Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Thực trạng lạm dụng rượu, bia và nhu cầu ban hành Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.66 KB, 4 trang )

THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT

THÛÅC TRẨNG LẨM DNG RÛÚÅU, BIA VÂ NHU CÊÌU
BAN HÂNH LÅT PHÔNG, CHƯËNG TẤC HẨI CA RÛÚÅU, BIA
Vũ Văn huân*

Việt Nam là một trong số ít quốc gia đang có xu hướng gia tăng nhanh về mức
tiêu thụ rượu, bia và đồ uống có cồn/bình qn đầu người, trong khi mức tiêu
thụ của toàn thế giới trong thập kỷ qua hầu như không thay đổi1. Theo thống kê
của Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế, mức độ tiêu thụ rượu, bia của người Việt Nam
trong 10 năm trở lại đây đã tăng gấp 2 lần. Lạm dụng rượu, bia tại Việt Nam
đã và đang ở mức báo động, gây ra những tác hại về sức khỏe và nhiều vấn đề
xã hội nghiêm trọng. Người trẻ tuổi đang sử dụng rượu, bia ở mức rất cao, với
80% nam giới và 36,5% nữ giới trong độ tuổi 14-252. Vấn đề này sẽ ngày càng
nghiêm trọng nếu Nhà nước khơng kịp thời điều chỉnh chính sách, pháp luật về
phòng, chống tác hại của rượu, bia.

1. Tiêu dùng rượu, bia đang ngày càng
gia tăng, đặc biệt ở giới trẻ
Chỉ trong 5 năm (2011-2015), tỷ lệ sử
dụng rượu, bia ở nam giới (độ tuổi 25-64
tuổi) đã tăng từ 69,6% lên 80,3% và ở nữ
giới là từ 5,6% lên 11,2%. Trong số nam
giới sử dụng rượu, bia năm 2015, có 44,2%
sử dụng rượu, bia ở mức nguy hại và 47,9%
điều khiển phương tiện cơ giới sau khi sử

*
1
2
3


4

52

dụng rượu, bia3. Ở tuổi vị thành niên (13-17
tuổi), có một phần ba nam giới (33,2%) và
gần một phần năm nữ giới (17,6%) có sử
dụng rượu, bia. Trong số đó, một nửa số em
nam và một phần ba số em nữ uống lần đầu
trước 14 tuổi4.
Từ 2005 đến 2010, mức tiêu thụ rượu,
bia bình quân đầu người ở Việt Nam từ 15
tuổi trở lên tăng gấp đơi, từ 3,8 lít/người lên

Viện Nghiên cứu Lập pháp.
Tổ chức Y tế thế giới, Báo cáo toàn cầu về thực trạng sử dụng rượu, bia và sức khỏe năm 2014.
Tổng cục Thống kê (2010a). Điều tra quốc gia vị thành niên và thanh niên Việt Nam vòng 2, 2010.
Bộ Y tế, Điều tra các yếu tố nguy cơ bệnh khơng lây nhiễm 2010, 2015.
Cục Y tế dự phịng, Điều tra sức khỏe học sinh năm 2013.

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP

Sưë 24 (328) T12/2016


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT

6,6 lít/người. Riêng nam giới sử dụng rượu, bia, mức tiêu thụ trung bình là 27,4 lít cồn

nguyên chất/người/năm6.
Tỷ lệ tiêu thụ số lít cồn nguyên chất/người/năm Việt Nam ở mức rất cao, xếp thứ hai
trong các nước Đơng Nam Á/Tây Thái Bình Dương; xếp thứ 10 châu Á (sau Hàn Quốc, Ấn
Độ, Nepal, Thái Lan) và thứ 29 thế giới7.

2. Lạm dụng rượu, bia gây nên những gánh nặng y tế và các vấn đề xã hội
Theo nghiên cứu gánh nặng bệnh tật toàn cầu, rượu, bia là yếu tố nguy cơ xếp thứ 5
trong 15 nguy cơ sức khỏe hàng đầu tại Việt Nam (WHO8, 2012). Rượu, bia là nguyên nhân
gián tiếp của 200 loại bệnh tật, chấn thương và là nguyên nhân trực tiếp của ít nhất 30 bệnh
(nằm trong danh mục phân loại bệnh tật quốc tế ICD10). Sử dụng rượu, bia gây ra 5,7%
tổng số ca tử vong, 4,7% tổng gánh nặng bệnh tật tính bằng số năm sống mất đi do bị bệnh
(DALY) của Việt Nam năm 2010. Khoảng 8,7% nam và 0,9% nữ tuổi từ 15 trở lên gặp các
rối loạn liên quan đến sử dụng rượu9.
5
6
7
8
9

Tổ
Tổ
Tổ
Tổ
Bộ

chức Y tế thế giới, Báo cáo toàn cầu về thực trạng sử dụng rượu, bia và sức khỏe năm 2014.
chức Y tế thế giới, Báo cáo toàn cầu về thực trạng sử dụng rượu, bia và sức khỏe năm 2014.
chức Y tế thế giới, Báo cáo toàn cầu về thực trạng sử dụng rượu, bia và sức khỏe năm 2014.
chức Y tế thế giới.
Y tế, Báo cáo tổng quan ngành y tế năm 2014.

NGHIÏN CÛÁU

Sưë 24 (328) T12/2016

LÊÅP PHẤP

53


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT
Rượu, bia có liên quan
với 36,2% các trường hợp tai
nạn giao thông ở nam giới và
0,7% các trường hợp ở nữ
giới10. Năm 2012, 71,7%
trường hợp tử vong do xơ
gan ở nam và 36,2% trường
hợp tử vong do tai nạn giao
thông ở nam là do sử dụng
rượu bia11. Thiệt hại kinh tế
do tai nạn giao thông liên
quan tới rượu, bia ước tính
gần 1 tỷ đơ la Mỹ vào năm
201012.
Theo nghiên cứu của
Nguồn: Báo cáo thực trạng rượu, bia toàn cầu năm 2004 (WHO)
WHO, từ 7/2009 - 10/2010,
trên 18.412 nạn nhân tai nạn
giao thông nhập viện:
(13,8%), cao hơn các quốc gia khác như Úc

- 36% người đi xe máy có nồng độ cồn
(11,8%), Ai Len (11,1%), Thái Lan
trong máu cao hơn mức cho phép (50
(13,1%)14. Bên cạnh đó, những tổn thất do bị
mg/dl),
xói mịn về văn hóa, lối sống, đạo đức và chất
lượng giống nòi bởi lạm dụng rượu, bia gây
- 66,8% người lái xe ơ tơ có nồng độ cồn
ra
là những gánh nặng xã hội nghiêm trọng
trong máu cao hơn mức cho phép (0 mg/dl).
không thể so sánh và rất khó lượng hóa.
Kết quả của cuộc điều tra quốc gia vị
3. Lạm dụng rượu, bia gây gánh nặng
thành niên Việt Nam năm 2009 cho thấy,
kinh
tế cho hộ gia đình và quốc gia
20,8% nam vị thành niên đã lái xe sau uống
Chi phí kinh tế trực tiếp cho điều trị 6
rượu, bia dẫn đến các chấn thương phải nghỉ
loại bệnh ung thư phổ biến tại Việt Nam,
học hoặc nghỉ lao động từ 1 tuần trở lên.
trong
đó có 5 bệnh có liên quan đến sử dụng
Rượu, bia cũng là nguyên nhân lớn nhất
rượu, bia (ung thư gan, ung thư đại trực
gây ra 30% các vụ gây rối trật tự xã hội và
13
tràng, ung thư khoang miệng, ung thư dạ
33,7% các vụ bạo lực gia đình ở Việt Nam .

dày,
ung thư vú) lên tới 25.789 tỷ đồng,
Trẻ em Việt Nam cũng đang là nạn nhân
chiếm 0,22% tổng GDP năm 2012. Gánh
trong việc lạm dụng rượu, bia của người lớn
nặng kinh tế cho việc điều trị các bệnh ung
như: bị xúc phạm, nhục mạ, mắng chửi
thư đổ dồn lên hộ gia đình (42,4%), bảo
(11,1%), bị bỏ mặc, thiếu sự chăm sóc, bảo
hiểm
y tế (27,7%) và Chính phủ (17,1%)15.
vệ của người lớn (6,5%), phải chứng kiến bạo
lực nghiêm trọng trong gia đình (6,1%), bị
Theo Báo cáo Tổng quan Y tế 2015 (số
đánh đập gây đau đớn về thể xác (3,8%),
liệu 2014, Bộ Y tế), Việt Nam chi bình qn
hoặc chịu ít nhất 1 trong 4 vấn đề nêu trên
tiêu thụ bia hơn 3 tỷ USD/năm (khoảng
10
11
12
13
14

54

WHO, Báo cáo toàn cầu về đồ uống có cồn và sức khỏe năm 2014.
ThS. Hồng Thị Mỹ Hạnh, Hậu quả của lạm dụng đồ uống có cồn, Tạp chí Chính sách Y tế số 13 (2014), tr. 12.
WHO, Báo cáo tồn cầu về đồ uống có cồn và sức khỏe năm 2014.
Tổng cục Thống kê, Điều tra quốc gia về bạo lực gia đình năm 2010.

Khảo sát của WHO năm 2014 tại 4 quốc gia, trong đó có Việt Nam.

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP

Sưë 24 (328) T12/2016


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT
1,8% GDP), bằng gần 3% thu ngân sách cả
nước và cao gấp 4 lần mức đóng góp ngân
sách của ngành sản xuất rượu, bia, nước giải
khát hàng năm (trung bình 800 triệu
USD/năm).
Sử dụng nhiều rượu bia gây ra gánh
nặng kinh tế đối với cá nhân, gia đình và
tồn xã hội do liên quan đến các phí tổn về
chăm sóc sức khỏe, giảm hoặc mất năng
suất lao động và giải quyết các hậu quả xã
hội khác. Chi tiêu cho rượu bia lấy đi nguồn
tài chính quan trọng ở các hộ gia đình nghèo
và làm cho tình trạng đói nghèo thêm trầm
trọng. Ở các hộ nghèo có dùng rượu, bia,
khoản chi cho y tế và giáo dục chỉ bằng 48%
và 60% so với hộ nghèo khơng có người
uống rượu, bia. Nếu số tiền mua rượu, bia
này dùng để mua sữa thì trẻ em ở các hộ
nghèo sẽ được uống khoảng 122 cốc
sữa/năm thay vì 1 cốc/năm16.

4. giá rẻ và sức mua gia tăng làm tăng
nguy cơ lạm dụng rượu, bia
Năm 2014, người dân chỉ phải bỏ ra
trung bình 18.455 đồng để mua 1 lít rượu
trắng nội địa và 13.114 đồng để mua 1 lít bia
hơi. Mức chi này chỉ bằng 1,6% và 1,2%
lương cơ bản một tháng (lương cơ bản năm
2014 theo Nghị định số 66/2013/NĐ-CP là
1.150.000 đồng/tháng).
Từ 1998-2014, giá mua 1 lít rượu, bia
liên tục giảm tính theo tỷ lệ phần trăm GDP
bình quân đầu người. Năm 1998, tỷ lệ phần
trăm GDP/người để mua 10 lít rượu Vodka
Hà Nội, rượu vang nội và rượu trắng nội địa
ứng là 8,2%; 5,9% và 1,6%. Nhưng đến
2014, tỷ lệ này giảm mạnh chỉ còn là 2,2%;
1,6%; và 0,4%. Mức giảm tương tự với mặt
hàng bia. Điều này cho thấy, khả năng tiếp
cận với rượu, bia về phương diện giá của
người dân Việt Nam ngày càng tăng17.

5. Truyền thông và kẽ hở pháp luật trong
quảng cáo đồ uống có cồn
Quảng cáo rượu đã bị luật pháp cấm
nhưng còn nhiều vi phạm và còn nhiều hành
vi lách luật. Quảng cáo bia còn thả nổi vì
chưa có bất kỳ chính sách nào để hạn chế
quảng cáo bia. Điều tra của Đại học Y tế
công cộng (2014) trên gần 700 điểm bán
rượu, bia tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà

Nẵng cho thấy, quảng cáo rượu trên 15 độ
mặc dù bị cấm, nhưng có tới 76% điểm bán
có vi phạm ở khu vực bên trong nhà, và 8,2%
điểm bán có vi phạm quảng cáo ngoài trời.
Đối với các sản phẩm rượu, bia và đồ
uống có cồn dưới 15 độ, được quảng cáo
như hàng hóa, dịch vụ bình thường, khơng
có bất kỳ quy định hạn chế nào về đối tượng
tiếp cận, nội dung, thời gian, khơng gian
được phép quảng cáo. Báo chí và truyền
thơng đại chúng vẫn quảng cáo bia hằng
ngày.
Năm 2014, Chính phủ đã ban hành
“Chính sách quốc gia về Phịng, chống tác
hại của lạm dụng rượu, bia và đồ uống có
cồn khác” (Quyết định số 224/QĐ-TTg,
ngày 12/2/2014) và thành lập Ban chỉ đạo
quốc gia về Phòng, chống tác hại của lạm
dụng rượu, bia và đồ uống có cồn khác
(Quyết định số 1081/QQD-TTg, 15/7/2015).
Những chính sách này của Chính phủ là rất
cần thiết, nhưng việc triển khai thực thi
chính sách cịn chậm và cịn thiếu hành lang
pháp lý. Hơn nữa, theo Hiến pháp năm
2013, việc hạn chế quyền con người, quyền
công dân cần phải được hạn chế bằng luật.
Vì vậy, việc cấm sử dụng rượu, bia trong
một số trường hợp phải được quy định trong
văn bản luật ■


15 Nguồn: Viện Nghiên cứu phòng, chống ung thư, Bệnh viện K.
16 HealthBridge Việt Nam, 2010, Nghiên cứu Ảnh hưởng của sử dụng rượu bia đến đói nghèo và đặc điểm của các hộ gia
đình sử dụng rượu bia thường xuyên tại Việt Nam.
17 HealthBridge Việt Nam, phân tích từ số liệu của Tổng cục Thống kê về giá bán lẻ và CPI của các sản phẩm rượu, bia.
NGHIÏN CÛÁU

Sưë 24 (328) T12/2016

LÊÅP PHẤP

55



×