Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KHÁI QUÁT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA ẤN ĐỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.9 KB, 27 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KHÁI QUÁT
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA ẤN ĐỘ
1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI xuất hiện khi một nhà đầu tư ở một nước mua tài sản có ở một nước khác với
ý định quản lý nó. Theo các chuẩn mực của Quĩ tiền tệ thế giới IMF và tổ chức hợp tác
và phát triển kinh tế OECD, FDI được định nghĩa bằng một khái niệm rộng hơn.
Theo IMF: FDI nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp
hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục
đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp. [IMF’s fifth edition
of the Balance of Payments Manual (BPM5) 1993, trang 86]
Phân tích khái niệm:
- Lợi ích lâu dài: Khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu tư
thường đặt ra các mục tiêu lợi ích dài hạn. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi phải có một
quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp đồng
thời có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh nghiệp này.
- Quyền quản lý thực sự doanh nghiệp: Quyền kiểm soát nói đến ở đây chính là
quyền kiểm soát doanh nghiệp. Quyền kiểm soát doanh nghiệp là quyền tham gia vào
các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp như
thông qua chiến lược hoạt động của công ty, thông qua phê chuẩn kế hoạch hành động
do người quản lý hàng ngày của doanh nghiệp lập ra, quyết định việc phân chia lợi
nhuận doanh nghiệp, quyết định phần vốn góp giữa các bên, tức là những quyền ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển, sống còn của doanh nghiệp.
Theo OECD: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện nhằm thiết lập các
mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang
lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách: (i)
Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản
lý của chủ đầu tư; (ii) Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có; (iii) Tham gia vào một
doanh nghiệp mới; (iv) Cấp tín dụng dài hạn (> 5 năm). [The forth edition of the
OECD Detailed Benchmark Definition of Foreign Direct Investment 2008, trang 48-49]


Hai định nghĩa trên nhấn mạnh đến mục tiêu thực hiện các lợi ích dài hạn của
một chủ đầu tư cư trú tại một nước, được gọi là nhà đầu tư trực tiếp thông qua một chủ
thể cư trú khác, gọi là doanh nghiêp nhận đầu tư trực tiếp. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi
hỏi phải có một quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư
trực tiếp, đồng thời nhà đầu tư có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý
doanh nghiệp này.
Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2005 mà quốc hội khóa XI Việt Nam đã
thông qua các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”, “đầu tư ra
nước ngoài” nhưng không có khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy nhiên, có thể
“gộp” các khái niệm trên lại và có thể hiểu: “FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư
nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà
đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo
quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Như vậy, muốn hiểu rõ về FDI ở Việt Nam cần xem xét các qui định trong Luật
Đầu tư Việt Nam.Về bản chất, luật này cũng thống nhất cách hiểu về FDI như cách hiểu
thông dụng trên thế giới.
Tóm lại có thể hiểu FDI là một hình thức đầu tư trong đó chủ đầu tư của một
nước đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư cho một dự án ở nước khác nhằm
giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án đó.
Dòng vốn FDI (FDI flows) của một nước trong một năm bao gồm: dòng vốn FDI
vào (Inward Foreign Direct Investment- IFDI) và FDI ra (Outward Foreign Direct
Investment- OFDI) của nước đó trong một năm. IFDI là vốn đầu tư trực tiếp mà các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước đó. Còn OFDI là vốn đầu tư trực tiếp mà các nhà
đầu tư của nước đó đem ra nước ngoài đầu tư. Như vậy, FDI có thể hiểu theo hai nghĩa:
FDI vào (người nước ngoài nắm quyền kiểm soát các tài sản của một nước A) hoặc FDI
ra (các nhà đầu tư nước A nắm quyền kiểm soát các tài sản ở nước ngoài).
b. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI có những đặc điểm chính sau đây:
- Tìm kiếm lợi nhuận: FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là
tìm kiếm lợi nhuận: Theo cách phân loại FDI của UNCTAD, IMF và OECD, FDI là đầu

tư tư nhân. Do chủ thể là tư nhân nên FDI có mục đích ưu tiên hàng đầu là lợi nhuận.
Các nước nhận đâu tư, nhất là các nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi tiến hành
thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách
thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế, xã
hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận
của các chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư phải đóng góp một tỷ lệ tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn
điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền kiểm soát hoặc tham
gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật các nước thường quy định không giống
nhau về vấn đề này. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%, còn tại
Việt Nam, trước kia theo Luật đầu tư 1996 thì tỷ lệ này là 30%, tuy nhiên theo Luật đầu
tư 2005, Việt Nam không còn quy định vốn tối thiểu của nhà đầu tư nước ngoài nữa,
còn theo quy định của OECD thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu
quyết của doanh nghiệp- mức được công nhận cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia
thực sự vào quản lý doanh nghiệp
- Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia dựa
vào tỷ lệ này. Theo luật đầu tư của Việt Nam, trong doanh nghiệp liên doanh, các bên
chỉ định người của mình tham gia vào Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần
vốn góp vào vốn pháp định của liên doanh.
- Thu nhập của nhà đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không
phải lợi tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh vực đầu tư,
hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình, do đó
sẽ tự đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Vì thế, hình thức này mang tính khả
thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh
nặng nợ nần cho nền kinh tế nước nhận đầu tư.
- FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư.

Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp cận được công nghệ, kĩ thuật tiên
tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Ví dụ trong lĩnh vực bưu chính viễn thông của Việt
Nam, hầu hết công nghệ mới trong lĩnh vực này có được nhờ chuyển giao công nghệ từ
nước ngoài.
Tóm lại:
- Đặc điểm quan trọng để phân biệt FDI với các hình thức khác là quyền kiểm
soát, quyền quản lý đối tượng tiếp nhận đầu tư.
- Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì ưu điểm của hình thức này là tính ổn định và
hiệu quả sử dụng vốn của FDI cao hơn các hình thức khác do nhà đầu tư trực tiếp sử
dụng vốn. Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn để chuyển sang các hình thức đầu tư khác
nếu thấy sự bất ổn của nền kinh tế nước nhận đầu tư. Do đó, mức độ ổn định của dòng
vốn đâu tư đối với nước nhận đầu tư cao hơn. Nhược điểm là nước nhận đầu tư bị phụ
thuộc vào kinh tế ở khu vực FDI.
- Đối với nhà đầu tư: Chủ động nên có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư,
lợi nhuận thu về cao hơn. Có thể chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm, khai thác
nguồn nguyên liệu, nhân công giá rẻ và những lợi thế khác của nước nhận đầu tư, tranh
thủ những ưu đãi từ các nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, hình thức này mang tính rủi ro
cao vì anh ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về dự án đầu tư. Hoạt động đầu tư chịu sự điều
chỉnh từ phía nước nhận đầu tư. Không dễ dàng thu hồi và chuyển nhượng vốn.
c. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước chủ đầu tư
Nước chủ đầu tư là nước có các doanh nghiệp đem vốn từ trong nước ra thị
trường nước ngoài đầu tư nhằm đạt được mục đích nhất định. Cơ hội và lợi ích luôn tồn
tại song song với thách thức và chi phí. Vì vậy, hoạt động OFDI vừa có tác động tích
cực, vừa có tác động tiêu cực tới nước chủ đầu tư.
+ Tác động tích cực
Thứ nhất, OFDI giúp nước chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng
cao uy tín trên trường quốc tế. Thực hiện OFDI khẳng định khả năng kinh tế của nước
đi đầu tư thể hiện ở khả năng tài chính, trình độ quản lý, trình độ phát triển công nghệ
và sự am hiểu thị trường thế giới… Vì vậy mà hoạt động OFDI khẳng định sức mạnh
của nước đi đầu tư. Qua đó làm tăng ảnh hưởng của nước này trên thế giới bằng khả

năng chi phối nước nhận đầu tư hoặc khu vực nhận đầu tư. Nhờ vậy, uy tín của nước
đầu tư tăng lên và có tiếng nói trên trường quốc tế hơn. Cũng chính vì thế mà OFDI là
một xu thế tất yếu của tiến trình toàn cầu hóa và trong chiến lược phát triển kinh tế dài
hạn của các nước trên thế giới.
Thứ hai, OFDI giúp nước đầu tư sử dụng được lợi thế của nước tiếp nhận vốn
để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tỷ suất lợi nhuận, khắc phục được
tình trạng dư thừa nguồn lực. Mỗi quốc gia đều có những lợi thế và yếu thế tương đối
so với các quốc gia khác. OFDI giúp cho nước đầu tư vừa tận dụng được nguồn lực dư
thừa của nước nhận đầu tư với chi phí rẻ, vừa giải quyết được bài toán dư thừa nguồn
lực tại nước đi đầu tư. Qua đó góp phần nâng cao hiệu suất sử dụng vốn và tỷ suất lợi
nhuận.
Thứ ba, OFDI giúp nước đi đầu tư mở rộng thị trường, đồng thời khắc phục tình
trạng lão hóa sản phẩm. Điểm đến đầu tư của các nước đi đầu tư ngoài các khu vực có
nguồn lực dồi dào với chi phí nguyên vật liệu và nhân công rẻ, thì thông thường là
những khu vực có dân số đông, nhu cầu lớn, để chủ đầu tư dễ tiêu thụ sản phẩm. Mặt
khác, khi tại nước chủ đầu tư, nhu cầu đã bão hòa hoặc sức cạnh tranh nội địa mạnh, thì
OFDI là một trong những cách hữu hiệu để giải quyết bài toán thị trường. Ngoài ra, khi
thực hiện OFDI, nước chủ đầu tư có thể tận dụng để kéo dài vòng đời sản phẩm. Tại
nước đầu tư, sản phẩm có thể đã bão hòa hoặc đi vào suy thoái nhưng đối với nước
nhận đầu tư, có thể sản phẩm đó mới ở giai đoạn thâm nhập thị trường hoặc chín muồi.
Qua đó, có thể tiết kiệm được chi phí phát triển sản phẩm mới.
Thứ tư, nước chủ đầu tư có thể tìm kiếm nguồn cung cấp nhiên nguyên liệu ổn
định. Nước nhận đầu tư mà là nước đang phát triển thì thông thường có nguồn tài
nguyên thiên nhiên dồi dào, nhưng lại thiếu khả năng khai thác cũng như chế biến. Với
nước chủ đầu tư, đây là cơ hội tốt để có được nguồn nguyên nhiên liệu bằng cách đầu
tư hỗ trợ các nước nhận đầu tư khai thác bằng khả năng vượt trội về trình độ công nghệ
và kỹ thuật.
Thứ năm, nước chủ đầu tư có thể học hỏi công nghệ, thay đổi cơ cấu sản phẩm
và nâng cao năng lực cạnh tranh. Gần đây, xu hướng dòng vốn OFDI chảy từ nước đang
phát triển sang nước phát triển ngày càng rõ rệt. Trong trường hợp này, nước đầu tư là

những nước đang phát triển với trình độ công nghệ thấp hơn nhưng lại có lợi thế về chi
phí rẻ (như chi phí quản lý, lao động…), hoặc tận dụng lợi thế quyền sở hữu để đầu tư
vào các nước phát triển có trình độ công nghệ phát triển cao hơn nhằm học hỏi và tiếp
thu kiến thức về khoa học kỹ thuật ở những nước này. Qua đó có thể nâng cao trình độ
để có thể nâng cấp cơ cấu sản phẩm bằng cách sử dụng công nghệ sản xuất cao hơn. Vì
vậy, có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trong chiến lược phát triển dài hạn của mình.
+ Tác động tiêu cực
Bên cạnh tác động tích cực, hoạt động OFDI cũng có tác động tiêu cực tới nước
chủ đầu tư.
Thứ nhất, OFDI khiến nước chủ đầu tư gặp khó khăn trong việc quản lý vốn và
công nghệ. Mặc dù khi thực hiện OFDI, các doanh nghiệp từ nước đầu tư sẽ nhận được
nhiều lợi ích, song trên tầm vĩ mô, nếu kinh tế trong nước chưa phát triển mà các doanh
nghiệp có tiềm lực lại có xu hướng thực hiện OFDI nhằm vào mục đích riêng của mình
thì rõ ràng sẽ ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế của toàn bộ nước đầu tư. Do vậy,
đòi hỏi nước chủ đầu tư phải quản lý tốt nguồn vốn OFDI nhằm vừa cân đối giữa việc
phát triển kinh doanh ở nước ngoài và phát triển kinh tế trong nước. Ngoài ra, khi thực
hiện OFDI đồng nghĩa với việc mang công nghệ ra nước ngoài. Khi đó, nảy sinh rủi ro
đánh mất bản quyền công nghệ trong nước. Do đó, đòi hỏi nước đầu tư phải quản lý
công nghệ chặt chẽ.
Thứ hai, OFDI đồng nghĩa với việc nhà đầu tư phải chuyển đổi tiền đầu tư thành
tiền của nước nhận đầu tư. Rủi ro ở đây là sự thiếu ổn định của đồng tiền nước nhận
đầu tư, khi đem vốn ra nước ngoài nếu đồng tiền nước nhận đầu tư xuống giá thì sẽ là
một lợi thế cho nước đi đầu tư, còn nếu đồng tiền nước nhận đầu tư lên giá thì đó sẽ là
một thiệt hại cho các nhà đầu tư khi giá trị vốn đi đầu tư tính theo đồng tiền nước nhận
đầu tư sẽ giảm xuống. Và ngược lại khi nhà đầu tư chuyển vốn hay lợi nhuận về nước.
Thứ ba, OFDI đồng nghĩa với một dòng tiền chảy ra khỏi nước đầu tư. Như vậy,
rõ ràng cán cân thanh toán quốc tế của nước chủ đầu tư sẽ bị thâm hụt.
Thứ tư, OFDI tức là mang một phần nguồn lực trong nước ra nước ngoài. Nếu
nguồn lực đó được đầu tư trong nước thì sẽ tạo được công ăn việc làm cho người lao
động trong nước. Do vậy, khi thực hiện OFDI, cũng có nghĩa nước đầu tư chấp nhận

một phần nhất định việc làm được chuyển ra nước ngoài, và làm tăng tương đối tình
trạng thất nghiệp trong nước.
1.1.2. Quy định chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngày nay, ranh giới giữa các quốc gia không còn là rào cản đối với đầu tư và
thương mại. Các nước đều trở nên phụ thuộc lẫn nhau vì sự phát triển của chính mình.
FDI là một trong những nguồn lực lớn hỗ trợ phát triển cho nước nhận đầu tư đồng thời
nước chủ đầu tư cũng nhận được lợi ích không nhỏ từ việc đầu tư ra nước ngoài. Trong
khi các nước nhận đầu tư mong muốn thu hút thêm nhiều vốn FDI thì các nhà đầu tư lại
cần các khoản đầu tư của mình được đảm bảo. Chính vì vậy, đã có rất nhiều các quy
định chung về đầu tư nước ngoài ra đời nhằm thỏa mãn cả hai bên.
Do rất khó để có thể đưa ra được quy định chung cho nhiều bên, nên hầu hết các
quy định mang tính chất quốc tế về đầu tư nước ngoài đều là các hiệp ước song phương.
Theo như một báo cáo của Diễn đàn Liên hợp quốc về thương mại và phát triển
(UNCTAD), hiện tại có tổng số 2265 hiệp ước đầu tư song phương liên quan tới khoảng
176 nước và vùng lãnh thổ. Do nhu cầu về tự do hóa kinh tế nhằm thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, ngày càng có nhiều nước tham gia vào các hiệp ước đầu tư song phương
hơn.
Với mỗi hiệp ước đầu tư song phương, hai chủ thể của hiệp ước sẽ thống nhất
những quy định về đầu tư giữa hai bên. Do đó, có thể nói rất khó có sự trùng khớp giữa
các hiệp ước về các quy định đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, có những quy định phổ
biến và thường được đề cập đến trong các hiệp ước. Đó có thể coi là những điều kiện
tiên quyết để đi đến hiệp ước giữa hai bên được thành lập. Những điều kiện chung đó
là:
a. Đảm bảo thúc đẩy và bảo vệ hoạt động đầu tư
Đây là quy định cơ bản nhất bởi nó xuất phát từ nhu cầu cơ bản của nước nhận
đầu tư và chủ đầu tư. Nhà đầu tư cần được đảm bảo rằng các khoản đầu tư của họ sẽ
được bảo vệ một cách tuyệt đối. Nếu thiếu sự đảm này, chắc chắn chủ đầu tư sẽ không
mạo hiểm đầu tư. Nước nhận đầu tư phải đảm bảo họ không sử dụng vũ lực để làm tổn
hại tới tài sản của nhà đầu tư và cam kết bảo vệ tuyệt đối trước bất cứ một hành động
bạo lực trong nước nào. Quy định này càng trở nên quan trọng hơn tại những nước thế

giới thứ ba bởi tại những nước này, thị trường rất rộng lớn, khó quản lý, đồng thời an
ninh không ổn định.
b. Đảm bảo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia
Hiệp ước đầu tư song phương đảm bảo một nhà đầu tư nước ngoài bị đối xử không
kém ưu đãi hơn so với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài khác. Tuy
nhiên, điều này không có nghĩa là nước ký kết cho phép các nhà đầu tư được hưởng lợi
từ những ưu đãi hay đặc quyền đã được quy định trong các tập quán đang hoặc sẽ có;
các thỏa thuận quốc tế tương tự; các quy tắc quốc tế khác liên quan hoàn toàn hoặc chủ
yếu tới thuế; hoặc các quy định trong nước liên quan hoàn toàn hoặc chủ yếu tới thuế.
c. Quy định về chiếm đoạt và đền bù thiệt hại
Hiệp ước đầu tư song phương quy định rằng các khoản đầu tư của các nhà đầu tư
không bị nước ký kết quốc hữu hóa, chiếm đoạt hoặc bị chịu những hành động tương
đương với quốc hữu hóa hoặc chiếm đoạt theo luật của nước chủ đầu tư. Tuy nhiên,
hiệp ước cũng quy định trong trường hợp vì mục đích công như an ninh quốc phòng…,
nước nhận đầu tư có thể quốc hữu hóa hoặc chiếm đoạt tài sản của nhà đầu tư nước
ngoài nhưng phải đền bù cho nhà đầu tư nước ngoài dựa trên nguyên tắc không phân
biệt đối xử, đúng với giá trị của khoản đầu tư mà không có bất cứ sự chậm trễ bất hợp
lý nào. Giá trị của khoản đầu tư phải được định giá một cách công bằng bởi tòa án hoặc
một cơ quan độc lập có thẩm quyền trong một khoảng thời gian hợp lý.
Trong trường hợp tài sản của nhà đầu tư vô tình bị thiệt hại do chiến tranh hoặc
bạo loạn, nước nhận đầu tư phải có trách nhiệm bồi thường theo nguyên tắc không phân
biệt đối xử.
d. Quy định về việc chuyển vốn đầu tư và lợi nhuận về nước
Đầu tư nước ngoài luôn luôn đi kèm với việc chuyển vốn đầu tư và lợi nhuận về
nước. Bất cứ một điều luật hay hành động nào ngăn cản nhà đầu tư chuyển vốn và lợi
nhuận về nước đều có tác động tiêu cực tới hiệu quả hoạt động đầu tư và thu hút đầu tư.
Trong các hiệp định đầu tư song phương thường cho phép nhà đầu tư chuyển không
giới hạn vốn và lợi nhuận về nước bằng đồng tiền tự do chuyển đối và ở tỷ giá hối đoái
tại ngày chuyển.
e. Quy định về giải quyết tranh chấp giữa chủ đầu tư và nước nhận đầu tư

Trong kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng thì tranh chấp là điều
không thể tránh khỏi. Đặc biệt là trong đầu tư nước ngoài, khi các bên đến từ các nền
văn hóa, tập quán, hệ thống luật pháp khác nhau, ắt sẽ có rất nhiều hiểu lầm dẫn đến
tranh chấp. Chính vì vậy, ngay từ 14/10/1966 hiệp ước về giải quyết tranh chấp đầu tư
giữa các nước đã được thiết lập. Theo như hiệp ước này, một trung tâm trọng tài quốc tế
để giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế đã được thành lập để hòa giải và giải quyết các
vụ tranh chấp giữa các nước ký kết.
Việc thực hiện giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả và công tâm bằng một tòa
án độc lập và trung lập làm an tâm nhà đầu tư. Nhà đầu tư có thể tiếp cận tòa án này mà
không gặp bất cứ một trở ngại chính trị nào. Với một tòa án trung lập, việc xét xử sẽ
nhanh chóng hơn và giúp nhà đầu tư tiết kiệm được nhiều thời gian hơn.
1.1.3. Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tùy theo từng tiêu chí khác nhau mà có thể phân loại FDI thành những hình thức
khác nhau. Thông thường ta chia theo bốn tiêu chí sau:
a. Theo hình thức xâm nhập
Theo tiêu chí này FDI được chia thành hai hình thức:
+ Đầu tư mới: chủ đầu tư nước ngoài góp vốn để xây dựng một cơ sở sản xuất,
kinh doanh mới tại nước nhận đầu tư. Hình thức này có khả năng tăng thêm vốn, tạo
thêm việc làm và giá trị gia tăng cho nước nhận đầu tư nên rất được các nước nhận đầu
tư ưa chuộng.
+ Mua lại và sát nhập: Chủ đầu tư nước ngoài mua lại hoặc sát nhập một cơ sở
sản xuất kinh doanh sẵn có ở nước nhận đầu tư. Theo Luật Đầu tư 2005 được Quốc hội
Việt Nam thông qua tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2005,
“Sáp nhập (merge) doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập; Mua lại (acquisition)
doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh
nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp
bị mua lại”. FDI chủ yếu diễn ra dưới hình thức mua lại. M&A được nhiều chủ đầu tư
ưa chuộng hơn hình thức đầu tư mới vì chi phí đầu tư thường thấp hơn và cho phép chủ

đầu tư tiếp cận thị trường nhanh hơn.
b. Theo quan hệ về ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối tượng tiếp nhận đầu tư
Theo tiêu chí này FDI được chia thành 3 hình thức:
+ FDI theo chiều dọc (vertical FDI): nhằm khai thác tài nguyên, nhiên vật liệu
(Backward vertical FDI) hoặc để gần gũi người tiêu dùng hơn thông qua việc mua lại
các kênh phân phối của các nước nhận đầu tư (Forward vertical FDI). Như vậy doanh
nghiệp chủ đầu tư và doanh nghiệp nhận đầu tư nằm trong cùng một dây chuyền sản
xuất và phân phối sản phẩm cuối cùng.
+ FDI theo chiều ngang (horizontal FDI): hoạt động FDI được tiến hành nhằm
tiến hành sản xuất cùng loại sản phẩm hoặc các sản phẩm tương tự chủ đầu tư đã sản
xuất ở nước chủ đầu tư. Như vậy, yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của hình
thức FDI này chính là sự khác biệt của sản phẩm. Thông thường FDI theo chiều ngang
được tiến hành nhằm tận dụng các lợi thế độc quyền hoặc độc quyền nhóm, đặc biệt là
khi việc phát triển ở thị trường trong nước vi phạm luật chống độc quyền.
+ FDI hỗn hợp (conglomerate FDI): doanh nghiệp chủ đầu tư và doanh nghiệp
tiếp nhận đầu tư hoạt động trong các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.
c. Theo định hướng của nước nhận đầu tư
Theo tiêu chí này FDI được chia thành 3 hình thức:
+ FDI thay thế nhập khẩu: hoạt động FDI được tiến hành nhằm sản xuất và cung
ứng cho thị trường nước nhận đầu tư các sản phẩm mà trước đây nước này phải nhập
khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng nhiều đến hình thức FDI này là dung lượng thị trường, các
rào cản thương mại của các nước nhận đầu tư và chi phí vận tải;
+ FDI tăng cường xuất khẩu: thị trường mà hoạt động đầu tư này nhắm tới
không phải chỉ dừng lại ở các nước nhận đầu tư mà là các thị trường rộng lớn hơn trên
toàn thế giới và có thể có cả thị trường ở nước chủ đầu tư. Các yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến dòng vốn FDI theo hình thức này là khả năng cung ứng các yếu tố đầu vào
với giá rẻ của các nước nhận đầu tư như nguyên vật liệu, bán thành phẩm.
+ FDI theo định hướng khác của chính phủ: chính phủ các nước nhận đầu tư có
thể áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư để điều chỉnh dòng vốn FDI chảy vào
nước mình theo đúng ý đồ của mình, ví dụ như tăng cường thu hút FDI để giải quyết

tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán.
d. Theo nhân tố bị tác động trong quá trình đầu tư
Theo hình thức này FDI được chia thành 2 hình thức:
+ FDI phát triển (expansionary FDI): nhằm khai thác lợi thế về quyền sở hữu của
doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư. Hình thức này giúp chủ đầu tư tăng lợi nhuận bằng
cách tăng doanh thu nhờ mở rộng thị trường ra nước ngoài.

×