Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phát triển du lịch theo hướng bền vững ở quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 99 trang )

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Bảng
1

Bảng 2.1

Tên Bảng
Tình hình cơ sở vật chất-kỹ thuật của du lịch

Trang
50

Quảng Ninh giai đoạn 2001- 2010
2

Bảng 2.2

Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh 52
giai đoạn 2001- 2010

3

Bảng 2.3

Tình hình kinh doanh của ngành du lịch Quảng
Ninh giai đoạn 2001- 2010

i

54




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

BVMT

Bảo vệ môi trường

2

CSVCKT

Cơ sở vật chất kỹ thuật

3

CSHT

Cơ sở hạ tầng

4


ECOMOST Mơ hình du lịch bền vững của cộng đồng châu âu

5

IUCN

Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới

6

TNDL

Tài nguyên du lịch

7

TNDLTN

Tài nguyên du lịch tự nhiên

8

TNDLNV

Tài nguyên du lịch nhân văn

9

UBND


Ủy ban nhân dân

10

WCED

Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới

11

WTO

Tổ chức du lịch thế giới ( World Tourism Organization)

ii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nắm bắt những thuận lợi do quá trình hội nhập quốc tế mang lại, tận
dụng ưu thế về tài nguyên, du lịch Quảng Ninh trong những năm qua có bước
phát triển mạnh mẽ, hệ thống cơ sở hạ tầng và chất lượng dịch vụ được cải
thiện, nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được trùng tu, tôn
tạo. Lượng khách trong nước và quốc tế không ngừng tăng, năm 2010 du lịch
Quảng Ninh đón 5,4 triệu lượt khách, doanh thu đạt 3100 tỷ đồng. Sự phát
triển của ngành du lịch góp phần vào sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tích cực, tạo việc làm góp phần xóa đói giảm nghèo , nâng
cao chất lượng đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, sau một thời kỳ dài tăng trưởng với tốc độ cao du lịch Quảng
Ninh đang dần phải đối mặt với những vấn đề có liên quan đến phát triển bền

vững. Điều đó được thể hiện qua sự ô nhiễm môi trường tại các khu du lịch,
sự thiếu đa dạng của sản phẩm du lịch, dẫn dến số ngày lưu trú, hệ số quay trở
lại và hệ số chi tiêu của khách du lịch thấp. Khơng có những sản phẩm du lịch
thực sự cao cấp và hấp dẫn. Cảnh quan Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long
bị phá vỡ do q trình đơ thị hóa. Sự phát triển du lịch không cân đối giữa các
trung tâm du lịch trong tỉnh. Hoạt động du lịch chủ yếu tập trung tại khu vực
Bãi Cháy, dẫn đến sự quá tải vào mùa cao điểm. Hiện tượng đầu tư thừa về cơ
sở lưu trú tại khu vực này cũng bắt đầu xuất hiện. Sự thờ ơ của doanh nghiệp
đối với công tác phúc lợi xã hội cuả địa phương. Công tác giáo dục và bảo vệ
các tài nguyên phục vụ phát triển du lịch chưa thực sự được chú trọng.
Với mục đích nghiên cứu thực trạng phát triển của du lịch Quảng Ninh
trên quan điểm bền vững, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển du lịch theo
hướng bền vững ở Quảng Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
1


2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay vấn đề phát triển bền vững của ngành du lịch đang được quan
tâm nghiên cứu, tiêu biểu phải kể đến các cơng trình như “Phát triển du lịch
bền vững du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của
PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh, trưởng khoa du lịch, Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh (năm 2008). Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu đánh giá tác động qua
lại giữa môi trường xã hội với hoạt động du lịch nhằm góp phần phát triển du
lịch bền vững tại thị xã Sầm Sơn - Thanh Hóa” do GS.TS Nguyễn Văn Đính
làm chủ nhiệm đề tài( năm 2005). Luận án tiến sĩ “Phát triển Du lịch bền
vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng” của Trần Tiến Dũng,Trường đại học Kinh tế
Quốc dân Hà nội ( năm 2007) “Phát triển du lịch bền vững gắn với bảo vệ
mơi trường” của PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục
Biển và Hải đảo Việt Nam (năm 2006). “Du lịch bền vững dựa vào cộng
đồng” của Tăng Thị Duyên Hồng (đăng trên tạp chí Du lịch Việt Nam, số 5

năm 2008). Ngồi ra cịn có nhiều nghiên cứu được đăng trên các Báo trung
ương và địa phương. Đối với du lịch Quảng Ninh đã có một số nghiên cứu
liên quan đến vấn đề phát triển bền vững như “Đánh giá tác động của phát
triển du lịch đối với môi trường Vịnh Hạ Long của Viện Nghiên cứu Phát
triển Du lịch kết hợp với Sở Tài nguyên Môi trường Quảng Ninh” (năm
2002). “ Xây dựng sản phẩm đảm bảo phát triển du lịch bền vững ở Quảng
Ninh” của Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh (Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch
Việt Nam, năm 2007). “Nguồn lực phát triển du lịch sinh thái tại một số đảo
Quảng Ninh” Luận Văn tốt nghiệp chuyên ngành Du lịch học của Đàm Thu
Huyền, chuyên viên Sở Du Lịch Quảng Ninh (năm 2007). Đây là cơng trình
đánh giá những tiềm năng của Quảng Ninh về du lịch sinh thái. Tuy nhiên số
lượng nghiên cứu sự phát triển của ngành du lịch trên quan điểm phát triển

2


bền vững ở Quảng Ninh chưa nhiều , vì vậy cần nhận được sự quan tâm
nghiên cứu của các cấp các ngành và giới học thuật trong và ngoài Tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ
*Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn lý giải một số vấn đề về sự bền
vững trong thực trạng phát triển của ngành du lịch Quảng Ninh.. Trên cơ sở
phân tích này, luận văn đề xuất một số gợi ý về giải pháp nhằm đưa du lịch
Quảng Ninh phát triển theo hướng bền vững và hiệu quả.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận văn này là tập trung nghiên cứu những lý luận cơ
bản nhất của phát triển du lịch bền vững. Bài học kinh nghiệm của một số
quốc gia trong việc phát triển du lịch bền vững và không bền vững. Đánh giá
tài nguyên du lịch của Quảng Ninh. Phân tích một số vấn đề liên quan đến
phát triển bền vững của du lịch Quảng Ninh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sự phát triển của du lịch Quảng Ninh trên
quan điểm phát triển bền vững. Trong đó chú trọng một số trung tâm du lịch
như : trung tâm Hạ Long, Vân Đồn, Móng Cái, Đơng Tiều – ng Bí, Sự
phát triển của các trung tâm này tạo nên diện mạo cho ngành du lịch Quảng
Ninh. Đây cũng chính là đối tượng nghiên cứu cụ thể nhất của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về mặt không gian là tỉnh Quảng
Ninh. Phạm vi nghiên cứu của luận văn về mặt khơng gian cịn diễn ra trên
các phương diện kinh tế - chính trị - xã hội và môi trường tự nhiên của tỉnh
Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của luận văn là khoảng thời gian
từ năm 2001 đến năm 2010. Đây là khoảng thời gian mà ngành du lịch
3


Quảng Ninh có tốc độ tăng trưởng nhanh, các vấn đề liên quan đến phát triển
bền vững được tương đối rõ nét.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực trạng phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh được
tiếp cận dưới góc độ của khoa học kinh tế chính trị vì vây luận văn có sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp kế thừa, Phương pháp trừu
tượng hóa khoa học, Phương pháp thống kê, Phương pháp phân tích và tổng
hợp
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luân văn góp phầnhệ thống một cách khái quát nhất những lý luận về
phát triển du lịch theo hướng bền vững, vận dụng phân tích thực trạng phát
triển của du lịch Quảng Ninh.
- Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch Quảng Ninh trên

quan điểm phát triển bền vững. Làm rõ nguyên nhân hệ số quay trở lại và hệ
số chi tiêu của khách du lịch thấp. Đánh giá vấn đề ô nhiễm môi trường và tác
động của hoạt động du lịch đối với cộng đồng cư dân địa phương.Sử dụng kết
quả đánh giá thực trạng để đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần đưa du
lịch Quảng Ninh phát triển theo hướng bền vững. Kết quả nghiên cứu của
luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong việc hoạch
định chính sách phát triển du lịch Quảng Ninh trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được kết cấu làm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển du lịch bền vững
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng
Ninh

4


Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng
Ninh

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DU LỊCH
BỀN VỮNG
1.1. Khái luận về phát triển du lịch bền vững
1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững và du lịch bền vững
* Khái niệm phát triển bền vững
Khái niệm "Phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn Thế giới” (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn
giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh

tế mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến
môi trường sinh thái học".[1]
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
“Tương lai của chúng ta” của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới
(WCED). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp
ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.”[2]
Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những nhu cầu của hiện
tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương
lai. Đó là q trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài ngun được tái tạo,
tơn trọng những q trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ
thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực
vật. Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm
và nội hàm của nó khơng chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái mà còn đi vào các
5


nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu
và nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm chí nó cịn bao hàm sự cần thiết giải trừ
quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần
thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững.
Khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào những
năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Nó nhanh chóng nhận được sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước, điều đó được thể hiện thơng qua hàng loạt các
văn bản chính sách có tính định hướng chiến lược như: “Kế hoạch quốc gia
về môi trường và phát triển bền vững”, đây là văn bản tạo tiền đề cho quá
trình phát triển bền vững ở nước ta. Quan điểm phát triển bền vững được
khẳng định lại trong chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ
Chính Trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chỉ thị nhấn mạnh “Bảo vệ môi trường là

nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối chủ trương và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của các cấp các ngành, là cơ sở để đảm bảo phát
triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”. Quan điểm phát triển bền vững lại được tái khẳng định trong văn
kiện Đại hội IX của Đảng và trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai
đoạn 2001 – 2010 là: “Phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả. Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”
và “Phát triển kinh tế gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự
hài hịa giữa mơi trường nhân tạo với mơi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng
sinh học”. Phát triển bền vững trở thành quan điểm đường lối của Đảng và Nhà
nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nhiều chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành, triển
khai thực hiện, nhiều cơng trình nghiên cứu đã được triển khai và bước đầu thu
được kết quả bước đầu. Nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi
vào cuộc sống và dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.

6


Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Chính phủ đã ban
hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” trong đó đề ra
các nguyên tắc cơ bản cho sự phát triển bền vững:
Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững, đáp ứng nhu
cầu đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân xây dựng dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, là nguyên tắc quán triệt nhất quán
trong quá trình triển.
Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát
triển sắp tới. Đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng cho phát triển
bền vững. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho nhân dân. Kết hợp chặt
chẽ, hài hòa, hợp lý với phát triển xã hội. Khai thác hợp lí, sử dụng tiết kiệm

hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và
bảo vệ môi trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “ Mọi mặt”:
Kinh tế, xã hội và mơi trường đều có lợi.
Thứ ba, bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là yếu tố khơng
thể tách rời của phát triển. Tích cực chủ động phịng ngừa những tác động
xấu với mơi trường do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng nguyên
tắc người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường phải bồi thường. Xây
dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về bảo vệ mơi trường; Chủ
động gắn kết và có chế tài bắt buộc, lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường
trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế
xã hội, coi yêu cầu bảo vệ mơi trường là một tiêu chí quan trọng trong phát
triển bền vững.
Thứ tư, quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng
đối với thế hệ hiện tại mà không gây tổn hại đối vớ các thế hệ tương lai. Tạo
điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng
để phát triển, được tiếp cận với nguồn lực chung và được phân phối một cách
cơng bằng lợi ích cơng cộng, tạo ra những nền tảng vật chất , tri thức, văn hóa
tốt đẹp cho các thế hệ mai sau. Sử dụng tiết kiệm tài nguyên không thể tái tạo
7


được, gìn giữ và bảo vệ mơi trường sống. Phát triển hệ thống “sản xuất sạch”
thân thiện với môi trường, xây dựng lối sống lành mạnh, hài hòa, gần gũi và
u q thiên nhiên.
Thứ năm, khoa học và cơng nghệ là nền tảng và động lực cho cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Công nghiệp hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường được ưu tiên sử dụng
trong các ngành sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh và có khả năng thúc
đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác.
Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của tồn Đảng, các cấp chính

quyền các bộ ngành, địa phương, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.
Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa
chọn các quyết định về phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường ở địa
phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả năng tiếp cận
thơng tin và nâng cao vai trị của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ,
thanh niên, đồng bào dân tộc thiểu số trong việc đóng góp vào quá trình ra
quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn vá lâu dài của đất nước.
Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước. Phát triển quan
hệ song phương và đa phương thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực, tiếp
thu có chọn lọc những tiến bộ khoa học công nghệ , tăng cường hợp tác quốc tế
để phát triển bền vững. Chú trọng phát huy lợi thế , nâng cao chất lượng hiệu
quả, năng lực cạnh tranh, chủ động phòng ngừa những tác động xấu với mơi
trường do q trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây nên.
Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và
bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phịng an ninh, trật tự an tồn xã hội.[3]
*Khái niệm du lịch bền vững
Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, trên thế giới xuất hiện những
cảnh báo đầu tiên về sự suy thối mơi trường do hoạt động du lịch gây ra, các
8


nhà khoa học đã dùng khái niệm “ du lịch rắn”(Hard tourism) để chỉ các hoạt
động du lịch ồ ạt, khơng được quy hoạch hợp lí. Khái niệm “du lịch mềm”
(Soft tourism) chỉ một chiến lược du lịch mới tôn trọng tài nguyên môi
trường. Năm 1996 xuất hiện khái niệm “ du lịch bền vững “ ( Sustainable) do
Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế đưa ra trên cơ sở phát triển của khái
niệm “du lịch mềm”, nhưng có nội dung rộng hơn khơng chỉ dừng lại bảo vệ
mơi trường mà cịn phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa và xã hội.
Khái niệm du lịch bền vững do Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế

đưa ra có nội dung: “Du lịch bền vững là sự đáp ứng các nhu cầu hiện tại của
du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu
về du lịch cho thế hệ tương lai”. ( World Travel and Tourism Council,
1996).[25]
Bên cạnh khái niệm của Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế Tổ chức
Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới cũng đưa ra khái niệm du lịch bền vững là “
Việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm
với mơi trường và đánh giá cao tự nhiên, theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có
tác động thấp từ du khách và mang lại lợi ích cho sự tham gia chủ động về
kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương” (International Union for
Conservervation of Nature, 1996). [25]
Du lịch bền vững “đòi hỏi quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách
nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ
trong khi đó vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các q trình sinh thái cơ bản,
đa dạng sinh học và các hệ thống đảm bảo sự sống”( Nikolova và Hens,
1998).[28]
Du lịch bền vững và du lịch đại chúng có sự khác biệt. Du lịch đại
chúng khơng được lập kế hoạch hợp lí cho việc nâng cao công tác bảo tồn
hoặc công tác giáo dục, khơng mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa
phương và có thể phá huỷ nhanh chóng các mơi trường nhạy cảm. Kết quả là
9


có thể phá hủy hoặc làm thay đổi một cách không thể nhận ra được các nguồn
lợi tự nhiên và văn hoá mà chúng phụ thuộc vào. Ngược lại, Du lịch bền vững
thì được lập kế hoạch một cách cẩn thận từ lúc bắt đầu để mang lại những lợi
ích cho cộng đồng địa phương, tơn trọng văn hố, bảo tồn nguồn lợi tự nhiên.
Giáo dục du khách và cả cộng đồng địa phương. Du lịch bền vững có thể tạo
ra một lợi tức tương tự như du lịch đại chúng, nhưng có nhiều lợi ích được
nằm lại với cộng đồng địa phương và các nguồn lợi tự nhiên, các giá trị văn

hoá của vùng được bảo vệ.
Trong nhiều trường hợp, các hoạt động du lịch đại chúng trong quá khứ
có thể mang đến những tác động xấu đến bảo tồn do việc thiếu các cơ chế
quản lý và cơ chế lập kế hoạch có hiệu quả. Ngược lại, du lịch bền vững có
những kế hoạch hợp lí để giảm thiểu các tác động xấu của du lịch, đồng thời
còn đóng góp vào cơng tác bảo tồn và mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng
về cả mặt kinh tế và xã hội. Du lịch đại chúng không cung cấp nguồn quỹ tài
trợ cho các chương trình phúc lợi cho cộng đồng địa phương, hoặc các
chương trình bảo tồn nhằm bảo vệ cảnh đẹp tự nhiên của vùng. Nói cách
khác du lịch đại chúng chỉ quan tâm đến những lợi ích trước mắt, những lợi
ích cá nhân của nhà kinh doanh. Nhiều nhà đầu tư nước ngồi tìm đến các khu
vực có cảnh quan tự nhiên đẹp, đồng có những cơ chế quản lí lỏng lẻo về mơi
trường, xây dựng các khu du lịch có những đặc điểm điển hình của du lịch đại
chúng. Đây là vấn đề mà Việt Nam cần lưu ý khi kêu gọi đầu tư nước ngồi.
Những cơ hội và các đe dọa có thể chỉ được điều khiển thông qua du lịch bền
vững đã được lập kế hoạch và quản lý cẩn thận. Thực tế phát triển cho thấy
du lịch bền vững là mơ hình mang lại nhiều lợi ích hơn so với du lịch đại
chúng.
*Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững
Những nguyên tắc để đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững không
tách rời khỏi những nguyên tắc chung của phát triển bền vững. Trên cơ sở đó
10


kết hợp với những đặc điểm của ngành du lịch, Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên
Thế giới đưa ra mười nguyên tắc cho sự phát triển bền vững của ngành du
lịch.
Thứ nhất, sử dụng tài nguyên một cách bền vững bao gồm cả tài nguyên
thiên nhiên, xã hội và văn hóa.
Thứ hai, giảm tiêu thụ và xả thải quá mức, nhằm giảm các chi phí khắc

phục các suy thối mơi trường, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng du lịch.
Thứ ba, duy trì tính đa dạng: duy trì và phát triển tính đa dạng của tự
nhiên xã hội và văn hóa là rất quan trọng đối với du lịch bền vững, tạo ra sức
bật cho ngành du lịch.
Thứ tư, lồng ghép phát triển du lịch bền vững vào trong quy hoạch
phát triển địa phương và quốc gia.
Thứ năm, hỗ trợ nền kinh tế địa phương, du lịch phải hỗ trợ các hoạt
động kinh tế địa phương, phải tính tốn chi phí mơi trường để bảo vệ nền kinh
tế bản địa cũng như tránh gây hại cho môi trường.
Thứ sáu, thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương, điều này
khơng chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho mơi trường mà cịn tăng cường
đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách.
Thứ bảy, sự tư vấn của nhóm quyền lợi và của công chúng. Tư vấn
giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng, các tổ chức và cơ quan đảm bảo cho
sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh.
Thứ tám, đào tạo cán bộ kinh doanh du lịch, nhằm thực thi các sáng
kiến và giải pháp phát triển du lịch bền vững, nhằm cải thiện chất lượng các
sản phẩm du lịch.
Thứ chín, Marketting du lịch một cách có trách nhiệm, phải cung cấp
cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tơn
trọng của du khách đến môi trường tự nhiên xã hội và văn hóa của khu du
lịch, qua đó góp phần thỏa mãn nhu cầu du khách.
11


Thứ mười, triển khai các nghiên cứu, nhằm hộ trợ giải quyết các vấn
đề, mang lại lợi ích cho khu du lịch, cho nhà kinh doanh du lịch và cho du
khách.[10]
1.1.2. Nội dung của phát triển du lịch bền vững
Phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường: Du lịch là ngành

có định hướng tài nguyên rõ rệt, bởi vì tài ngun và mơi trường là nhân tố cơ
bản để tạo ra sản phẩm du lịch. Hoạt động du lịch đại chúng tác động tiêu cực
đến nguồn lợi tự nhiên như ảnh hưởng đến nhu cầu và chất lượng nguồn
nước, các chất thải, ơ nhiễm khơng khí, tiếng ồn và phong cảnh, làm nhiễu
loạn sinh thái tại khu du lịch,. Tình trạng này kéo dài sẽ gây ra những hậu quả
nghiêm trọng về môi trường, việc khắc phục sẽ rất tốn kém hoặc không thể
thực hiện. Phát triển du lịch bền vững coi phát triển bền vững tài nguyên mơi
trường là nội dung quan trọng hàng đầu, điều đó có nghĩa hoạt động khai khác
sẽ đi đơi với hoạt động bảo tồn. Du lịch bền vững sẽ bảo vệ và quản lí các
nguồn tài nguyên đặc biệt là nguồn tài nguyên không thể phục hồi. Giảm
thiểu tối đa sự ô nhiễm tài nguyên đất, nước, và không khí. Bảo vệ sự đa dạng
sinh học và các tài sản thiên nhiên khác.
Phát triển bền vững về xã hội: Du lịch bền vững không gây hại đến
các cấu trúc xã hội hoặc văn hoá của cộng đồng nơi mà chúng được thực hiện.
Thay vào đó thì nó lại tơn trọng văn hố và truyền thống địa phương. Khuyến
khích các bên liên quan tham gia trong tất cả các giai đoạn của việc lập kế
hoạch, phát triển và giám sát và tăng cường nhận thức của các bên liên quan
về vai trò của họ trong hoạt động du lịch. Du lịch bền vững chú trọng đến vấn
đề phân phối lợi ích cho cộng đồng địa phương, tạo ra cơ hội cải thiện cuộc
sống, nâng cao mức thu nhập và cung cấp dịch vụ cho người nghèo.
Phát triển bền vững về kinh tế: Du lịch bền vững đóng góp về mặt kinh
tế cho cộng đồng và tạo ra những thu nhập công bằng và ổn định cho cộng
đồng địa phương cũng như càng nhiều bên liên quan. Bên cạnh đó sự phát
12


triển bền vững về kinh tế cịn có nghĩa là sức sống của doanh nghiệp và hiệu
quả của hoạt động kinh tế du lịch, sự tái đầu tư của ngành đối với công tác
bảo tồn nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn.
1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong phát triển du lịch bền vững

Nhìn từ phương diện phát triển kinh tế đơn thuần thì du lịch có thể
được điều khiển một cách hiệu quả bởi khu vực tư nhân, tuy nhiên đối với sự
phát triển của du lịch bền vững địi nhất thiết phải có vai trị của Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước thể hiện một cách cơ bản nhất là giám sát hoạt động du
lịch có phù hợp với định hướng phát triển bền vững. Chính phủ có thể tác
động đến phát triển du lịch bền vững bằng cách thơng qua hệ thống bộ máy
chính quyền, tiến hành nghiên cứu những ảnh hưởng về môi trường, văn hóa,
kinh tế. Xây dựng các mơ hình kinh tế nhằm giúp cho việc xác định các mức
độ và hình thức phù hợp cho các hoạt động phát triển tại các khu vực thiên
nhiên và đô thị. Xây dựng các tiêu chuẩn và quy tắc cho việc đánh giá tác
động môi trường và văn hóa. Giám sát và kiểm tốn các hoạt động phát triển
du lịch thực hiện có theo kế hoạch dự kiến khơng. Thực hiện hệ thống kiểm
tốn mơi trường khu vực cho ngành du lịch.
Chính phủ có thể xem xét đến du lịch trong khi lập quy hoạch sử dụng đất
nhằm giảm thiểu những mâu thuẫn với cách thức sử dụng đất lâu đời và đảm
bảo sức chứa của các điểm du lịch sẽ phản ánh mức độ bền vững của sự phát
triển được giám sát điều chỉnh một cách phù hợp.
Chính phủ đưa ra các tiêu chuẩn thiết kế và xây dựng mà những tiêu
chuẩn này sẽ đảm bảo rằng các dự án phát triển du lịch sẽ phù hợp với văn
hóa địa phương và mơi trường tự nhiên
Chính phủ cũng có thể phát triển các kỹ thuật và cơng cụ thích hợp để
phân tích tác động của dự án du lịch đến các điểm được công nhận là di sản
văn hóa và các cơng trình cổ kính mà sự phân biệt này là một bộ phận không
thể thiếu của đánh giá tác động môi trường và văn hóa
13


Chính phủ có thể thực thi các quy định để ngăn ngừa việc buôn bán bất
hợp pháp các cổ vật, các sản phẩm thủ công dân gian các nghiên cứu khảo cổ
tự phát sự mất mát các giá trị thẩm mỹ.

Chính phủ cũng có thể lập nên những ban tư vấn về du lịch trong đó có
đại diện của: Dân bản địa, quảng đại quần chúng, ngành du lịch, các tổ chức
phi chính phủ, và những người khác và quá trình ra quyết định cần phải có sự
tham gia của tất cả các bên liên quan
Chính phủ có thể tăng cường và hỗ trợ du lịch bền vững bằng cách: Xây
dựng các chương trình giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng.Chỉ đạo các
cơ quan chức năng tham gia vào các hoạt động du lịch cùng với các bộ phận
khác có liên quan. Đảm bảo ngành du lịch có đại diện trong các buổi họp
quan trọng về quy hoạch kinh tế và mơi trường. Đưa chính sách phát triển du
lịch bền vững vào tất cả các thỏa thuận về phát triển du lịch địa phương cũng
như quốc gia. Chính phủ xây dựng một sơ đồ cho việc phát triển du lịch và
bảo tồn đa dạng sinh học thông qua các chính sách và luật. Ví dụ :
• Luật và quy chế xác định các tiêu chuẩn cho các phương tiện du lịch,
tiếp cận với các nguồn lợi đa dạng sinh học và quy chế sử dụng đất, phân
vùng. Điều này có thể địi hỏi những hiện trạng về tác động mơi trường trước
khi phát triển.
• Cơ sở hạ tầng: thiết kế, phát triển và quy chế (nước, năng lượng,
đường, sân bay…)
• Cơng cụ kinh tế được xác định trong các chính sách, ví dụ như: những
động cơ cho việc đầu tư du lịch bền vững và việc tạo ra các khu bảo vệ tư
nhân.
• Tiêu chuẩn về sự lành mạnh và độ an toàn, bao gồm những quản lý
chất lượng và quy chế các hoạt động kinh doanh; mục đích là bảo vệ người
tiêu dùng và thoả mãn những nhu cầu của cư dân – bao gồm các cộng đồng
truyền thống và người bản xứ - và bảo vệ cách sống của họ.
14


• Hình thành và duy trì các khu bảo vệ và các hành lang bảo tồn của các
mối quan tâm về du lịch. Các nhà quản lý của các khu bảo vệ công cộng

thường là những người thực hiện hiệu qủa nhất cho những lợi ích bảo tồn từ
việc phát triển du lịch.
• Phân chia các lợi tức thuế cho việc bảo vệ các điểm thu hút du lịch dựa
trên đa dạng sinh học như các công viên quốc gia và các khu bảo tồn.
Tại điểm du lịch, chính quyền địa phương thường chịu trách nhiệm thực
hiện chính sách liên quan đến du lịch và cơng tác bảo tồn. Chính quyền địa
phương đóng vai trị đàm phán giữa các mối quan tâm của địa phương và các
đơn vị kinh doanh từ bên ngoài, xã hội và các cơ quan trung ương, và họ nắm
giữ quyền điều chỉnh cần thiết và uỷ nhiệm phân vùng mà cho phép thực hiện
cưỡng chế theo các hướng dẫn và tiêu chuẩn. Mặt khác, năng lực của chính
quyền địa phương để quản lý ngành phức tạp và rời rạc này một cách hiệu quả
cũng như đảm bảo những đóng góp tích cực của nó đến các chiến lược của
cộng đồng cho việc phát triển bền vững là cịn phụ thuộc vào việc soạn thảo
các chính sách địa phương phải gắn kết với các công cụ và các cơ quan luật
quốc gia.
Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý đến sự thiếu đồng bộ trong chính sách, sự
phối hợp không nhịp nhàng giữa các cơ quan chức năng sẽ tạo ra những ảnh
hưởng tiêu cực đối với tài nguyên du lịch, đặc biệt là trong công tác bảo tồn
sự đa dạng sinh học. Đây cũng là bài học mà nhiều quốc đang phát triển đã
từng gặp phải, hậu quả là sự thất bại về mục tiêu của chính sách bảo tồn.
1.1.4. Chiến lược phát triển du lịch hướng đến sự bền vững
Vấn đề phát triển bền vững nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và
Nhà Nước, điều đó được cụ thể hóa bằng việc Chính phủ ban hành “Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam”, đây là văn kiện có tính
phương pháp luận chung cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội, ngành du lịch
cũng trên cơ sở này xây dựng chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020 và
15


tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược đã xác định phát triển du lịch trở thành

ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành khác phát
triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mang lại tiến bộ xã hội. Phát triển du lịch
bền vững, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa, gắn với an ninh,
quốc phịng, trật tự an tồn xã hội, khai thác tối ưu lợi thế quốc gia, các nguồn
lực trong và ngoài nước. Phấn đấu đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật tương đối đồng bộ, hiện đại, sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng,
có thương hiệu, có sức cạnh tranh mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, thân
thiện với môi trường, đưa Việt Nam trở thành điểm đến có đẳng cấp trong
khu vực. Năm 2030, đưa Việt Nam thành một trong những điểm đến du lịch
ưa chuộng, có đẳng cấp trên thế giới. Đồng thời chiến lược cũng xác định địa
bàn trọng điểm của du lịch Việt Nam,từ các địa bàn trọng điểm này, các khu
di lịch trọng điểm cũng được xác định trong chiến lược và trong quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch các trung tâm, các tỉnh trong địa bàn.
Quán triệt tinh thần nêu trên trong thời gian gần đây, các dự án, các kế
hoạch phát triển du lịch, đã chú trọng đến việc bảo tồn tài nguyên cho mục
tiêu phát triển bền vững lâu dài. Những tài nguyên có giá trị cao đối với du
lịch nhưng nhạy cảm với cá tác động của quá trình phát triển đã được đưa vào
khơng gian bảo tồn nghiêm ngặt, hoặc có kế hoạch khai thác giới hạn hoặc
đưa vào khơng gian có mức độ ưu tiên đầu tư phát triển thấp như các Vườn
quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu bảo vệ sinh cảnh, các khu bảo
tồn biển, các khu di sản… Trong các dự án phát triển du lịch ở các khu vực
nhạy cảm các nguyên tắc về phát triển bền vững đã được chú trọng. quá trình
khai thác tài nguyên cho phát triển du lịch đã thực hiện các hoạt động đánh
giá tác động mơi trường đưa ra các phân tích, dự báo và biện pháp khắc phục
cụ thể cho từng dự án khi phê duyệt. Hiện nay, các dự án phát triển du lịch
trong các Vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu dự trữ sinh
16



quyển đều tập trung đầu tư phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng
như các dự án phát triẻn du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ,
các vườn quốc gia Hoàng Liên, Cát Bà, Ba Bể, Bạch Mã, Chư Yang Sin, Yok
Don, Tràm Chim, Phú Quốc…
Hoạt động phát triển du lịch đang dần hướng tới cộng đồng dân cư cịn
nhiều khó khăn trong đời sống như ở các vùng nông thôn, vùng núi và hải đảo
xa xôi. Biểu hiện rõ rệt nhất là những loại hình du lịch thân thiện với mơi
trường đồng thời khai thác các giá trị tự nhiên và nhân văn ở các vùng sâu,
vùng xa, góp phần phát triển du lịch và nâng cao đời sống cộng dồng dân cư
dư du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái ngày càng được chú trọng và phát triển
rộng rãi. Quy hoạch tổng thể của du lịch Việt Nam đã xác định sản phẩm du
lịch đặc trưng của các vùng du lịch: vùng du lịch Bắc bộ là du lịch văn hóa
kết hợp với du lịch sinh thái, tham quan, nghi dưỡng; vùng du lịch Bắc Trung
bộ là du lịch tham quan các di tích văn hóa - lịch sử kết hợp với du lịch biển,
hang động và du lịch quá cảnh; vùng Nam Trung bộ và Nam bộ là du lịch
tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi, du lịch sông nước và du lịch sinh thái.
Một số khu du lịch sinh thái ở Việt Nam đã và đang khai thác có hiệu quả
nguồn tài nguyên du lịch và đóng góp cho sự phát triển cộng đồng. Trong đó
đáng kể là hai khu du lịch sinh thái được tổ chức du lịch thế giới đánh giá là
khu du lịch sinh thái bền vững của thế giới bao gồm: khu du lịch Văn Xá
(Cần Giờ - TP Hồ Chí Minh) và khu du lịch suối nước nóng Bình Châu
(Xun Mộc – Vũng Tàu).
1.1.5. Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững
Xây dựng chính sách phát triển du lịch hướng đến sự bền vững. Xã hội
hiện đại là một xã hội có tính tổ chức cao, mọi hoạt động đều được quản lí
bởi một bộ máy nhất định và có nó có vai trị quyết định đến hoạt động của
cộng đồng, hoạt động du lịch cũng không nằm ngồi quy luật chung đó, một
quốc gia hay một địa phương giàu tiềm năng về tài nguyên du lịch, nhưng
17



khơng có chính sách phát triển hợp lí thì cũng không phát huy một cách hiệu
quả các tiềm năng lợi thế sẵn có, hoạt động du lịch cũng là một hoạt động
kinh tế, nếu để nó diễn ra một cách tự phát sẽ dẫn đến tình trạng chạy theo
mục tiêu lợi nhuận, gây tổn hại đến tài nguyên và nhiều hậu quả nghiêm trọng
khác. Đây là bài học đã được lịch sử phát triển của ngành du lịch nhiều nơi
trên thế giới chứng minh. để đảm bảo phát triển du lịch bền vững cần phải có
chính sách phát triển hợp lí, thể hiện tầm nhìn chiến lược, phát huy được tiềm
năng thế mạnh, thu được lợi ích kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ
được tài nguyên môi trường. Tuy nhiên đây cũng là một thách thức không
nhỏ đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, bởi những hạn chế về
mặt kinh tế và trình độ hoạch định chính sách.
Phát triển cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật đảm bảo cho phát triển du
lịch bền vững. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những phương tiện vật chất của xã
hội, Nó bao gồm mạng lưới và phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên
lạc, cơng trình cung cấp điện, nước, cơng viên tồn dân, mạng lưới thương
nghiệp của khu dân cư, rạp chiếu phim, nhà hát, viện bảo tàng…v.v. Cơ sở
hạ tầng là đòn bẩy thúc đẩy sự mọi hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, đối
với ngành du lịch cơ sở hạ tầng là yếu tố khai thác tiềm năng du lịch và nâng
cao chất lượng dịch vụ du lịch, mặt khác phát triển du lịch cũng giúp phát
triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia hoặc một địa phương. Muốn phát triển
du lịch bền vững, cơ sở hạ tầng cần phải đi trước một bước, phải được đầu tư
hiện đại đồng bộ.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành
du lịch như hệ thống nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí và cơ sở vật
chất kỹ thuật của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia phục vụ du lịch:
thương nghiệp, dịch vụ… Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trị quyết định
trong q trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức
độ khai thác tài nguyên du lịch, thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì
18



vậy nên sự phát triển của ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây
dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật. Để đảm bảo cho việc phát triển du
lịch bền vững, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chú trọng mối quan hệ với tài
nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch có tính nhạy cảm cao.
Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ phát triển du lịch bền
vững. Trong hoạt động du lịch, chất lượng đội ngũ lao động ln là yếu tố
quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển. Điều này càng trở nên
cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của hoạt động du lịch. Chất lượng
đội ngũ lao động là nhân tố quan trọng trong việc quyết định chất lượng sản
phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và kết qủa cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu
quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng du lịch nhìn từ góc độ kinh tế. Như vậy,
chất lượng cao của đội ngũ lao động không chỉ là yếu tố thu hút khách, nâng
cao uy tín của ngành, của đất nước mà còn là một yếu tố quan trọng trong
cạnh tranh thu hút khác, đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững và được coi
là một trong những dấu hiệu quan trọng để nhận biết sự phát triển bền vững
của du lịch.
Đầu tư cho du lịch đảm bảo phát triển bền vững: Đối với bất kỳ ngành
kinh tế nào, đầu tư ln là địn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành kinh tế
đó. Các nguồn vốn đầu tư tồn tại dưới hai dạng là các nguồn vốn huy động và
các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu như các nguồn vốn đầu tư
trong nước, đặc biệt là các nguồn vốn huy động trong nhân dân để phát triển
các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, có tác dụng làm phong phú thêm các
loại hình dịch vụ tạo cơng ăn việc làm tránh rủi ro… thì các nguồn vốn đầu tư
nước ngồi lại có vai trị như địn bẩy thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch
nói riêng và nền kinh tế nói chung. Phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị
trường địi hỏi có sự thích nghi nhanh đối với những thay đổi bởi nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan để hạn chế được những rủi ro. Điều này có thể thực
hiện được nhờ việc phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

19


Với tư cách là một ngành kinh tế, hoạt động phát triển du lịch cần quan
tâm đến vấn đề này để đảm bảo sự phát triển bền vững đứng ở góc độ kinh tế.
Điều này càng có ý nghĩa đối với những quốc gia đang phát triển, nơi năng
lực quản lý ở quy mơ quốc gia cịn nhiều hạn chế. Đầu tư mang tính địa
phương sẽ hạn chế được tỷ lệ “rị rỉ” lợi nhuận du lịch. Ngồi ý nghĩa về mặt
kinh tế, việc phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ cịn có ý nghĩa về
xã hội, tạo điều kiện để một bộ phận lớn người lao động địa phương có việc
làm. Bên cạnh đó, đây cịn là môi trường thu hút được nguồn lực to lớn của xã
hội cho phát triển du lịch, phù hợp tính chất xã hội hóa cao của du lịch, đảm
bảo sự phát triển bền vững.
Ngoài việc xem xét đến nguồn và giá trị vốn đầu tư, trên quan điểm phát
triển bền vững, đối tượng đầu tư (cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ du
lịch, tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực…) cũng
là yếu tố quan trọng cần được đánh giá và xem xét như một dấu hiệu quan
trọng của phát triển bền vững. Việc xem xét, đánh giá dấu hiệu này có thể
thơng qua các chi tiêu về tỷ lệ vốn đấu tư cho tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi
trường trong một dự án hoặc tỷ lệ các khu, điểm du lịch của một địa phương
được đầu tư tôn tạo, bảo vệ. Khu vực nào, quốc gia nào càng có nhiều các
khu, điểm du lịch được đầu tư bảo vệ, tôn tạo chứng tỏ hoạt động phát triển
du lịch ở khu vực, quốc gia đó càng gắn với mục tiêu phát triển bền vững.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, nếu tỷ số này vượt quá 50% thì hoạt động du
lịch được xem là trong trạng thái phát triển bền vững.
Thêm vào đó, trong việc đầu tư, ngồi nguồn đầu tư từ Nhà nước hỗ trợ
phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn đầu tư quan trọng là từ thu nhập du lịch.
Nguồn đầu tư này càng lớn càng chứng tỏ được ý thức của ngành du lịch đối
với tầm quan trọng của phát triển bền vững. Chính vì vậy quy mơ đầu tư (tỷ lệ
tái đầu tư) từ thu nhập du lịch sẽ được xem là dấu hiệu nhận biết quan trọng

của phát triển du lịch bền vững từ góc độ đảm bảo bền vững của tài nguyên,
20


môi trường. Không những vậy, tỷ lệ doanh thu mà ngành du lịch trích lại cho
cơ quan chủ quản các nguồn tài nguyên du lịch để tái đầu tư càng cao chứng
tỏ khả năng phối hợp liên ngành tốt.
Tổ chức và kiểm tra các hoạt động du lịch đảm bảo phát triển bền
vững: Trong quá trình tổ chức và quản lý các hoạt động phát triển du lịch,
việc xây dựng quy hoạch làm căn cứ cho triển khai thực hiện các kế hoạc phát
triển cụ thể đóng vai trị quan trọng. Quy hoạch là q trình phân tích các tiềm
lực tài nguyên và các điều kiện có liên quan để xác định phương án phát triển
phù hợp, đảm bảo việc khai thác có hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch và
có được các giải pháp hạn chế tác động của hoạt động phát triển đến môi
trường, mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, số lượng các khu,
điểm du lịch được quy hoạch sẽ là dấu hiệu nhận biết của quá trình phát triển
du lịch bề vững đứng từ góc độ đảm bảo sự bền vững về tài ngun, mơi
trường cũng như từ góc góc đảm bảo sự phát triển về kinh tế, góp phần tích
cực vào q trình phát triển kinh tế - xã hội chung của khu vực.
Việc quản lý và hạn chế những áp lực lên môi trường và các nguồn tài
nguyên thông qua các biện pháp quản lý và giảm thiểu chất thải, mức độ kiểm
soát các hoạt động phát triển bao gồm cả các hoạt động bảo tồn và duy trì tính
đa dạng trong đó việc duy trì các hệ sinh thái đặc hữu đang bị đe dọa. Việc
kiểm soát các hoạt động phát triển phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cũng
được thực hiện thông qua việc tiến hành các thủ tục đánh giá tác động môi
trường tại các khu, điểm du lịch, hoặc một hình thức tương đương như các
hoạt động kiểm sốt chính thức về mơi trường tại các khu, điểm du lịch. Đây
là một trong những dấu hiệu nhận biết quá trình phát triển bền vững khá quan
trọng và được xác định thông qua việc xem xét có hay chưa có, thực hiện hay
chưa thực hiện các biện pháp quản lý, kiểm soát trên.

Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo xác định được cường độ hoạt
động của các điểm du lịch sao cho không vượt quá ngưỡng tiêu chuẩn về môi
21


trường, tiêu thụ năng lượng và sức chứa. Giới hạn lượng khách là cần thiết, vì
nó bảo vệ sự đa dạng sinh học, đảm bảo cung cấp năng lượng vừa đủ.
Phát triển du lịch bền vững cần chú ý đến độ hài lòng của cộng đồng
địa phương. Hoạt động phát triển du lịch sẽ bền vững nếu có được ủng hộ
của cộng đồng địa phương. Chính vì vậy, mức độ hài lòng của cộng đồng đối
với hoạt động du lịch sẽ phản ánh trạng thái bền vững của hoạt động du lịch
trong phát triển.
Để đạt được sự hài lòng của cộng đồng, vài trò của cộng đồng phải được phát
huy cũng như đem lại lợi ích cho cộng đồng, cụ thể:
- Phát huy được vai trò của cộng đồng trong xây dựng, triển khai quy
hoạch phát triển du lịch.
- Phát huy vai trò của cộng đồng trong giám sát thực hiện dự án đầu tư,
phát triển du lịch trên địa bàn.
- Tăng cường quy mô và mức độ tham gia của cộng đồng vào hoạt động
du lịch.
- Nâng cao mức sống của cộng động nhờ có hoạt động du lịch.
- Phúc lợi xã hội chung của cộng đồng được nâng lên
Để xác định được dấu hiệu này, cần tiến hành điều tra phỏng vấn cộng
đồng. Kết quả điều tra sẽ là căn cứ để điều chỉnh hoạt động sao cho phát triển
hoạt động du lịch mang tính bền vững hơn từ góc độ xã hội.
Nếu như việc thu hút khách du lịch quốc tế chủ yếu nhằm tăng nguồn thu
ngoại tệ cho nền kinh tế thì việc thu hút khách du lịch nội địa cịn có ý nghĩa
tạo điều kiện phân phối lại thu nhập giữa các thành phần lao động trong xã
hội, góp phần tạo thêm cơng ăn việc làm cho xã hội, hỗ trợ tích cực cho các
chương trình cứu trợ của Chính phủ như các chương trình xóa đói giảm

nghèo, nâng cao nhận thức cho cộng đồng… Như vậy đã góp phần quan trọng
trong việc thực hiện thành công mục tiêu đặt ra của phát triển bền vững cả
dưới góc độ về kinh tế và góc độ xã hội.
22


1.1.6. Tiêu chí đánh giá tính bền vững của hoạt động du lịch
Đánh giá tính bền vững của hoạt động du lịch bộ chỉ thị đánh giá
nhanh tính bền vững của điểm du lịch
Hoạt động du lịch dễ bị tổn thương bởi những tác động tiêu cực từ môi
trường, kinh tế và xã hội. Chỉ một sự cố môi trường xảy ra, du khách lập tức
sẽ chọn địa điểm du lịch khác. Vì vậy cần phải có những phương pháp thích
hợp đánh giá sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch. Những phương
pháp này một mặt là thước đo sự thành cơng của cơng tác quản lí điều hành,
mặt khác là hệ thống cảnh báo sớm giúp nhà quản lí phát hiện sớm phát hiện
tình trạng nguy hiểm của khu du lịch. Phương pháp đánh giá dựa vào bộ chỉ
thị môi trường là một cách giải quyết tối ưu cho vấn đề này. Nội của nó như
sau:
Thứ nhất, Bộ chỉ thị về đáp ứng nhu cầu của du khách:
 Tỷ lệ % số khách quay trở lại/tổng số khách
 Số ngày lưu chú bình quân/đầu du khách
 Tỷ lệ % các rủi ro về sức khỏe (bệnh tật, tai nạn) do du lịch/số lượng du
khách.
Thứ hai, Bộ chỉ thị để đánh giá tác động của du lịch lên phân hệ sinh thái
tự nhiên:
 % chất thải chưa được thu gom và xử lý
 Lượng điện tiêu thụ/du khách/ngày (tính theo mùa)
 Lượng nước tiêu thụ/du khách/ngày (tính theo mùa)
 % diện tích cảnh quan bị xuống cấp do xây dựng/tổng diện tích sử dụng do
du lịch.

 % số cơng trình kiến trúc khơng phù hợp với kiến trúc bản địa (hoặc cảnh
quan)/tổng số cơng trình.
 Mức độ tiêu thụ các sản phẩm động, thực vật quý hiếm (phổ biến, hiếm hoi,
khơng có).
23


×