Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bạn biết gì về bệnh thoái hóa nhầy?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.05 KB, 5 trang )

Bạn biết gì về bệnh thoái hóa nhầy?

Mô bệnh học thoái hóa nhầy.
Thoái hoá nhầy là bệnh do rối loạn chuyển hoá chất nhầy (mucine) ở da, có
thể lan tỏa hoặc khu trú, một bệnh hiếm gặp, đặc trưng bởi sẩn dạng lichen do lắng
đọng chất nhầy và paraprotein ở trung bì và một vài nguyên nhân khác.
Thoái hoá nhầy được chia làm 2 loại chính:
Thoái hoá nhầy nguyên phát có dạng thoái hóa viêm và dạng u hỗn hợp.
Trong thoái hóa viêm dựa vào vị trí lắng đọng chất nhầy mà chia thành nhóm
trung bì và nhóm nang lông.
Thoái hoá nhầy thứ phát: Lắng đọng mucin chỉ là một yếu tố góp phần vào
tổn thương mô bệnh học mà thôi (gồm một số bệnh ung thư tế bào đáy, gai, u hạt
hình nhẫn, lupus ban đỏ, viêm bì cơ, các khối u thần kinh, sẹo lồi, côn trùng
đốt...).
Các thể thoái hóa nhầy
Thoái hóa nhầy thể sẩn: Trước đây được coi là có căn nguyên do thiểu năng
tuyến yên, nhưng hiện nay nhiều tác giả cho rằng bệnh có căn nguyên tự miễn, gây
thoái hoá nhầy tại chỗ của các tổ chức liên kết. Bệnh sẽ nặng hơn, diễn biến phức
tạp, tiên lượng xấu hơn khi có tình trạng xơ cứng do lắng đọng chất nhầy ở trung
bì kết hợp với các thay đổi bất bình thường của M-globulin trong máu.
Tổn thương cơ bản là các sẩn hình bán cầu, đường kính từ 2-4mm, có màu
sắc của da bình thường, có thể màu trắng ngà hoặc màu hồng, mật độ chắc, tập
trung thành từng đám hay thành dải, đôi khi có đối xứng. Triệu chứng cơ năng
không có hoặc ngứa nhẹ. Vị trí của tổn thương hay gặp ở giữa 2 cung lông mày, ở
cổ tay, cẳng tay, cổ, bìu, có khi khắp toàn thân. Bệnh cũng có thể biểu hiện bằng
các mảng cứng đỏ, tập trung ở môi, bàn tay, cánh tay, cẳng chân, đôi khi lan rộng
và làm cho cử động của các bộ phận này gặp khó khăn.
Thoái hoá nhầy thể xơ cứng lan toả (bệnh phù niêm cứng): Tổn thương
thường kết hợp giữa sẩn và cục. Các thương tổn có ranh giới rõ về sau trở thành
các đám thâm nhiễm lan toả. Tổn thương có thể là đám da lớn thậm chí toàn thân
với màu sắc của tổn thương gần như da bình thường, trắng nhợt, hơi vàng hay


hồng đỏ. Dấu hiệu véo da âm tính. Trong trường hợp nặng thân mình, cổ tay, cẳng
tay như một cái ống không đàn hồi, các ngón tay sưng, cử động rất khó khăn. Tình
trạng xơ cứng có thể rất nặng dẫn đến co kéo làm ảnh hưởng đến các hốc tự nhiên
(miệng, mũi, mắt), làm lộn mi mắt.
Thoái hoá nhầy nang lông: Thể này được biết đến như là rụng tóc do chất
nhầy, có thể kèm theo các khối u ngoài da đặc biệt là u lympho T. Với tổn thương
là các mảng thâm nhiễm cứng, thường ở vùng đầu và cổ, tổn thương có thể đơn
độc hoặc nhiều vị trí nếu ở da đầu và vùng cổ thì xuất hiện rụng tóc, râu, lông
mày. Ngoài ra có thể gặp các sẩn dạng trứng cá, khi nặn có thể có chất nhầy chảy
ra, thường bệnh nhân có ngứa rất nhiều. Bệnh có thể giảm hoặc khỏi sau vài năm,
có thể tái phát nhưng lành tính; cũng có một số trường hợp liên quan đến khối u
lympho ác tính hay các ung thư khác, bệnh nhân thường là tử vong sau đó. Các tổn
thương phối hợp khác: Hạn chế chức năng của phổi, bất thường về tim mạch; Hội
chứng dạ dày - ruột (mất nhu động thực quản); Yếu cơ, viêm đa khớp; Hội chứng
não cấp tính; Khàn giọng do phù thanh quản.; Mắt: đục thuỷ tinh thể, hở mi, lộn
mi, phù gai thị
Những tổn thương dễ nhầm với thoái hóa nhầy
Lichen nitidus: tổn thương là các sẩn, sắp xếp thành dải, thành vạch, đỉnh
của sẩn lõm xuống hoặc lõm xuống thành một chấm. Các sẩn rất nhỏ, ranh giới
không rõ với da lành. Các sẩn lớn thành u, cục, mảng, có khi có gờ lên và thâm
nhiễm, có màu vàng nhạt hoặc màu hồng.
Thoái hoá bột thể khu trú ở da: Các sẩn chắc hình cầu, màu xám hay hồng
nhạt, tập trung chủ yếu ở mặt trước cẳng chân, cẳng tay, đôi khi xuất hiện ở thân
mình, kích thước bằng đầu đinh ghim tới hạt đỗ, trên tổn thương có thể nhẵn
nhưng cũng có khi đóng vảy hoặc sần sùi như mụn cơm.
Phù cứng bì: bệnh liên quan đến suy giáp trạng, vì vậy để chẩn đoán cần
phải định lượng hormon tuyến giáp trạng.
Xơ cứng bì: Da xơ cứng, véo da âm tính, trên da có các vết giảm sắc tố kèm
theo có hội chứng Raynaud, trường hợp không rõ thì dựa vào mô bệnh học.
Thoái hoá bột hệ thống: Tổn thương da và tổn thương niêm mạc. Mô bệnh

học: lắng đọng chất amyloid ở da.
Viêm bì cơ: Tổn thương da, cơ và xét nghiệm (điện cơ bất thường, men cơ
tăng cao...).
Thoái hóa nhầy điều trị được không?
Bệnh hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Điều trị tại chỗ: dùng corticoid
bôi tại chỗ hoặc tiêm nội thương tổn, kết quả hạn chế. Điều trị toàn thân bằng biện
pháp dùng thuốc, chiếu tia UV, PUVA, xạ trị, lọc huyết tương. Điều trị tích cực
dùng melphalan hàng tháng kết hợp với thalidomide và corticoid cho kết quả khả
quan nhưng cũng nhiều biến chứng.

×