Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tiểu thuyết tâm lí của virginia woodf những cách tân thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ngọc

TIỂU THUYẾT TÂM LÍ CỦA VIRGINIA WOOLF
NHỮNG CÁCH TÂN VỀ THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ngọc

TIỂU THUYẾT TÂM LÍ CỦA VIRGINIA WOOLF
NHỮNG CÁCH TÂN VỀ THỂ LOẠI
Chuyên ngành : Văn học nước ngồi
Mã ngành

: 8220242

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS NGUYỄN HỮU HIẾU



Thành phố Hồ Chí Minh - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá
nhân tơi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được cơng bố ở các cơng trình khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 7 năm 2020
Người viết luận văn

Nguyễn Thị Ngọc


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Giảng viên hướng dẫn, PGS.TS Nguyễn Hữu Hiếu
Quý thầy cô công tác tại khoa Ngữ Văn, khoa Sau Đại
học, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Gia đình và bạn bè
đã ủng hộ và tận tình giúp đỡ tơi trong q trình học tập và hồn
\

thành luận văn tốt nghiệp này.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 7 năm 2020
Người viết luận văn

Nguyễn Thị Ngọc



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1.

V. WOOLF TRONG DỊNG CHẢY TIỂU THUYẾT
TÂM LÍ HIỆN ĐẠI ................................................................. 16

1.1. Chủ nghĩa hiện đại trong văn học phương Tây đầu thế kỷ XX............ 16
1.1.1. Bối cảnh xã hội-thời đại ................................................................ 16
1.1.2. Sự ra đời của chủ nghĩa hiện đại trong văn học ............................ 19
1.2. Tiểu thuyết tâm lý hiện đại phương Tây đầu thế kỷ XX ...................... 22
1.2.1. Khái lược về tiểu thuyết tâm lí ...................................................... 22
1.2.2. Nguồn gốc, quá trình hình thành của tiểu thuyết tâm lý ............... 24
1.2.3. Woolf và quá trình cách tân tiểu thuyết tâm lý ............................. 27
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 36
Chương 2.

TIỂU THUYẾT VIRGINIA WOOLF VÀ HÌNH
TƯỢNG NHÂN VẬT.............................................................. 37

2.1. Khái lược về hình tượng nhân vật ........................................................ 37
2.2. Các kiểu nhân vật và sự của Virginia Woolf........................................ 39
2.2.1. Nhân vật chiêm nghiệm ................................................................. 39
2.2.2. Nhân vật nổi loạn........................................................................... 60
2.2.3. Nhân vật mang tiếng nói nữ quyền................................................ 73

Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 80
Chương 3.

TIỂU THUYẾT VIRGINIA VÀ SỰ TỔ CHỨC
KHÔNG - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT .............................. 81

3.1. Khái lược về không - thời gian nghệ thuật ........................................... 81


3.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết tâm lý của Virginia
Woolf ........................................................................................................... 83
3.2.1. Không gian địa lý .......................................................................... 83
3.2.2. Không gian tâm lý ......................................................................... 89
3.3. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết tâm lý của Virginia Woolf ...... 96
3.3.1. Thời gian vật lý .............................................................................. 96
3.3.2. Thời gian tâm lý............................................................................. 99
Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 107
KẾT LUẬN................................................................................................... 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 111


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiểu thuyết tâm lí được xem là một bước tiến quan trọng của thể loại và
tư duy tiểu thuyết, một đỉnh cao của nghệ thuật tiểu thuyết thế giới. Manh nha
từ trong những sáng tác của W. Shakespeare (thế kỷ XVI), phát triển mạnh
gắn liền với các sáng tác của Fyodo Dostoyevsky, Lep Tolstoy hay Stendhal,
những nhà văn nổi tiếng nhất của chủ nghĩa hiện thực (thế kỷ XIX), nhưng

phải đến thế kỷ XX, tiểu thuyết tâm lí mới phát triển lên đỉnh cao và phát huy
hết được tiềm năng của nó.
Trào lưu hiện đại chủ nghĩa (modernism) xuất hiện từ cuối thế kỉ XIX và
phát triển mạnh vào đầu thế kỷ XX đã được coi là một cuộc cách mạng trong
văn học nghệ thuật, trong đó có một số hiện tượng văn học thường được gọi
là “phong trào nghệ thuật tiên phong của thế kỷ XX” (như chủ nghĩa đa-đa,
chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa ấn tượng…). Nổi bật lên như một trong những
tên tuổi hàng đầu và là một trong những người sáng lập nên trào lưu hiện đại
chủ nghĩa cùng T.S. Eliot, Ezra Pound, Marcel Proust, James Joyce và
Gertrude Stein, Virginia Woolf đã trở thành một trong những tác giả vĩ đại
nhất của thế kỷ XX, là nhân vật chủ chốt trong lịch sử văn chương Anh ngữ.
Malcolm Bradburry đã đánh giá Căn Phòng của Jacob của Woolf
cùng Ulysses của James Joyce và Đất Hoang của T.S Eliot làm nên một
tam vị tác phẩm đánh dấu bước ngoặt quan trọng nhất của phong trào văn học
hiện đại.
Ở Việt Nam, việc dịch và nghiên cứu V. Woolf cũng như tác phẩm của
bà cịn hết sức mới mẻ nhưng trên thế giới thì đã vô cùng phổ biến. Tên tuổi
của bà đã phủ bóng xuống văn đàn thế giới trong thế kỷ XX. Cuộc đời và
những cống hiến nghệ thuật của Woolf đã trở thành đề tài lớn cho nhiều đầu
sách, nhiều công trình nghiên cứu. Bộ mơn văn học Anh của nhiều trường đại
học danh tiếng đều dành những học phần quan trọng để nghiên cứu về tác


2
phẩm của bà. Tác phẩm của Woolf được tái bản và dịch ra nhiều thứ tiếng.
Nghiên cứu về Woolf và sáng tác của bà chính là một hướng đi đúng đắn để
tiếp cận nền văn học hiện đại của thế giới một cách đầy đủ, hiệu quả. Từ đó
thu nhận được những chỉ dẫn quý báu trong việc tiếp cận, lĩnh hội những
thành tựu văn học hiện đại, đương đại.
Trong nước đã có một số bài tiểu luận, một số luận văn nghiên cứu về

Woolf nhưng mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh như chủ nghĩa nữ quyền,
kỹ thuật dịng ý thức,… mà chưa có một cơng trình chun biệt, có tính tổng
hợp, khái qt về tác phẩm của bà.
Qua q trình tìm hiểu chúng tơi nhận thấy tiểu thuyết của Virginia
Woolf chính là sự kế thừa và tiếp tục thành tựu của tiểu thuyết tâm lí thế kỉ
XIX. Virginia Woolf cùng các nhà văn tiên phong của chủ nghĩa hiện đại đã
đưa thể loại này phát triển lên một tầm cao mới với những cách tân rõ rệt về
thể loại. Woolf đã in đậm trong nền văn học hiện đại một phương thức biểu
đạt mới với thế giới quan riêng biệt, độc đáo của mình.
Vì những lí do kể trên, chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu về Woolf
với đề tài “Tiểu thuyết tâm lí của Virginia Woolf, những cách tân về thể loại”
mong đóng góp một cái nhìn hồn chỉnh hơn về tên tuổi lừng danh của văn
đàn thế giới trong thế kỉ XX này
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Về đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung làm rõ những cách tân về thể loại tiểu thuyết tâm lí
qua sáng tác của V. Woolf. Đó là những đổi mới, khác biệt trong tiểu thuyết
tâm lí của Virginia Woolf so với tiểu thuyết tâm lí truyền thống thế kỉ XIX.
Chúng tơi sẽ đi sâu đánh giá nguyên do, biểu hiện, những đột phá về nội
dung, tư tưởng trong tiểu thuyết tâm lí của Woolf so với giai đoạn trước đó.
Đồng thời chúng tơi cũng muốn tìm hiểu vị trí sáng tác của V.Woolf đối với
văn học phương Tây cũng như văn học thế giới thế kỷ XX.


3
b. Về phạm vi nghiên cứu
Dù cuộc đời ngắn ngủi và phải thường xuyên chiến đấu với căn bệnh
thần kinh, Woolf vẫn để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ: 8 tiểu thuyết, 6
tập truyện ngắn, 1 vở kịch, ba tập tiểu sử (Orlando,1928 còn được xem như
một tiểu thuyết), 3 cơng trình dịch về các nhà văn Nga, nhiều tập tiểu luận,

luận văn, du kí, giới thiệu tác gia văn học, thư từ, nhật kí,… V. Woolf khơng
chỉ là một nhà tiểu thuyết lừng danh, bà con là một nhà lý luận - phê bình tiêu
biểu của thế kỉ XX.
Nhưng với phạm vi đề tài, chúng tôi chọn nghiên cứu, khảo sát hai tiểu
thuyết và một tập luận văn của bà. Đó là
Đến ngọn hải đăng (To the lighthouse),1927: Nguyễn Vân Hà dịch, Nxb
Văn học, năm 2016.
Bà Daloway (Mrs Daloway),1925: Nguyễn Thành Nhân dịch, Nxb Tổng
hợp TP Hồ Chí Minh, năm 2016.
Căn phịng riêng(A room of One’s Own), 1929: Trịnh Y Thư dịch, Nxb
Tri thức, năm 2008.
Trong quá trình thực hiện có mở rộng so sánh, đối chiếu với một số tác
phẩm của Stendhal, James Joyce và của chính V. Woolf để làm rõ những
khám phá của mình.
3. Lịch sử vấn đề
Ngay từ tác phẩm đầu tiên The Voyage Out (Du hành ra ngoài, 1915),
Woolf đã bước đầu khẳng định được tên tuổi của mình. Từ đó cũng mở ra sự
nghiệp văn chương rực rỡ của bà. Bà trở thành một trong những cây bút tiên
phong, thành viên sáng lập ra trào lưu hiện đại chủ nghĩa, có tầm ảnh hưởng
sâu rộng đến văn chương, nghệ thuật của Anh quốc cũng như thế giới.
Sau Thế chiến thứ hai, sự chú ý đối với các tác phẩm của bà giảm đi
nhiều, nhưng từ đầu thập niên 1970 cho tới nay, do sự phát triển mạnh mẽ của


4
chủ nghĩa nữ quyền ở phương Tây, ngày càng có nhiều cơng trình nghiên cứu
về tác phẩm cũng như bản thân cuộc sống sáng tác và hoạt động của bà.
Cuộc đời và sự nghiệp phong phú, phức tạp của Virginia Woolf đã
được nghiên cứu sâu rộng bởi hàng chục tác giả, hàng chục diễn đàn khác
nhau dưới hình thức các tác phẩm tiểu sử và phân tích phê bình.

a. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc dịch và nghiên cứu tác phẩm của V.Woolf còn là một
lĩnh vực khá mới mẻ. Việc dịch tác phẩm của Woolf phần lớn đến từ tâm
huyết và nỗ lực của những dịch giả say mê văn chương đẹp đẽ, cao nhã và
độc đáo của bà. Và thứ văn chương đẹp đẽ, lôi cuốn ấy đã ngày càng thu hút
sự quan tâm, chú ý, tìm hiểu của độc giả cũng như giới phê bình - nghiên cứu.
Qua q trình khảo sát, chúng tơi đã tìm được rất nhiều những bài viết,
báo cáo khoa học, cơng trình nghiên cứu về Woolf và tác phẩm của nữ nhà
văn. Trong phạm vi đề tài, dù không trực tiếp đề cập đến những cách tân tiểu
thuyết tâm lí của Woolf nhưng có những biểu hiện nội hàm của phạm trù này,
chúng tôi quan tâm, ghi nhận các bài viết, công trình sau:
Trong cuốn Lịch sử văn học Anh, tác giả Nguyễn Thành Thống đã có
bài giới thiệu về Virginia Woolf, trong đó nhấn mạnh tính độc đáo trong sáng
tác của bà, đặt bà bên cạnh Herry James và Proust về khả năng tinh tế trong
phân tích tâm lý. Ơng cũng đánh giá tiểu thuyết của Woolf “đảo lộn những
truyền thống của tiểu thuyết” (Nguyễn Thành Thống, 1997, tr 456), tôn bà là
“khéo léo bậc thầy trong kỹ thuật stream of consciousness. Tất cả những gì
diễn ra trong tâm hồn nhân vật của bà đều được thuật lại một cách trung thực
- những cảm giác, những ý tưởng, những ấn tượng chóng qua” (Nguyễn
Thành Thống, 1997, tr 456). Thơng qua thế giới nội tâm nhân vật, Woolf đã
thể hiện sâu sắc thế giới khách quan. Bà lên án các tiểu thuyết gia theo thời,
chỉ biết tả bộ mặt bề ngoài của sự thật. Nhà nghiên cứu cũng cho rằng lý
tưởng sáng tác mà Woolf theo đuổi cũng sánh ngang với lý tưởng của Herry


5
James và James Joyce đó là đeo đuổi - diễn tả điều khơng ổn định, thống qua
trong từng giây phút cuộc đời.
Trong cuốn 100 nhà lý luận phê bình Văn học thế kỷ XX, Nguyễn Thị
Khánh đánh giá cao khả năng đồng cảm, gợi cảm của văn chương Woolf,

Woolf rất đề cao cảm xúc về hiện thực của nghệ sĩ vì bà cho rằng cảm xúc
này sẽ động chạm đến bất kỳ cái gì, giúp người đọc nhìn ra cái mà nghệ sĩ đã
nhìn thấy. Nhà nghiên cứu cũng cho rằng Woolf là nhà văn, nhà lý luận phê
bình dẫn đầu của trường phái nữ quyền của Anh thế kỷ XX. Woolf là cây bút
xuất sắc viết về phụ nữ, bảo vệ phụ nữ, khơi phục, đánh giá lại, khích lệ và
phát hiện những tài năng văn học nữ. Nguyễn Thị Khánh cũng đánh giá cao
cơng trình phê bình của Woolf “Có khi một cơng trình phê bình trở thành
một tác phẩm nghệ thuật về một tác phẩm nghệ thuật khác - điều này không
xảy ra thường xuyên và không thể có được ở các cây bút kém tài năng hơn
Virginia Woolf” (Nguyễn Thị Khánh, 2002, tr.76).
Nguyễn Tri Nguyên trong cuốn 100 nhà văn thế giới thế kỷ XX, đã nhận
xét những điểm mới trong kỹ thuật kể chuyện của V. Woolf. Ông nhận ra tiểu
thuyết của Woolf đã “bỏ đi những hành động theo thời gian một cách liên
tục…tập trung miêu tả những suy nghĩ nội tâm và cảm giác” (Nguyễn Tri
Nguyên, 2006, tr 347). Nhà nghiên cứu cho rằng Woolf đã “chịu ảnh hưởng
của kỹ thuật dòng ý thức của James Joyce”. (Nguyễn Tri Nguyên, 2006,
tr.347). Thông qua thế giới nội tâm nhân vật, bà đã thể hiện sâu sắc hiện thực
khách quan. Ông cho rằng Woolf nổi tiếng là chiến sĩ tiên phong trong văn
học cho phong trào địi quyền bình đẳng của phụ nữ.
Trong điểm sách: “Bà Dalloway”- một London của nữ giới, Zet
Nguyễn chỉ rõ V.Woolf từng tham vọng muốn ném bỏ những tuýp người điển
hình của chủ nghĩa hiện thực thế kỷ thứ 19, nơi ngoại hình tới nơi ở đều được
miêu tả chi tiết nhưng riêng tâm trí hay ý thức thì lại bỏ mặc, Woolf, cùng
nhiều nhà văn khác như James Joyce, Marcel Proust, William Faulkner, chủ


6
trương tạo ra một cuộc cách mạng văn chương, một “cuộc xoay chuyển vào
bên trong” nơi những suy nghĩ và hồi ức của nhân vật được đặt lên hàng đầu.
“Người đọc khơng cịn tiếp xúc với một hiện thực như là nó vốn có, mà là liên

tiếp những sóng suy nghĩ tràn qua tâm trí nhân vật, nơi tất cả sự ổn định và
duy nhất về không gian cũng như thời gian đều bị phá vỡ” (Zet Nguyễn,
2016). Bà Dalloway của Virginia Woolf là một minh chứng cho lối viết trên.
Trong buổi ra mắt sách của hai tác giả khủng nền văn học Anh
(tuoitre.vn) nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã đánh giá Woolf là người nắn lại
hình dáng văn học Anh từ khi bà xuất hiện. Ông cho rằng văn của Woolf rất
giàu chất thơ, rất cẩn trọng trong câu chữ. Ơng nói về Woolf một cách rất hình
ảnh, coi bà là một chiều cao khác, ông nhắc lại quan niệm "văn chương trán
cao" để chỉ các tác phẩm trí tuệ với sự đào sâu về bút pháp và chuyển tải tư
tưởng cao cả của Woolf. Ơng lấy ví dụ tiểu thuyết Căn phịng của Jacob,
“Virginia Woolf khơng quan tâm đến chi tiết bên ngoài mà tập trung vào tâm
hồn nhân vật: đang chuyển biến, đang dâng trào như thế nào, kể cả tâm hồn
đang có màu gì” (Dẫn theo Lam Điền, 2016, tr.2). Và những cái nhìn về nhân
vật cũng chỉ được kể qua độc thoại nội tâm - thủ pháp quan trọng của Virginia
Woolf. Trên cơ sở đó, Nhật Chiêu cho rằng Virginia Woolf có ảnh hưởng đến
những nhà văn lớn của văn học Anh. Bởi kể từ đó, những quan niệm sáng tác về
dịng ý thức, khai thác chiều sâu nội tâm... mới thấy phảng phất trong các tác giả
chịu ảnh hưởng của Virginia Woolf.
Trong báo cáo khoa học Phong cách nữ quyền và vấn đề câu mang đặc
trưng giới tính đăng trên Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh, Nguyễn Thế Truyền lấy văn chương của Woolf làm đối tượng
khảo sát chính và chứng minh cho luận điểm của mình. Xuất phát từ những
quan điểm của Woolf trong tập tiểu luận Women and fiction, Nguyễn Thế
Truyền đã chỉ ra rằng trong các tiểu thuyết của mình, Woolf chủ ý “xác lập nữ
quyền qua việc khẳng định có một loại câu mà các nhà văn nữ thường sử


7
dụng mà bà gọi là câu của nữ giới (female sentence) hoặc là câu của giới tính
nữ (sen - tence of the feminine gender)” (Nguyễn Thế Truyền, 2018, tr.6). Vì

thế, theo Woolf, phụ nữ cần thiết phải sáng chế ra một loại ngơn ngữ của
chính họ. Woolf cũng có ý cho rằng đàn ông viết với một cách thức trịnh
trọng hơn phụ nữ, dùng hình thức danh hóa nhiều hơn các động từ và tính từ.
Các nhà nữ quyền Pháp cho rằng câu của nữ giới mang tính chủ quan và
khơng có hình thù rõ rệt. Như vậy, Woolf và các nhà nữ quyền Pháp đã bắt
đầu với quan điểm rằng cách viết của nữ giới có sự khác biệt cơ bản với cách
viết của nam giới về nội dung và cấu trúc ngơn ngữ.
Về luận văn, luận án thì những cơng trình nghiên cứu về Woolf cịn khá
khiêm tốn. Chúng tơi mới tìm hiểu được Luận văn thạc sĩ của Dương Thị
Phương Hiền, Đại học KHXHNV-ĐH Quốc gia Hà Nội, năm 2013 với đề tài
Nữ quyền trong Tới ngọn hải đăng của Virginia Woolf do PGS.TS Đào Duy
Hiệp hướng dẫn. Trong luận văn, tác giả đã chứng minh vấn đề nữ quyền qua
các khía cạnh giới tính, qua dịng ý thức và các ẩn dụ.
Trong lời giới thiệu cho các tác phẩm của Woolf, các dịch giả cũng có
những lời giới thiệu sơ nét về đặc trưng phong cách của nữ nhà văn. Trong lời
giới thiệu cuốn Căn phòng riêng, Trần Ngọc Hiếu đã xem đây là cuốn sách
đầu tiên đặt nền móng cho trường phái phê bình nữ quyền luận trong văn học.
Trần Ngọc Hiếu cũng cho rằng V.Wollf khơng chỉ táo bạo trong tư tưởng mà
cịn hết sức phóng khống, tự do trong bút pháp khi làm mờ đi ranh giới giữa
tiểu luận và hư cấu, giữa triết lý và tự sự, với một thế giới nghệ thuật phức
tạp và nhiều bí ẩn. Virginia Woolf được xem là “một trong những tượng đài
kỳ vĩ của văn học hiện đại chủ nghĩa” (Trần Ngọc Hiếu, 2008, tr.8). Trong
tiểu thuyết Tới ngọn hải đăng, dịch giả Nguyễn Vân Hà nhận xét mỗi tác
phẩm của Woolf luôn mở cho chị một chân trời mới. Văn Woolf như sóng
biển lúc ào ạt, dữ dội, lúc yên ả, dịu êm… Bà lại sử dụng kỹ thuật dòng ý thức
nên suy nghĩ trải ra miên man vô tận, trùng trùng điệp điệp. Nguyễn Thành


8
Nhân trong khi giới thiệu tiểu thuyết Bà Dalloway cũng thừa nhận thủ pháp

dòng ý thức được sử dụng trong tác phẩm với ý nghĩ, hành động của nhân vật
đan xen như tơ nhện từ quá khứ sáng hiện tại với rất nhiều ẩn dụ. Nhân vật
của tác phẩm thể hiện được sự mn màu mn vẻ của tính cách con người
đã góp phần vào bức tranh tổng thể làm nên thành cơng cho tác phẩm.
Ngồi ra Woolf và tác phẩm của bà ln có mặt trong các nghiên cứu
về văn học phương Tây của những nhà nghiên cứu uy tín như Xác và hồn của
tiểu thuyết, 2007 của Hồi Anh, Lí thuyết văn học hậu hiện đại của Phương
Lựu, Văn học hậu hiện đại thế giới-những vấn đề lý thuyết của Đào Tuấn Ảnh
sưu tầm và biên soạn.
b. Ở nước ngoài
Ở nước ngoài, tên tuổi của Woolf từ lâu đã nhận được sự quan tâm, chú
ý rộng rãi của giới phê bình, nghiên cứu. Virginia Wollf ln được xem là
một tượng đài kì vĩ của văn học hiện đại chủ nghĩa. Hầu như các bài viết đều
thống nhất ở chỗ thừa nhận Virginia Woolf cùng các nhà văn hiện đại chủ
nghĩa tiếp tục dịng mạch tiểu thuyết tâm lí của thế kỉ XIX với những cách tân
mạnh mẽ.
Trong cuốn Thinking Back Through our Mothers: Virginia Woolf

Reads Shakespeare (Hồi ức về những người mẹ: Virginia Woolf đọc
Shakespeare), Beth C. Schwartz cho rằng người mẹ chính là một “nàng
thơ” đặc biệt cho các cây bút nữ. Việc nghĩ lại về những người mẹ đã
đem lại một kho ký ức, một ngọn nguồn cảm hứng, một cốt lõi thôi thúc
sáng tạo cho thơ ca cũng như cho các nhà văn nữ.
Trong chương Sáu của cuốn A Reader's Guide to contemporary literary
theory (Một hướng dẫn lí thuyết của văn học đương đại), Raman Seldon đánh
giá Woolf là một đại diện tiêu biểu cho nhà văn nữ và phê bình nữ quyền.


9
Trong cuốn Lịch sử văn học Anh quốc, của Michael Alexander do Cao

Hùng Lynh dịch, tác giả Michael đã xếp Woolf bên cạnh James Joyce,
T.S.Eliot và gọi họ là ngọn sóng mới trong văn chương Anh Quốc, nhận xét
họ mang bút pháp hiện đại và tác phẩm của họ có hình thức khác so với tiểu
thuyết và những bài thơ trước đó, cho rằng một cách đầy tham vọng, họ đã
tuyệt giao với các quy ước chính thống đang thịnh hành. Michael cũng trích
dẫn ý kiến của Woolf “Chúng tơi muốn vứt bỏ chủ nghĩa hiện thực, để xâm
nhập vào những khu vực bên dưới nó mà khơng cần sự giúp đỡ của nó” (We
want to be rid realism, to penetrate without its help into the regions beneath
it). (Dẫn theo Michael Alexander, 2006, tr.498). Bà muốn tìm những ấn tượng
cao nhã, đẹp đẽ của thế giới phụ nữ, của đời sống nội trợ, của nội tâm. Tiểu
thuyết của Woolf thường lờ đi thực tại xã hội bên ngoài, trừ phi thực tại ấy
thiết lập những hiện tượng liên quan đến ý thức cá nhân.
Nicholas Parker coi V. Woolf là một trong những nhà văn nổi tiếng
nhất và ưu việt nhất của trào lưu văn học hiện đại. Các sáng tác của bà đã tạo
ra một sự tác động lâu dài đến tiểu thuyết cũng như phong trào nữ quyền thề
kỷ XX. Phong cách trữ tình, dịng ý thức của Woolf đã tạo nên vẻ đáng yêu và
chất trí tuệ cho văn xuôi của bà. Mrs Dalloway tiêu biểu cho phong cách của
Woolf với một dịng tâm trí nhảy từ hiện tại đến quá khứ, từ suy nghĩ của
nhân vật này sang suy nghĩ của nhân vật khác để tạo ra bức chân dung phong
phú về nhân vật trung tâm cũng như bối cảnh xã hội nước Anh sau Thế chiến
thứ nhất. To the Lighthouse diễn ra gần như bên trong tâm trí của các nhân vật
với nhiều góc nhìn và nhận thức để cung cấp một cái nhìn tồn cảnh về xã hội
cũng như hiểu sâu sắc về tính cách của các nhân vật. A Room of One’ Own là
một cuộc khám phá về vai trò của phụ nữ trong tiểu thuyết với tư cách là tác
giả và nhân vật (Nicholas Parker, 2017).
Nói đến tiểu thuyết tâm lí của Virginia Woolf là nói đến một dịng chảy
kinh nghiệm liên tục đã thành thương hiệu của riêng bà. Trong tiểu luận Tiểu


10

thuyết tâm lí và tiểu thuyết gia (Psychological novels and novelists) Nasrullah
Mambrol đã cho rằng “Richardson đã mang đến cho tiểu thuyết tiếng Anh kỹ
thuật dòng ý thức mà học viên chính là Virginia Woolf, James Joyce và
William Faulkner” (Richardson brought to the English novel the technique of
stream of consciousness, whose major practitioners where Virginia Woolf,
James Joyce and William Faulkner) (Nasrullah Mambrol, 2019). Theo
Mambrol, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Woolf sử dụng kỹ thuật dòng ý thức
là Căn phòng của Jacob (1922) đến Bà Dalloway (1925) thì kỹ thuật này
đạt đến mức hồn chỉnh với một dịng ký ức triền miên và hầu như khơng có
cốt truyện.
V. Woolf được xem là tiểu thuyết gia nổi tiếng nhất trong kỹ thuật kể
chuyện dòng ý thức. Bouzid nhận xét về bút pháp của Woolf: dòng ý thức là
một kỹ thuật kể chuyện mà rất nhiều nhà văn đưa ra quan điểm của họ cho dù
họ là nhà tiểu luận, tiểu thuyết gia, nhưng nổi tiếng nhất là Virginia Woolf,
người được coi là tiền thân của phong cách viết này. Nỗi lo sợ bị quên lãng đã
tạo động lực để Woolf có những tìm tịi, thể nghiệm nâng cao trình độ viết
văn. Bà đã phát triển dòng ý thức trong các tác phẩm của mình. Bà tập trung
vào việc sử dụng suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác của mình thơng qua các nhân
vật. Tiểu thuyết của bà dựa trên việc thăm dò ý thức của con người, những
cảm xúc, suy nghĩ mơ hồ thống qua trong tâm trí. Đó là một kỹ thuật mang
tính cách mạng, khó xử lý nhưng trong tiểu thuyết của mình, Woolf đã sử
dụng nó một cách thành công và điêu luyện.
Elaine Showalter, giáo sư Nhân văn tại đại học Princeton, đã nhận xét
về Woolf: “Woolf đã sử dụng nhân vật Clarissa để khám phá tác động của sự
thay đổi văn hóa, từ các cơng nghệ mới của ô tô, máy bay và phim ảnh, đến
sự cởi mở của các mối quan hệ hơn nhân và tình dục” (Elaine Showalter,
2016). Bà cũng cho rằng Woolf đã sử dụng dịng ý thức để đi vào tâm trí nhân
vật để có sự miêu tả tinh tế, nghệ thuật và sâu sắc hơn.



11
Trên trang Nghiên cứu ngôn ngữ và văn học Anh, Nataliya Gudz cho
rằng Woolf đã đòi hỏi một cuộc cách mạng về kỹ thuật văn học trong tất cả
các mặt tính cách, ngơn ngữ, cốt truyện và cấu trúc. Tính cách khơng thể biểu
hiện bằng các mơ tả bên ngồi, ngôn ngữ phải truyền đạt được nhiều mức độ
cảm xúc và nhận thức, cả ý thức lẫn vô thức, cần phải loại bỏ cốt truyện.
“Điều duy nhất quan trọng là đời sống nội tâm” (Nataliya Gudz, 2006).
Trong kỷ yếu của Hội thảo Tiểu thuyết Anh Quốc METU lần thứ năm
(năm 2003), Nadja Heinz đã nghiên cứu về Woolf và rút ra nhận định:
Virginia Woolf đã giúp thiết lập xu hướng cho tiểu thuyết tâm lý học hiện đại
và bà tiếp tục phát triển kỹ thuật dòng ý thức. Bà xây dựng những câu chuyện
ngắn của mình chủ yếu dựa trên các q trình và ấn tượng tinh thần, thường
được kích hoạt bởi cảnh trước mắt. Bên cạnh sự đánh giá cao những niềm vui
và nỗi đau hàng ngày, bà cũng rất quan tâm đến các chi tiết của kinh nghiệm
con người.
Không thể kể hết những đầu sách, trang học thuật, những bách khoa toàn
thư của những trường đại học danh tiếng trên thế giới nghiên cứu về Woolf…
Các tài liệu gần như thống nhất ở chỗ thừa nhận Woolf là một đại biểu xuất
sắc của văn học hiện đại chủ nghĩa thời kì đầu, tiểu thuyết của bà mang đặc
trưng và là đỉnh cao của tiểu thuyết tâm lí hiện đại.
Qua tìm hiểu, chúng tơi nhận thấy rằng, vấn đề Virginia Woolf và tiểu
thuyết tâm lí của bà được nghiên cứu một cách tương đối khái quát và hệ
thống hơn bởi các học giả phương Tây. Trong khi đó, các cơng trình trong
nước thường tập trung nghiên cứu chủ nghĩa nữ quyền hoặc kỹ thuật dòng ý
thức ở phạm vi bề mặt. Dù không trực tiếp đề cập đến những cách tân tiểu
thuyết tâm lí của Woolf song nhìn chung, các nhà nghiên cứu Việt Nam và
thế giới đã ít nhiều làm rõ được một số phương diện về cuộc đời, sự nghiệp,
phong cách và tiểu thuyết tâm lý của Woolf. Những cơng trình này chính là



12
nguồn tài liệu tham khảo bổ ích, gợi mở nhiều vấn đề giúp chúng tơi thực
hiện đề tài của mình.
4 . Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi vận dụng tổng hợp các phương pháp sau:
phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp lịch sử - văn hóa, phương
pháp thi pháp học làm chủ đạo.
Phương pháp so sánh - đối chiếu được sử dụng trong luận văn nhằm so
sánh những tương đồng, khác biệt trong cách khắc họa nhân vật, cách thể hiện
kỹ thuật dòng ý thức giữa các tác phẩm của Woolf, so sánh sự tương đồng,
khác biệt giữa tiểu thuyết tâm lý của Woolf so với tiểu thuyết tâm lý của các
bậc tiền bối thế kỷ XIX. Woolf là một đại biểu xuất sắc của trào lưu văn học
hiện đại chủ nghĩa với quan điểm “Chúng tôi muốn vứt bỏ chủ nghĩa hiện
thực, để xâm nhập vào những khu vực bên dưới nó mà khơng cần sự giúp đỡ
của nó” nên chắc chắn sẽ có những cách làm khác so với tiểu thuyết tâm lí
trước đó.
Phương pháp thứ hai chúng tơi sử dụng trong luận văn là phương pháp
lịch sử - văn hóa. Virginia Woolf sinh ra trong bối cảnh xã hội Anh chuyển
mình mạnh mẽ sang thời kỳ hiện đại với cuộc cách mạng công nghiệp, những
phát minh khoa học, những học thuyết triết học gây chấn động, q trình đơ
thị hóa, đặc biệt là hai cuộc đại chiến làm rung chuyển thế giới. Đặc điểm thời
đại đó đã ảnh hưởng sâu đậm đến thế giới quan, nhân sinh quan và tư duy
nghệ thuật của Woolf. Bà sống ở Bloomsbury, trung tâm London, phía Bắc
bảo tàng Anh quốc, trong một khơng khí đậm chất văn hóa nghệ thuật. Bà trở
thành một trong những thành viên sáng lập ra nhóm Bloomsbury tập hợp tồn
những văn, nghệ sĩ, trí thức lừng lẫy của Anh quốc. Những tác phẩm nhiều
lĩnh vực của văn đồn đã có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa nghệ thuật của
nhân loại trong thế kỷ XX. Bầu khơng khí văn hóa đậm đặc và hàn lâm không



13
chỉ tạo động lực nâng cao trình độ viết văn mà cịn để lại dấu ấn đậm nét
trong khơng gian nghệ thuật của bà.
Chúng tơi cịn chú ý đến phương pháp thi pháp học. Từ những hướng
dẫn của thi pháp học được chúng tôi sẽ làm rõ được những đặc điểm, quy luật
về bút pháp nghệ thuật, kỹ thuật tự sự, quan niệm thẩm mĩ của V.Woolf, từ đó
tìm ra những kế thừa và đột phá của bà so với các nhà văn tiền bối.
Bên cạnh đó, chúng tơi cũng vận dụng các phương pháp tiểu sử, phân
tâm học… để hiểu hơn về sáng tác của Woolf. Bởi những yếu tố lịch sử gia
đình, xã hội, thời đại tất yếu sẽ chi phối, ảnh hưởng đến tư tưởng, nghệ thuật
của Woolf. Virginia Woolf sinh ra và lớn lên trong một bối cảnh gia đình
danh gia vọng tộc có tiếng ở London. Xuất thân cao quý, bố mẹ đều là những
học giả, nghệ sĩ lừng lẫy tiếng tăm của vương quốc Anh nhưng cả hai đều trải
qua hôn nhân trước khi lấy nhau với đủ con riêng, con chung. Tuổi thơ và
thanh xuân của Virginia bị ám ảnh bởi cái chết của mẹ vào năm Virginia 13
tuổi, sau đó là một chuỗi những năm dài phiền muộn của một thân phụ
nghiêm khắc và độc tài. Sau đó cha của bà cũng mất vì bệnh ung thư. Những
đau thương, mất mát trong gia đình cộng với quá khứ bị lạm dụng tình dục
bởi hai người anh cùng mẹ khác cha đã trở thành nỗi ám ảnh rỉ máu suốt cuộc
đời, đẩy bà đến căn bệnh suy nhược thần kinh mà đã kết thúc bằng cái chết tự
vẫn ở tuổi 59. Thời tuổi trẻ lại trải qua cuộc chiến tranh thế giới nhứ Nhất,
chứng kiến nhiều đổ vỡ, mất mát, đảo lộn trong xã hội Anh quốc. Tất cả
những điều đó đã ảnh hưởng sâu đậm đến quan điểm sáng tác, bút pháp cũng
như thế giới nghệ thuật của Woolf.
Dựa vào lý luận của phân tâm học, chúng tôi lý giải những vấn đề liên
quan đến dòng chảy ý thức, thế giới nội tâm của nhân vật. Ngồi ra, chúng tơi
cịn sử dụng kết hợp với một số thao tác như: phân tích, tổng hợp, miêu tả,
thống kê, phân loại,...



14
5. Mục đích nghiên cứu và đóng góp của luận văn
Với đề tài Tiểu thuyết tâm lí của Virginia Woolf, những cách tân về thể
loại, luận văn sẽ khảo sát và làm sáng tỏ được đặc điểm về bút pháp nghệ
thuật trong tiểu thuyết tâm lý của Virginia Woolf. Trên cơ sở đó chỉ ra được
những điểm mới trong kỹ thuật tiểu thuyết của Woolf so với tiểu thuyết tâm lí
của thế kỉ XIX, đặc biệt là tiểu thuyết của Stedhal.
Chúng tôi hy vọng luận văn này sẽ trở thành một tài liệu tham khảo bổ
ích cho học sinh, sinh viên thuộc khối, ngành Khoa học Xã hội và những học
giả có hứng thú với văn học Anh quốc nói chung và tác phẩm của Virginia
Woolf nói riêng.
6 . Cấu trúc luận văn
Luận văn được chia làm ba phần: mở đầu, ba chương nội dung và
kết luận.
Trong phần mở đầu, chúng tôi giới thiệu những vấn đề như lý do chọn đề
tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, lịch sử vấn đề, phương pháp nghiên
cứu, mục đích nghiên cứu và cấu trúc của luận văn. Ở phần dẫn nhập này,
chúng tôi tập trung vào phần quan trọng là lịch sử vấn đề. Trong giới hạn luận
văn, chúng tôi cố gắng bao quát các tài liệu trong và ngoài nước có liên quan
đến đề tài để tổng kết các điểm chính mà học giả trước đã nghiên cứu cũng
như gợi mở hướng để chúng tôi tiếp tục đi sâu vào triển khai bài luận này.
Phần nội dung chính gồm có ba chương: Virginia trong dịng chảy tiểu
thuyết tâm lí hiện đại (chương 1), Tiểu thuyết Virginia Woolf và hình tượng
nhân vật (chương 2), Tiểu thuyết Virginia Woolf và sự tổ chức không - thời
gian nghệ thuật (chương 3).
Ở chương 1, luận văn luận giải về bối cảnh xã hội, thời đại thúc đẩy nhu
cầu hiện đại hóa văn học và sự ra đời của Chủ nghĩa hiện đại trong văn học
phương Tây đầu thế kỷ XX. Bên cạnh đó, chúng tơi cũng luận giải về khái
niệm, nguồn gốc, q trình hình thành của tiểu thuyết tâm lí, q trình cách



15
tân tiểu thuyết tâm lí của Woolf, quan điểm sáng tác, tư duy nghệ thuật riêng
biệt dẫn đến V.Woolf nhanh chóng trở thành cây bút tiên phong, đạt đến đỉnh
cao của tiểu thuyết tâm lí hiện đại.
Ở chương 2 và 3, luận văn tiến hành khảo sát những đặc điểm, khám
phá, sáng tạo của V. Woolf về tư tưởng và nghệ thuật tiểu thuyết tâm lý. Từ
đó, làm rõ được điểm chung và đặc biệt là những điểm độc đáo, sáng tạo
trong sáng tác của V. Woolf so với các nhà văn thế kỷ XIX.
Phần kết luận khái quát lại những nội dung chính của luận văn cũng như
đề xuất hướng nghiên cứu. Ngồi ra, luận văn cịn có mục tài liệu tham khảo
nhằm trích dẫn nguồn tài liệu luận văn tham khảo trong và ngoài nước.


16

Chương 1. V. WOOLF TRONG DỊNG CHẢY TIỂU THUYẾT
TÂM LÍ HIỆN ĐẠI
1.1. Chủ nghĩa hiện đại trong văn học phương Tây đầu thế kỷ XX
1.1.1. Bối cảnh xã hội-thời đại
Về chính trị, kinh tế, xã hội
Nhân loại đã phải trải qua một thời đại biến động và đã phải trả giá rất
đắt. Phong trào công xã Paris khởi đầu cho một thời kì đại chiến tranh và cách
mạng, Bảy mươi hai ngày âm vang thời đại, đánh dấu sự can dự, tham gia một
cách mạnh mẽ vào đấu trường chính trị của giai cấp cần lao nhưng nó cũng để
lại hậu quả đẫm máu. Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất từ 1914 đến 1918 đã
tàn phá Châu Âu một cách kinh hoàng, gây ra tổn thất to lớn ở phương Tây về
cả tài chính, vật chất, đặc biệt là nỗi đau tinh thần (sự mất mát, thất lạc người
thân, sự tàn phá những làng mạc, vùng quê). Nước Anh - trung tâm của châu
Âu, cường quốc công nghiệp với danh xưng “mặt trời không bao giờ lặn trên

nước Anh” - đã tiêu tốn 50% lợi tức quốc gia và mất khoảng một triệu binh sĩ
vào cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Các trận khơng kích vào Anh vào
năm 1914 đã làm người dân Anh bị tổn thương trên chính hịn đảo của mình.
Niềm tin vào đế quốc Anh bị sụp đổ và Chiến tranh thế giới lần thứ nhất còn
để lại hậu quả lâu dài, là nguyên nhân dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ
hai. Chiến tranh đã gây ra một bầu khơng khí u ám và diệt vong ở đế quốc Anh.
Cuộc đại chiến thế giới thứ hai đã để lại hậu quả khốc liệt: sự tổn thất
nhân mạng là khơng thể tính nổi, riêng chỉ Liên Xơ (cũ) đã có tới 26,6 triệu
người chết trong chiến tranh, và đỉnh điểm của cuộc chiến là việc Hoa Kỳ lấy
cớ tiêu diệt chủ nghĩa phát xít đã thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima
và Nagasaki của Nhật Bản, để lại sự thiệt hại vô cùng thảm khốc. Thời đại
chiến tranh và cách mạng đã đặt phận người vào tình thế mong manh giữa
sống và chết, cuộc đời có ý nghĩa và tính chất hư vơ. Tình thế ấy đặt ra một


17
câu hỏi lớn: nhân loại đang đi về đâu? Sự tồn tại của con người có nghĩa lý
hay khơng có nghĩa lý? Những tổn thất, mất mát quá lớn của thế giới cũng đặt
loài người trước một cuộc sống đầy bất trắc, bất an. Ngay trong hạnh phúc đã
nhen nhóm mầm mống đau khổ, nguy cơ hủy diệt mầm mống hạnh phúc ấy
có khi đã cận kề. Thực tại thật vô thường, không thể nắm bắt, hạnh phúc ngắn
ngủi, vượt q tầm tay.
Cơng nghiệp hóa phát triển nhanh chóng đã thay đổi hoàn toàn các lĩnh
vực sản xuất, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, sự chia rẽ giai cấp chính trị dẫn đến
phân chia và bất ổn xã hội. Quá trình đơ thị hóa q nhanh làm tăng cảm giác
cơ lập, chia rẽ. Các chuẩn mực của đạo đức truyền thống đã khơng cịn phù
hợp, bị coi là phi thực tế và giả tạo trong một xã hội mới đầy biến động và hỗn
loạn. Một xã hội mất dần sự kết nối đã thúc đẩy con người hướng nhiều hơn
vào nội giới, suy tư chiêm nghiệm.
Về khoa học - kỹ thuật

Những phát minh mang tính cách mạng trong khoa học tự nhiên và y học
về nguồn gốc con người gây ra cuộc khủng hoảng về đức tin. Học thuyết tiến
hóa và chọn lọc tự nhiên của Charles Robert Darwin giữa thế kỉ XIX làm lay
đổ các giá trị truyền thống và đức tin của con người. Albert Einstein đạt giải
thưởng Nobel với thuyết tương đối đã chứng minh mối quan hệ không thể tách
rời giữa không gian và thời gian. Ông được coi là cha đẻ của vật lí hiện đại và
có ảnh hưởng sâu đậm đến giới trí thức London cũng như giới trí thức Âu - Mỹ
những năm 1920 và nhiều năm sau đó. Những thành tựu ấy của trí tuệ lồi
người tuy khơng tác động trực tiếp vào đời sống văn học nhưng cũng không thể
phủ nhận rằng văn học khơng thể khơng nhìn ngắm lại mình để nhìn ra những
giới hạn của chính nó và tìm cách khai mở những lối đi mới khả dĩ phù hợp
hơn với tư duy của con người hiện đại.


18
Về tư tưởng
Tất cả những “chủ nghĩa” và học thuyết đầu thế kỷ XX đều mang tính
chất chủ quan nhằm đối lập với tư duy thuần lí nặng tính cơ giới trong việc
nhận thức và diễn đạt thực tại. Chủ nghĩa duy lý nhấn mạnh vai trị lý trí của
con người. Chủ nghĩa duy khoa học, duy kỹ thuật, kỹ trị khoa học là phương
tiện vạn năng giúp con người giải quyết tất cả các vấn đề mang tính vật chất
song ở mặt khác nó lại bộc lộ những giới hạn của mình, làm hạn chế khả năng
nắm bắt thực tại trong tính uyển chuyển và linh động của nó, tức là đời sống
tinh thần, bên trong của con người. Vấn đề đặt ra là khi lồi người đủ “khơn”
để nhận ra sự bất cập, bất tín của duy lý thì cái gì sẽ bổ sung, thậm chí là thay
thế? Thế giới ngay lập tức có câu trả lời: Trực giác (Bergson), Phân tâm học
(Freud) là những học thuyết mang màu sắc phản duy lý sẽ mở ra cánh của
thênh thang cho mĩ học hiện đại. Đó là con đường đi sâu vào nội giới.
Sigmun Freud đã đặt nền tảng tâm lý cho chủ nghĩa hiện đại với thuyết
phân tâm học, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trị của vơ thức, mặc cảm

Oedipe và yếu tố tính dục. Freud cho rằng tâm trí con người đa tầng, giấc mơ,
ký ức và tưởng tượng cũng quan trọng như hành động và suy nghĩ. Freud nhấn
mạnh vào sự tồn tại thế giới vơ thức của con người. Ơng đưa ra lý thuyết, có
một phần tâm trí của mình con người khơng nắm bắt hết được. Chúng ta không
thể biết hết tất cả những suy nghĩ, nỗi sợ hãi, động lực và mong muốn của
chính mình. Các nhà văn thời kỳ này rất tâm đắc với khám phá này, trong đó rõ
rệt nhất là các nghệ sĩ thuộc trường phái siêu thực (surrealism). Họ đã tìm
nhiều cách để chiếu sáng cõi vơ thức của con người. Nhờ vậy cung cấp được
cái nhìn sâu sắc về nội tâm của nhân vật.
Triết lý của Henri - Louis Bergson ảnh hưởng lớn trong những thập niên
đầu thế kỉ 20. Bergson mô tả trực giác và kinh nghiệm quan trọng hơn khoa
học. Ông tập trung vào trí nhớ, thời gian bên trong và trực giác. Thời gian bên
trong là chủ quan và không thể lý giải bằng khoa học. Bergson cho rằng: cái


19
tơi của con người mang tính hai mặt. Đó là một cái tơi hời hợt, xã hội, bên
ngồi và một cái tôi sâu lắng bên trong. Cái tôi bên trong mới là quan trọng.
Bởi cái tơi bên ngồi ln bị chi phối, cắt xén bởi mơi trường, hồn cảnh. Văn
chương phải đi vào cái tôi sâu lắng bên trong, cái tơi cá nhân… Đời sống là
một dịng chảy liên tục, khơng thể đo đếm bằng thời gian vật lí, đó là dịng
chảy liên tục của nội tâm. Ơng cũng cho rằng một trong những năng khiếu
mạnh nhất của loài người là năng khiếu của sự liên tưởng, tưởng tượng, trong
đó có trực giác. Trực giác khơng bí ẩn, mà đó là năng lực đặc biệt để thế giới
thuộc về ta, người nghệ sĩ khơng cịn bị ràng buộc bởi hàng rào ngăn cách
giữa chủ thể và khách thể, nó là một thứ năng lực thần cảm của người nghệ sĩ.
Sức tàn phá của hai cuộc chiến tranh thế giới và sự phát triển như vũ bão
của khoa học kỹ thuật đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hằng ngày của
con người, làm lung lay hệ thống niềm tin, thế giới quan, nhân sinh quan. Khi
khả năng tự tri đủ lớn, con người ý thức rõ rệt được sự xung đột giữa bản thân

với ngoại giới, khi con người suy tự về bản thân mình sẽ làm nảy sinh vấn đề
phận người. Đây chính là tư tưởng cốt lõi của văn học hiện đại. Trước những
câu hỏi lớn của thời đại về thân phận con người, về tương lai của thế giới, các
nhà văn đã có câu trả lời bằng cách chuyển sang tình cảm hiện đại. Đã qua rồi
thời kỳ Lãng mạn, văn chương tập trung vào năng lượng cảm xúc dồi dào có
tính tn trào của người nghệ sĩ trước thiên nhiên, trước nỗi đau và sự cô đơn
của con người trước thực tại bất như ý, tiểu thuyết hiện đại tiếp thu truyền
thống của chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng chuyển dịch trọng tâm vào nội
giới, tức thế giới nội tâm và những trải nghiệm ý thức của chính chủ thể. Tiểu
thuyết tâm lý hiện đại đã nảy sinh trên cái nền xã hội, tư tưởng, triết lý như
thế.
1.1.2. Sự ra đời của chủ nghĩa hiện đại trong văn học
Sự sụp đổ của thế giới bên ngoài khiến nhà văn ngày càng chuyển trọng
tâm vào thế giới bên trong với những trạng thái cảm xúc, những căng thẳng


×