này đảm bảo không
một công dân nào bị xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

14


Năm là, Bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra
bản án kết tội và bản án đã có hiệu lực PL.
Bị cáo là người bị TAND đưa ra xét xử sơ thẩm VAHS nhưng không có nghĩa
bị cáo đã là tội phạm và đồng thời nếu có là người thực hiện hành vi vi phạm PL hình
sự thì bị cáo cũng được thực hiện quyền của bị cáo. Cho nên dù là người bị TAND có
quyết định đưa án ra xét xử thì bị cáo vẫn được thực hiện đầy đủ các quyền của công
dân, đến khi có bản án, quyết định kết tội đã có hiệu lực của PL bị cáo vẫn được thực
hiện quyền bào chữa (tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa) nhằm giảm bớt TNHS
của bản thân bị cáo.
Vậy nên, khi TAND chưa ra bản án, quyết định để kết tội bị cáo, và kể cả khi
Tòa đã ra bản án, quyết định kết tội nhưng bản án, quyết định ấy vẫn chưa có hiệu lực
PL được thi hành thì bị cáo vẫn được thực hiện quyền bào chữa bằng cách tự đưa ra lý
lẽ, chứng cứ, tài liệu của mình để nhằm giúp bị cáo trong việc bác bỏ một phần hoặc
toàn bộ lời buộc hoặc giảm TNHS cho bị cáo, giúp làm sáng tỏ sự thật, minh oan cho
bản thân bị cáo; giúp cho bị cáo về mặt pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

bị cáo. Bên cạnh đó thì ngoài quyền tự bào chữa của bị cáo, thì bị cáo còn có thể nhờ
hoặc thuê người khác bào chữa cho bị cáo, để nhằm mục đích trao cho bị cáo có cơ
hội bảo vệ, quyền và lợi ích chính đáng của bản thân trước sự buộc tội của VKSND
và của các chủ thể có thẩm quyền khác.
Trong khi điều kiện để thực hiện quyền tự bào chữa của bị cáo hạn chế do bị
các cơ quan và người THTT áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo hoặc do
chính bản thân bị cáo không có đủ khả năng và trình độ, kiến thức để thực hiện quyền
tự bào chữa cho mình, thì bị cáo có quyền được đề nghị, yêu cầu cơ quan tiến hành tố
tụng chỉ định (mời) người bào chữa (có thể là Luật sư hoặc Trợ giúp viên pháp lý).
Việc cơ quan TTHS chỉ định (mời) người bào chữa còn đảm bảo tính nhân đâọ của
NN Pháp quyền XHCN Việt Nam và góp phần hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền THTT
xác định sự thật khách quan của VAHS.

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trước
khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
1.2.1. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về bị cáo từ sau cách mạng
tháng 8.1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988

15


Từ khi NN Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời cho đến trước năm 1988, hệ
thống PL - TTHS được điều chỉnh chủ yếu bằng các sắc lệnh, nghị định, thông tư
hoặc các bản hướng dẫn của TAND tối cao. Việc quy định như vậy không tạo thành
một hệ thống thống nhất mà mỗi văn bản lại điều chỉnh một khía cạnh khác nhau của
TTHS. Chính bởi vậy, thời kỳ này không có một BLTTHS riêng biệt quy định về bị
cáo mà các quy định này nằm rải rác ở rất nhiều văn bản PL khác nhau.
Trong suốt thời gian dài trước khi BLTTHS 1988 được ban hành, các thuật ngữ
có liên quan đến bị cáo được sử dụng nhiều trong các văn bản, các sắc lệnh. Tuy
nhiên, chỉ có thuật ngữ bị cáo được định nghĩa chính thức. Các văn bản thời kỳ này

phần lớn không phân biệt bị can, bị cáo và dùng lẫn lộn nhau, vì vậy pháp luật TTHS
thời kỳ 1945 - 1988 không có thuật ngữ bị cáo một cách rõ ràng.
Tuy còn có sự lẫn lộn trong thuật ngữ, không rành mạch trong cách quy định
nhưng nhìn chung, vẫn có những điều khoản quy định về bị cáo. Như Sắc lệnh số 33C
do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành ngày
13/9/1945, tại Điều V đã quy định:“Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bênh vực cho” [39]. Việc quy định quyền bào chữa của bị cáo trong những văn bản
đầu tiên khi thành lập đất nước có giá trị rất lớn bởi nó không chỉ là quyền cơ bản của
bị cáo mà nó còn khẳng định sự quan tâm của NN ta trong việc bảo đảm quyền của bị
cáo nói riêng (người bị buộc tội nói chung), khẳng định tư tưởng lập pháp tiến bộ, dân
chủ của NN Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Quy định trên chính là tiền đề để bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam ra
đời năm 1946 đã ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo: “Người bị cáo được quyền tự
bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”[30, Điều 67]. Bản hiến pháp này cũng ghi nhận
quyền “Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân” [ 30
, Điều 68]. Trong các bản hiến pháp sau đó là Hiến pháp 1959 [31] và Hiến pháp 1980
[32] cũng tiếp tục ghi nhận quyền này của người bị cáo.
Ngoài quyền bào chữa là quyền quan trọng và được đề cập nhiều nhất bị cáo
còn có quyền kháng án lên Tòa cấp cao hơn, điều này được quy định tại Sắc lệnh 13
do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng hòa ban hành ngày
24/01/1946 tại Điều thứ 34: “Toà đại hình xử sơ thẩm. Ông Biện lý, bị can và nguyên

16


đơn có quyền chống án lên Toà Thượng thẩm” [40]. Thêm vào đó, tại phiên toà, bị
cáo được trình bày ý kiến, quyền bào chữa:
Sau khi nghe các bị cáo, các người làm chứng, cáo trạng của ông Chưởng lý, và
sau cùng, nghe lời cãi của các bị cáo, ông Chánh án, hai Hội thẩm và hai Phụ thẩm
nhân dân lui vào phòng nghị xử đề cùng quyết định về tất cả các vấn đề thuộc về tội

trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp giảm tội (Điều thứ 31).
Các văn bản quy định về trình tự, thủ tục phiên toà cũng tiếp tục ghi nhận
quyền này của bị cáo.
Ngoài ra tại phiên toà, bị cáo còn có quyền đề xuất lời thỉnh cầu, nói lời sau
cùng, được giải thích quyền và nghĩa vụ, được quyền chống án. Điều này thể hiện lần
đầu tiên tại mục II, Thông tư số 2225/HCTP ngày 21/10/1956 của Bộ Tư pháp về việc
chấn chỉnh thực hiện quyền bào chữa của bị cáo, cụ thể như sau:
- Bị cáo có quyền trình bày lời lẽ bào chữa, khai nại, đưa ra chứng cớ mới, xin
mời người làm chứng mới, mời người giám định v.v…;
- Bị cáo được đề xuất bất cứ một thỉnh cầu nào hoặc phản đối bất cứ một thỉnh
cầu nào của người khác trong quá trình vụ án;
- Bị cáo lại có quyền trình bày viết những lời thanh minh và những điều chỉnh
thỉnh cầu của mình.
- Bị cáo phải được biết về nội dung buộc tội trước ngày phiên tòa xét xử một
thời gian cần thiết để bị cáo có đủ thì giờ chuẩn bị việc bào chữa trước phiên tòa.
- Trong phiên tòa, bị cáo được viện dẫn tất cả chứng cớ và lý lẽ để chứng minh
rằng mình không có tội hoặc trình bày những tình huống giảm nhẹ tội mà không bị ai
cản trở.
- Sau khi cuộc thẩm vấn kết thúc, bị cáo được nói lời cuối cùng. Bị cáo có
quyền chống án trong thời hạn luật định nếu họ không phục bản án xử sơ thẩm [10]
Chính việc lần đầu tiên quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của bị cáo nên
Thông tư số 2225/HCTP là một trong những văn bản pháp lý quan trọng liên quan đến
quyền của người bị buộc tội. Đó là các quyền được mời người làm chứng mới, quyền
mời người giám định, quyền nói lời cuối cùng, quyền chống án… Tiếp theo Thông tư
2225/HCTP [10], các quyền này cũng tiếp tục được ghi nhận tại Thông tư 16/TATC
ngày 27/9/1974 [54], Sắc luật số 01/SL-76 ngày 15/03/1976 [41].

17



Bên cạnh những quy định ở các văn bản pháp lý này thì Hiến pháp 1946, 1959
và 1980 cũng ghi nhận những quyền cơ bản bị cáo. Đó là quyền được bình đẳng trước
PL, bình đẳng trước TAND; tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở,
đồ vật, thư tín; được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong quá trình tố tụng;
được xét xử công khai, được suy đoán vô tội…
Ngoài các quyền nói trên, bị cáo thời kỳ này có nghĩa vụ phải chấp hành các
quy định của cơ quan tiến hành tố tụng.
Nói tóm lại, quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị cáo trong giai đoạn 1945 -1988
mặc dù có nhiều quy định nhưng không tập trung, nằm rải rắc ở nhiều văn bản, do vậy
các quyền và nghĩa vụ này chưa được rõ ràng và chưa có cơ chế đảm bảo. Đây cũng là
lý do BLTTHS 1988 được ra đời. Tuy vậy, chúng ta cũng cần đánh giá cao những nỗ
lực của các nhà lập pháp trong việc từng bước xây dựng chế định quyền và nghĩa vụ
pháp lý của bị cáo trong thời kỳ đầu của đất nước, bởi đây là thời kỳ vô cùng khó
khăn của Cách mạng Việt Nam khi vừa xây dựng đất nước, vừa bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam năm 1988
Bộ luật TTHS 1988 là BLTTHS đầu tiên của nước ta. Sự ra đời của Bộ luật này
đã đánh dấu mốc vô cùng quan trọng trong quá trình pháp điển hoá những quy định tố
tụng hình sự bởi nó đã“quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [27, Điều 1]. Bởi vậy, BLTTHS 1988
đã quy định tương đối đầy đủ về các vấn đề trong quá trình TTHS, bao gồm cả chế
định liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị cáo.
Trước hết, ngoài các quyền và nghĩa vụ cụ thể của bị cáo thì họ có quyền và
nghĩa vụ chung được quy định ở phần nguyên tắc của BLTTHS 1988. Theo phần
chung thì bị cáo có quyền được bình đẳng trước PL, được tôn trọng các quyền cơ bản,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh
sự và nhân phẩm, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín. Thêm nữa, bị cáo có quyền được suy đoán vô tội, không có trách nhiệm phải
chứng minh mình vô tội, được dùng tiếng nói chữ viết trong tố tụng hình sự. Bị cáo có
quyền được bình đẳng trước Tòa án, có quyền được xét xử bằng một án công khai

hoặc được tuyên án công khai bằng một bản án.

18


Bị cáo có nghĩa vụ chung đó là tôn trọng nhân phẩm, danh dự, sức khỏe và tính
mạng của người khác mà trước hết là người THTT và người tham gia tố tụng. Ngoài
các quyền và nghĩa vụ chung, bị cáo theo quy định tại Điều 34 BLTTHS 1988 lại có
những quy định riêng như:
Bị cáo được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; được tham gia phiên toà;
được đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của BLHS; đưa ra chứng cứ và những yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa; nói lời sau cùng trước khi nghị án; được kháng cáo bản án và quyết định của
TAND [27, Điều 34].
Đầu tiên, bị cáo được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định này
được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là
mười ngày trước khi mở phiên tòa [27, khoản 1 Điều 157]. Quyết định đưa vụ án ra
xét xử phải có: tội danh và điều khoản BLHS mà VKS viện dẫn đối với hành vi của bị
cáo, họ tên TP, HTND, TKTA, họ tên KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa, vật
chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa. Việc quy định này là để tạo điều kiện cho bị
cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. Trong trường hợp bị cáo chưa được giao
nhận bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định thì bị
cáo có quyền yêu cầu HĐXX hoãn phiên toà.
Bị cáo có quyền tham dự phiên toà, sự có mặt tại phiên tòa vừa là quyền, vừa là
nghĩa vụ của bị cáo: “Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án;
nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt có lý do
chính đáng thì phải hoãn phiên tòa” [27, Điều 62.].
Tại phiên tòa, bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định,
người phiên dịch theo quy định của BLTTHS. HĐXX xem xét và quyết định đề nghị
này của bị cáo.

Bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu, có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ khác bào chữa. Bị cáo có quyền trình bày những nhận xét của mình về vật chứng,
về những tài liệu của vụ án và nhận xét về kết luận giám định.
Bị cáo có quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án. Lời nói sau cùng thể hiện
thái độ cuối cùng của bị cáo đối với các tình tiết có liên quan trong vụ án, cho nên

19


theo quy định của TTHS, không ai được đặt câu hỏi, không được hạn chế thời gian,
trừ trường hợp bị cáo trình bày những điểm không có liên quan đến VAHS.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án. Đây là
một trong những quyền cơ bản của bị cáo. Sau phiên tòa bị cáo được xem biên bản
phiên tòa. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Bị cáo cũng có quyền được nhận thông báo kháng cáo, kháng nghị nếu có
kháng cáo, kháng nghị của VKS, của những người tham gia tố tụng khác. Tại phiên
tòa phúc thẩm, bị cáo cũng được hưởng các quyền như tại phiên tòa sơ thẩm.
Bị cáo có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT; nếu vắng
mặt không rõ lý do thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì có thể bị truy nã. Bị cáo có
nghĩa vụ chấp hành các quyết định của các cơ quan THTT như áp dụng các biện pháp
ngăn chặn. Bị cáo có nghĩa vụ chấp hành nội quy phiên tòa, đóng án phí hoặc bồi
thường dân sự (nếu có).
Có thể nói trong BLTTHS 1988, quyền và nghĩa vụ của bị cáo đã phần nào
được đảm bảo, đáp ứng yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử các VAHS lúc bấy
giờ. Tuy nhiên bên cạnh đó thì vẫn còn rất nhiều những hạn chế cần được sửa đổi, bổ
sung để chế định quyền và nghĩa vụ của bị cáo hoàn thiện hơn.
1.2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trong
BLTTHS 2003
Ngày 01.7.2004, BLTTHS 2003 chính thức có hiệu lực thay thế BLTTHS
1988, đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến bị cáo, cụ thể như sau:

Đã quy định rõ hơn một số quyền: Quy định cho bị cáo có quyền được nhận
các văn bản như quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, bản
án, quyết định …, và quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ, được khiếu nại quyết
định và hành vi của người có thẩm quyền, quyền trình bày ý kiến và tranh luận tại
phiên tòa (TAND) …. [28, Điều 50].
Còn tại Điều 57 BLTTHS 2003 đã bổ sung thêm quy định Ủy ban mặt trận tổ
quốc Việt Nam, các thành viên của mặt trận tổ quốc có quyền cử bào chữa viên nhân
dân để bào chữa cho bị cáo là thành viên của tổ chức mình [28]

20


Trong khi tại Điều 58 BLTTHS 2003 cũng đã mở rộng quyền bào chữa theo
hướng bổ sung thêm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cũng quy định
rõ trách nhiệm của người bào chữa [28].
Về tranh tụng tại phiên tòa: Tuy BLTTHS 1988 đã có quy định về tranh tụng,
nhưng những quy định đó chưa thể hiện đầy đủ việc tranh tụng, nhất là tranh tụng tại
phiên tòa. Do vậy trong Nghị quyết số 08/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới xác định là: Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi
công dân đều bình đẳng trước PL, thực sự dân chủ, khách quan; TP và HTND độc lập
và chỉ tuân theo PL; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
KSV, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có
quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng PL, có sức thuyết phục
và trong thời hạn PL quy định” [6].
Và để thể chế hóa quan điểm của Đảng và NN về tranh tụng tại phiên tòa, nâng
cao chất lượng xét xử các VAHS, BLTTHS 2003 đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước TAND và các quy định khác để KSV phải chủ động trong
việc thực hành quyền công tố, khi tranh luận còn có ý kiến khác nhau thì KSV phải
đưa ra lập luận của nình đối với từng ý kiến. Bị cáo, người bào chữa và những người

tham gia tố tụng khác có quyền tranh luận dân chủ tại phiên tòa, HĐXX khi nghị án
chỉ được căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở
xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác [28, Điều 217, 218, 222].

1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo theo Bộ
luật tố tụng hình sự 2015
Ngày 27-11-2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật
tố tụng hình sự (BLTTHS). BLTTHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), chính thức có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.2018 được xác định là sửa đổi căn bản, toàn diện
gồm 510 điều, trong đó, bổ sung mới 176 điều, sửa đổi 317 điều, bãi bỏ 26 điều. Bộ
luật ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện NN pháp quyền XHCN Việt
Nam và thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác

21


điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm QCN, trong đó có các quy định về bị cáo trong
TTHS Việt Nam, cụ thể như sau:
1.3.1. Quy định về quyền của bị cáo
Theo quy định tại khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015, bị cáo có những quyền
sau đây:
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết
định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên tòa;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người
dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng
khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu
được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản
phiên tòa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật" [29].

22


×