Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phát triển kinh tế tư nhân ở hà tây thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 123 trang )

đại học quốc gia hà nội

khoa kinh tế


nguyễn văn vinh

phát triển kinh tế t- nhân ở hà tây
thực trạng và giảI pháp
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
MÃ số: 60 31 01

Tóm tắt luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học
PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai

Hà Nội - 2006


MỤC LỤC

Mở đầu ------------------------------------------------------------------------------------ 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ
NHÂN Ở VIỆT NAM ------------------------------------------------------------------- 5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của kinh tế tư nhân --------------------------------- 5
1.1.1. Khái niệm -------------------------------------------------------------------------- 5
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tƣ nhân --------------------------------------------------- 9
1.2. Vị trí của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế ------------------------- 10
1.3. Thực trang phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam ------------------------ 13
1.3.1. Những quan điểm và Chính sách của Nhà nƣớc đối với kinh tế tƣ nhân - 13


1.3.2. Những đóng góp của kinh tế tƣ nhân ------------------------------------------ 25
1.3.3. Những hạn chế và nguyên nhân trong phát triển kinh tế tƣ nhân ở Việt
Nam --------------------------------------------------------------------------------------- 36
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN Ở HÀ TÂY
THỜI KÌ ĐỔI MỚI ---------------------------------------------------------------------- 43
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây ---------------------------- 43
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên ---------------------------------------------------------------- 43
2.1.2. Đặc điểm kinh tế ----------------------------------------------------------------- 46
2.1.3 Đặc điểm xã hội ------------------------------------------------------------------- 52
2.1.4. Chính sách của Hà Tây đối với phát triển kinh tế tƣ nhân ------------------ 55
2.2. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Tây thời gian qua ----------- 60
2.2.1. Số lƣợng và quy mô của khu vực kinh tế tƣ nhân --------------------------- 60


2.2.2. Những đóng góp của kinh tế tƣ nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của Hà Tây-------------------------------------------------------------------------------- 69
2.2.3. Quản lý nhà nƣớc đối với kinh tế tƣ nhân trên địa bàn tỉnh Hà Tây------- 76
2.3. Đánh giá về quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Tây-------------- 78
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc --------------------------------------------------------- 78
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ------------------------------------------------ 79
Chương 3. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƢ NHÂN Ở HÀ TÂY TRONG THỜI GIAN TỚI ------------------- 83
3.1. Triển vọng phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn Hà Tây trong thời
gian tới------------------------------------------------------------------------------------ 83
3.2. Những quan điểm phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Tây ------------------ 87
3.3. Những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Tây trong
thời gian tới ------------------------------------------------------------------------------ 91
3.3.1. Giải pháp đối với bản thân khu vực kinh tế tƣ nhân ------------------------- 91
3.3.2. Giải pháp từ phía các cơ quan quản lý Nhà nƣớc và Chính quyền địa
phƣơng ------------------------------------------------------------------------------------ 94

3.3.2.1. Tạo môi trƣờng lành mạnh để kinh tế tƣ nhân có điều kiện phát triển hơn
nữa ----------------------------------------------------------------------------------------- 94
3.3.2.2. Giải pháp về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh ----------------- 101
3.3.2.3. Tạo điều kiện để kinh tế tƣ nhân tiếp cận vốn tín dụng dễ dàng hơn - 105
3.3.2.4. Tổ chức đào tạo nguồn nhân lực ------------------------------------------- 110
3.3.2.5. Tăng cƣờng vai trị của Chính quyền địa phƣơng ----------------------- 113
Kết luận -------------------------------------------------------------------------------- 117
Tài liệu tham khảo ------------------------------------------------------------------- 119


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trường được xem là một giai đoạn phát triển của kinh
tế hàng hoá, là thành tựu chung của nhân loại. Trong lịch sử, chủ nghĩa
tư bản là phương thức sản xuất đầu tiên biết tổ chức nền kinh tế theo
mô hình kinh tế thị trường và đã đạt được những thành tựu không thể
phủ nhận. Thực tế cho thấy, không một nước thành công trong phát
triển nền kinh tế thị trường lại thiếu vắng khu vực kinh tế tư nhân. Kinh
tế tư nhân như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển
trong nền kinh tế thị trường. Ngược lại, nền kinh tế thị trường là môi
trường cho hoạt động và phát triển của các thành phần kinh tế trong đó
có kinh tế tư nhân.
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định kinh tế tư nhân là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là vấn đề chiến lược lâu
dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế tư nhân đã góp
phần quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế, giải
quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho một bộ phận

lớn người dân, huy động và phát huy có hiệu quả các nguồn lực trong
xã hội, hơn nữa, kinh tế tư nhân cịn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Với vai trò như vậy, kinh
tế tư nhân ngày càng được chú trọng trong chính sách phát triển kinh
tế-xã hội của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay, cùng với quá trình đổi mới của đất nước nói chung và ở
Hà Tây nói riêng, nhận thức và phát triển kinh tế tư nhân đang đứng
trước nhiều vấn đề và yêu cầu mới đặt ra địi hỏi phải có chính sách và
giải pháp để xử lý kịp thời, có hiệu quả, tạo những đột phá tích cực
nhằm tạo điều kiện và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế
tư nhân. Hà Tây là một tỉnh có nhiều tiềm năng to lớn để phát triển mọi
mặt đời sống kinh tế-xã hội nhờ có lợi thế về vị trí địa lý, về con người.
Cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, kinh tế Hà Tây trong những


2

năm qua cũng khơng ngừng phát triển, trong đó kinh tế tư nhân đóng
một vai trị hết sức quan trọng. Tuy nhiên với những kết quả đã đạt
được có thể nói kinh tế tư nhân ở Hà Tây phát triển chưa tương xứng
với tiềm năng sẵn có. Việc tiếp tục nghiên cứu tìm tịi những mặt hạn
chế, những trở ngại của sự phát triển kinh tế tư nhân trong cả nước nói
chung và của Hà Tây nói riêng là một việc thiết thực, cấp bách nhằm
tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa đúng với
tiềm năng và lợi thế của nó, góp phần vào sự phát triển chung của nền
kinh tế. Đề tài: “Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Tây: Thực trạng và
giải pháp” với mong muốn góp phần vào sự phát triển kinh tế tư nhân ở
Hà Tây trong tiến trình đổi mới của nền kinh tế. Nội dung trình bày
trong luận văn mới chỉ là những kết quả nghiên cứu ban đầu, chắc chắn
cần được bổ sung, hoàn thiện cùng với sự vận động, phát triển của thực

tiễn
2. Tình hình nghiên cứu
Trên bình diện quốc gia, vấn đề phát triển kinh tế tư nhân đã
được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, trong đó tập trung đi vào
phân tích những vấn đề về lý luận, bản chất về sự tồn tại khách quan,
vai trị và vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện kinh tế thị
trường:
- Hà Huy Thành: “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản
tư nhân: Lý luận và chính sách“, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
- GS.TS Hồ Văn Vĩnh: “Quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà
nước về kinh tế tư nhân“, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003
- GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền và các tác giả: “Sở hữu tư nhân và
kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam“, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2003
- TS. Đinh Thơm: “Kinh tế tư nhân trong giai đoạn toàn cầu hố
hiện nay“, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005
Ngồi ra, cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết thiết thực,
nhiều cuộc hội thảo bàn về kinh tế tư nhân. Với nhiều cách tiếp cận


3

khác nhau, các học giả đã nêu lên những vấn đề có tính quy luật, những
đặc trưng của kinh tế tư nhân cũng như vai trị của nó trong sự phát
triển của nền kinh tế chuyển đổi.
Tuy nhiên, ở Hà Tây chưa có một cơng trình nghiên cứu một cách
tồn diện về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong nhiều năm
qua. Có rất nhiều vấn đề về phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện
hoàn cảnh của tỉnh cần tiếp tục được nghiên cứu, tổng kết và đúc rút
kinh nghiệm để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển theo hướng cơng

nghiệp hố - hiện đại hố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: phân tích những vấn đề cơ sở lý luận và
thực tiễn của khu vực kinh tế tư nhân, đánh giá thực trạng phát triển
kinh tế tư nhân ở Hà Tây nhằm đưa ra phương hướng và các giải pháp
chủ yếu để tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân trong địa bàn tỉnh Hà Tây
trong những năm tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân của Hà Tây
- Đưa ra phương hướng và các giải pháp cụ thể nhằm phát triển
kinh tế tư nhân ở Hà Tây.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Kinh tế tư nhân là một khái niệm rộng, trong nền kinh tế nhiều
thành phần của Việt Nam như hiện nay, việc xác định phạm vi của kinh
tế tư nhân là khá phức tạp. Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn
nghiên cứu kinh tế tư nhân như một khu vực kinh tế khách quan tồn tại
trong tiến trình phát triển kinh tế. Việc phân tích thực tiễn phát triển
kinh tế tư nhân sẽ chỉ giới hạn trong khuôn khổ địa bàn tỉnh Hà Tây
trong thời kỳ đổi mới.
5. Phương pháp nghiên cứu


4

- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng các phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp lơgíc và lịch sử,
phân tích, so sánh và tổng hợp.
- Ngoài ra các sử dụng các phương pháp: nghiên cứu tài liệu, điều

tra, khảo sát, thống kê,...
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận - thực tiễn cũng như
những nhận thức mới về khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện nền
kinh tế hiện nay.
- Phân tích đánh giá một cách khách quan, trung thực thực trạng
quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Tây.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng, các giải pháp kiến nghị
để góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Hà Tây có điều
kiện phát triển hơn nữa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được chia làm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở
Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Tây thời
kỳ đổi mới.
Chương 3: Những quan điểm và giải pháp chủ yếu phát triển kinh
tế tư nhân ở Hà Tây thời gian tới.

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN


5

1.1.1. Khái niệm
Khái niệm về kinh tế tư nhân gắn liền với nền kinh tế thị trường,

một giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế tư nhân gắn
chặt với sự hình thành, phát triển nền kinh tế hàng hố, ngược lại, sự
hình thành, phát triển của nền kinh tế hàng hoá lệ thuộc vào sự phát
triển của kinh tế tư nhân. Mối quan hệ giữa kinh tế tư nhân với kinh tế
hàng hoá và kinh tế thị trường là mối quan hệ song hành, gắn bó chặt
chẽ với nhau, chế định lẫn nhau và thúc đẩy cùng nhau phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá kinh tế tư nhân là loại hình kinh tế tồn tại
và phát triển dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vốn
và kết quả sản xuất kinh doanh.
Ở Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về thuật
ngữ kinh tế tư nhân (hay khu vực kinh tế tư nhân) dựa trên những cách
hiểu khác nhau về quan hệ sở hữu. Theo cách hiểu rộng nhất, nền kinh
tế của một quốc gia được cấu thành bởi 2 bộ phận chính: kinh tế tư
nhân và kinh tế nhà nước tương ứng với sở hữu nhà nước và sở hữu tư
nhân. Ngồi ra cịn có bộ phận hỗn hợp, ở đó có sự đan xen giữa sở hữu
nhà nước và sở hữu tư nhân.
Liên quan đến các quan hệ sở hữu có khái niệm thành phần kinh
tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế dựa vào
một hình thức sở hữu nhất định. Văn kiện Đại hội X Đảng cộng sản
Việt Nam xác định nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
CNXH có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh
tế tư nhân (kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân); kinh tế tư
bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Bên cạnh đó, trong rất nhiều nghiên của các cá nhân và tổ chức
trong và ngoài nước, nền kinh tế Việt Nam còn được phân thành kinh tế
nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp; hoặc kinh tế quốc doanh,


6


kinh tế ngồi quốc doanh (trong đó có kinh tế tư nhân), kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi (đây cũng là cách phân chia mà Tổng cục thống kê
sử dụng để thống kê hoạt động của nền kinh tế hiện nay)
Như vậy, cho đến nay, cách hiểu về kinh tế tư nhân và phạm vi
của nó chỉ mang tính chất tương đối và tuỳ theo quy ước. Trong nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay việc xác định
phạm vi của kinh tế tư nhân là khá phức tạp. Trong luận văn này, khái
niệm kinh tế tư nhân dùng để chỉ các thành phần kinh tế tồn tại và phát
triển dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vốn và kết
quả sản xuất kinh doanh. Các bộ phận cấu thành khu vực kinh tế tư
nhân bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ (kể cả kinh tế hộ và trang trại);
kinh tế tư bản tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ
dưới nhiều hình thức tổ chức quản lý khác nhau như: doanh nghiệp tư
nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh.
* Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là thành phần kinh tế xuất
hiện ở Việt Nam trong giai đoạn hoạt động thực tiễn cải tạo XHCN.
Khái niệm kinh tế cá thể xuất hiện khi có chủ trương hợp tác hố hoặc
đưa các hộ nơng dân độc lập, riêng rẽ vào kinh tế tập thể dưới hình thức
HTX. Kinh tế cá thể được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình
hay cá nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của
chính hộ gia đình hay cá nhân đó, khơng thường xuyên thuê lao động.
Kinh tế cá thể được xác định bởi hai tiêu thức: trình độ phát triển thấp
và sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Loại hình kinh tế tiểu chủ về cơ bản
giống kinh tế cá thể, tuy nhiên có vẻ khác biệt là kinh tế tiểu chủ có
th lao động, quy mơ trình độ tổ chức quản lý cao hơn (tiêu biểu là
loại hình kinh tế trang trại trong nông lâm nghiệp)


7


Ở Việt Nam, thành phần kinh tế này chiếm một tỉ trọng rất lớn,
đóng góp một phần quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và
giải quyết nhiều việc làm, đặc biệt là khu vực nông thôn.
Theo Nghị định 66/HĐBT ngày 02/03/1992 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) và Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày
02/04/2004 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh, thì hộ kinh doanh cá
thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa
điểm cố định, không thường xuyên thuê lao động (sử dụng không quá
10 lao động), không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài
sản của mình đối với mọi hoạt động kinh doanh.
* Thành phần kinh tế tư bản tư nhân (KTTBTN):
Là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản
trong hoặc ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh. Nét nổi bật của
thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp về
TLSX, thuê và bóc lột sức lao động làm thuê. Nếu xét dưới khía cạnh
chủ thể kinh tế thì thành phần kinh tế tư bản tư nhân gồm các chủ thể
kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, họ là các chủ tư bản chiếm hữu tư
nhân về tư bản, do đó chiếm hữu tư nhân về giá trị thặng dư, những chủ
thể kinh doanh này đại diện cho quan hệ sản xuất TBCN.
KTTBTN được tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Theo
quy định của luật doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2000, các loại hình
doanh nghiệp được hiểu như sau:
+ Cơng ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH): Bao gồm công ty TNHH
một thành viên và công ty TNHH từ hai thành viên trở lên.
Công ty TNHH hai thành viên trở lên: là doanh nghiệp được
thành lập trên cơ sở các thành viên trong đó các thành viên chịu trách


8


nhiệm về các khoản nợ và có các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
Cơng ty TNHH một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức
làm chủ sở hữu và phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Cơng ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp phép
đăng kí kinh doanh và không được phát hành cổ phiếu
+ Công ty cổ phần: là loại hình doanh nghiệp được thành lập trên
cơ sở góp vốn của các cổ đơng và các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn
của cơng ty. Ngồi ra, cơng ty cổ phần có thể huy động vốn thông qua
phát hành cổ phiếu, chứng khốn.
+ Cơng ty hợp danh: là loại hình doanh nghiệp trong đó phải có ít
nhất hai thành viên hợp danh, ngồi các thành viên hợp danh có thể có
thành viên góp vốn, những người chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi
vốn góp của mình và có thể nhận cổ tức từ lợi nhuận của công ty.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chun mơn, uy tín
nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm về toàn bộ các khoản nợ của cơng
ty bằng tồn bộ tài sản cá nhân của mình. Cơng ty hợp danh được phép
linh hoạt trong việc xác định cơ cấu quản lý với điều kiện cơ cấu này
phải được nêu chi tiết trong điều lệ của công ty.
+ Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân sở hữu
và tự chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt
động của công ty. Đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp tư nhân là chủ sở
hữu doanh nghiệp là một cá nhân duy nhất, do đó khơng có sự tách
bạch giữa tài sản của doanh nghiệp và tài sản của chủ sở hữu. Do vậy,
doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm



9

bằng tồn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ và các nghĩa vụ
khác.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tƣ nhân .
* Kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích tư nhân và là động lực thúc
đẩy xã hội phát triển
Kinh tế tư nhân gắn liền với sở hữu tư nhân, nên nó ra đời và phát
triển tự nhiên khi xuất hiện tư hữu. Trong một chế độ kinh tế, chừng
nào cịn tồn tại tư hữu thì tất yếu còn kinh tế tư nhân. Sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người từ xưa đến nay đã cho thấy rằng lợi ích của
mỗi cá nhân là động lực trước hết và chủ yếu thúc đẩy xã hội phát triển.
Các chủ thể trong khi chạy theo lợi ích cá nhân của mình ln tìm cách
sử dụng các nguồn lực khan hiếm sao cho có hiệu quả nhất, chi phí sản
xuất thấp nhất, điều này thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật và phân bổ nguồn
lực có hiệu quả. Như vậy các cá nhân hành động theo lợi ích cá nhân
của mình cũng chính là đã tạo ra lợi ích xã hội. Sự phát triển của nền
kinh tế thị trường đã cho thấy tính ưu việt của nó, trong đó chủ yếu dựa
trên lợi ích cá nhân, tơn trọng lợi ích cá nhân. Vấn đề là Nhà nước, với
tư cách là tổ chức quản lý xã hội, phải định hướng, dẫn dắt lợi ích cá
nhân hài hồ với lợi ích xã hội.
* Kinh tế tư nhân là mơ hình tổ chức kinh doanh của nền sản xuất
hàng hố ở giai đoạn cao
Hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp là sản phẩm của nền sản
xuất xã hội hố. Nó được phát triển cùng với sự xác lập của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và gắn liền với nền đại cơng nghiệp.
Trước đó, đơn vị sản xuất cơ bản của nền kinh tế xã hội là các gia đình
dựa trên cơ sở huyết thống hoặc cơng trường thủ cơng. Với hình thức tổ
chức sản xuất doanh nghiệp, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất
tăng lên nhiều, trình độ xã hội hố cũng dược phát triển nhanh chóng.



10

Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng
hố. Trong đó, cơ cấu của nền kinh tế thị trường chủ yếu là dựa trên cơ
sở của mơ hình tổ chức doanh nghiệp có mục tiêu hàng đầu là tạo ra lợi
nhuận, động lực chính cho sự tồn tại và phát triển của nó. Trong lịch sử
phát triển của xã hội loài người cho đến nay, đó là mơ hình tổ chức
kinh doanh có hiệu quả nhất, có vai trị tiến bộ nhất để thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Và như vậy, mơ hình tổ chức sản xuất
doanh nghiệp đã, đang và sẽ cịn tiếp tục là một mơ hình tổ chức kinh tế
có hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường hiện đại
* Kinh tế tư nhân là nền tảng của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là phương tiện để đạt đến một nền sản xuất
lớn, hiện đại. Sự khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa lấy cơ chế
kế hoạch hoá nền kinh tế càng cho phép chúng ta khẳng định rằng các
quốc gia dù với chế độ chính trị khác nhau, đều khơng thể khơng sử
dụng cơ chế thị trường. Ngược lại, kinh tế thị trường khó có thể tồn tại
và phát triển nếu khơng có sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Cơ chế
thị trường hiện đại chính là dạng thức sinh tồn của kinh tế tư nhân mà
điển hình là mơ hình tổ chức doanh nghiệp. Hình thức tổ chức này là
sản phẩm tự nhiên của cơ chế thị trường và tự nó lớn lên trong cơ chế
thị trường.
Như vậy, bất kỳ một nền kinh tế nào hoạt động theo cơ chế thị
trường đều phải thừa nhận và khuyến khích sự tồn tại, phát triển của
kinh tế tư nhân, là cơ sở của sự cạnh tranh, thức đẩy sản xuất và tăng
trưởng kinh tế.
1.2. VỊ TRÍ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ

Kinh tế tư nhân gắn liền với sở hữu tư nhân, nó ra đời, tồn tại và
phát triển trong một thời kì lịch sử nhất định của sự phát triển xã hội


11

lồi người. Điều đó là khách quan do trình độ của lực lương sản xuất
(LLSX) quy định. Vào cuối thời kì cộng sản ngun thuỷ, LLSX đã có
sự phát triển hơn so với trước nhưng chưa đến mức có thể tạo ra của cải
thoả mãn nhu cầu cho mọi người trong cộng đồng. Một số trường hợp
ngững người quản lý chiếm đoạt một bộ phận của cải, biến tài sản công
cộng thành của riêng, chế độ tư hữu, giai cấp và Nhà nước ra đời từ
đây. Sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân tồn tại, phát triển qua các hình
thức kinh tế-xã hội mà đỉnh cao là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Trong thời kì quá độ lên chủ nhĩa xã hội (CNXH), kinh tế tư nhân tồn
tại, cịn phát triển vì LLSX chưa phát triển đến mức làm cho nó tự tiêu
vong, nó vẫn cần thiết cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Kinh tế tư nhân
chỉ có thể mất đi khi nó tự phủ định nó.
Mặt khác, chúng ta cũng cần phải nắm rõ được quy luật phát triển
của các hình thức kinh tế-xã hội, cũng như quy luật phát triển của kinh
tế tư nhân, sở hữu tư nhân.
Trong tuyên ngôn Đảng Cộng Sản, C.Mác đã chỉ ra: “Người cộng
sản có thể khái quát lý luận của mình bằng một câu: xố bỏ chế độ sở
hữu tư nhân” (Mác-Ănggen tuyển tập, Tập 1). Tuy nhiên, cần phải hiểu
xoá bỏ kinh tế tư nhân ở đây là một quá trình lịch sử do quy luật khách
quan quyết định chứ không phải do sự áp đặt chủ quan. Xố bỏ chế độ
tư hữu có thể áp dụng các phương thức khác nhau để giải quyết, xoá bỏ
tư hữu là nhằm xoá bỏ hiện tượng lợi dụng quyền sở hữu tài sản (hay tư
liệu sản xuất) để nô dịch hay bóc lột người khác và xố bỏ tất cả các
quan hệ quyền sở hữu cản trở sử dụng tái sản xuất để tạo ra của cải cho

xã hội, xây dựng lại chế độ sở hữu tư nhân. Ở đây “chế độ sở hữu cá
nhân là đồng nhất về mặt nội hàm với “chế độ sở hữu xã hội”. Đặc biệt
C.Mác còn chỉ ra sự phát triển của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân
trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Theo C.Mác thì


12

cơng ty cổ phần “bản thân nó được xây dựng trên cơ sở phương thức
sản xuất xã hội và tư bản, lấy việc tập trung xã hội về tư liệu sản xuất
và sức lao động làm tiền đề, ở đây đã đạt được một cách trực tiếp hình
thức tư bản xã hội (tức là những tư bản cá nhân đã trực tiếp liên kết lại)
và đối lập với tư bản tư nhân, đồng thời xí nghiệp của nó cũng biểu
hiện thành xí nghiệp xã hội và đối lập với xí nghiệp tư nhân. Đây chính
là sự phủ định tư bản với tư cách là tài sản tư nhân trong phạm vi của
chính phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.” (C.Mác, Tư bản, Tập 3).
Như vậy, chế độ cổ phần (bước phát triển tất yếu của tư nhân) là sự phủ
định khu vực kinh tế tư nhân của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở của chính
hệ thống tư bản chủ nghĩa, chứ khơng phải là việc xố bỏ một cách ép
buộc theo ý chí chủ quan nào cả, nó càng mở rộng càng xâm nhập vào
các ngành sản xuất, nó sẽ xố bỏ khu vực tư nhân khi đã phát triển đến
một trình độ nhất định.
Cho đến nay, ở nhiều nước XHCN đã thừa nhận sự tồn tại tất yếu
của kinh tế thị trường cùng các khái niệm tư bản, tư bản nhà nước, thị
trường tư bản, mở cửa thực sự được xem là một bước đột phá trong tư
duy cũng như chính sách kinh tế của CNXH. Đặc biệt đối với những
nước có nền kinh tế chuyển đổi hoặc đang phát triển ở trình độ thấp của
CNXH, càng khơng thể xố bỏ chế độ sở hữu tư nhân chỉ vì nó là thành
phần có sự bóc lột. Chế độ sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân còn và sẽ
tồn tại lâu dài góp phần quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh

tế.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy kinh tế tư nhân
tồn tại trong thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan và lâu dài,
không thể dùng ý muốn chủ quan để xố bỏ nó, khơng nên phân biệt,
đồng thời phải được đối xử công bằng, đúng đắn và khoa học.


13

1.3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT
NAM
1.3.1. Những quan điểm và chính sách của Nhà nƣớc đối với
kinh tế tƣ nhân
1.3.1.1. Giai đoạn trước đổi mới
Ở nước ta, tư tưởng về kinh tế tư nhân được Bác Hồ nêu lên từ rất
sớm. Bác coi kinh tế của tư bản dân tộc, kinh tế tư nhân của nông dân,
tiểu thương là lực lượng cần thiết cho công cuộc xây dựng nước nhà,
Chính phủ cần phải giúp họ phát triển. Hồ Chí Minh chỉ rõ: phát triển
kinh tế tư nhân một mặt động viên được nguồn lực từ trong dân, mặt
khác kinh tế quốc doanh mới ra đời còn non trẻ, cần được sự giúp đỡ,
hỗ trợ từ các thành phần kinh tế khác góp chung vào sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Thành phần kinh tế quốc doanh sẽ ngày càng lớn
mạnh, đóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế, do dó nền kinh tế nước ta
sẽ đi theo con đường XHCN chứ không theo TBCN. Mặt khác, Hồ Chí
Minh cũng nhấn mạnh rằng sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân
là một tất yếu khách quan chứ không theo ý muốn chủ quan, vì vậy
chúng ta chỉ có thể tác động làm cho nó phát triển đúng quy luật mà
thơi.
Sau khi nước Việt Nam DCCH được thành lập (2/9/1945), ngày
9/10/1945 Chính phủ Việt Nam ban hành sắc lệnh về việc cho phép các

công ty và các hãng ngoại quốc được phép tiếp tục công việc doanh
nghiệp (Công báo 1945 tr3). Kế đó, ngày 30/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh tun bố: “trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt
động để giành lấy hoàn toàn nền độc lập của nước nhà, thì giới cơng thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững
vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tơi sẽ tận tâm giúp giới


14

công - thương trong công cuộc kiến thiết này (Hồ Chí Minh tồn tập,
Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội 2000, tập 4 trang 49)
Như vậy, ngay từ khi giành được độc lập, Đảng và Nhà nước luôn
tôn trọng và thừa nhận vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh
của tư nhân trong việc phát triển kinh tế. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng (năm 1951) xác định: Xây dựng kinh tế quốc dân
cần có tư bản, giai cấp tư sản dân tộc cịn và có thể góp phần vào việc
phát triển cơng thương nghiệp nhà nước.
Trong giai đoạn khôi phục kinh tế ở Miền bắc (1955-1957) Đảng
và Nhà nước đã chủ trương duy trì và phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần trong đó có kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Nghị quyết
Bộ Chính trị (tháng 9/1954) xác định: “phải hết sức coi trọng công tác
phục hồi cơng thương nghiệp tư hiện có tiếp tục kinh doanh”. Tháng
5/1955 Chính phủ ban hành 8 chính sách khuyến khích sản xuất mà
trước hết là kinh tế nông dân, bao gồm:
- Đảm bảo quyền sử dụng đất đai
- Đảm bảo tài sản cho nông dân và các tầng lớp khác
- Tự do thuê mướn nhân công, công cụ lao động, tự do đi vay và
cho vay
- Khuyến khích phát triển tổ đổi cơng
- Khuyến khích phát triển nghề phụ, nghề thủ cơng

- Khuyến khích và khen thưởng những người dân làm ăn giỏi
- Nghiêm cấm phá hoại sản xuất.
Nhờ có chủ trương và chính sách đúng đắn đó, kinh tế Miền bắc
đã khơi phục nhanh chóng, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển
đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Năm 1955, công nghiệp tư
doanh và tiểu thủ cơng nghiệp ở Miền bắc có tới 51.668 cơ sở với
128.622 công nhân; năm 1956 tăng lên 54.985 cơ sở với 162.241 công


15

nhân. Đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân giai đoạn này là thương
nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng chủ yếu. Đến năm 1957, trong cơ cấu giá
trị sản xuất toàn xã hội, kinh tế tư nhân và cá thể chiếm tỷ trọng rất lớn
(71,9%) trong khi đó kinh tế quốc doanh và công ty hợp doanh chỉ
chiếm 17,9%, kinh tế tập thể chiếm 0,2%. [7]
Từ năm 1958, Miền bắc nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển
kinh tế với với mục tiêu xây dựng CNXH. Trong thời kỳ này, quan
niệm về CNXH là công hữu về tư liệu sản xuất, là sự thống trị của kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đề ra
nhiệm vụ cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế tư nhân, những
người làm ăn cá thể. Mục tiêu cơ bản là biến nền kinh tế nhiều thành
phần thành nền kinh tế XHCN với hai hình thức chủ yếu là quốc doanh
và tập thể. Nội dung cải tạo trong giai đoạn này là:
- Quốc hữu hoá các xí nghiệp của chính quyền cũ va tư sản mại
bản
- Cải tạo hồ bình với tư sản dân tộc bằng cơng tư hợp doanh
- Tập thể hố nơng nghiệp và cơng thương nghiệp cá thể
Với tình hình nêu trên làm kinh tế tư nhân vừa manh nha phát
triển đã bị thu hẹp và không được thừa nhận, tôn trong về mặt xã hội.

Kết quả là trong giai đoạn 1960-1975, ở Miền bắc về cơ bản khơng cịn
kinh tế tư bản tư nhân.
Giai đoạn 1975-1980, khi Miền nam hoàn toàn giải phóng, cả
nước thống nhất. Đảng và Nhà nước tiếp tục công cuộc cải tạo CNXH ở
Miền bắc và triển khai mạnh mẽ ở Miền nam, nhưng trong cơng nghiệp
vẫn có trên 60 vạn người sản xuất cá thể, chiếm 20% tổng số lao động
ngành công nghiệp và tạo ra khoảng 15% giá trị sản lượng toàn ngành.
Số người kinh doanh thương nghiệp ở mức 60 vạn người. Trong nông
nghiệp, hộ nông dân là xã viên hợp tác xã nông nghiệp thu nhập từ kinh


16

tế tập thể chỉ chiếm 30 - 40%, kinh tế phụ gia đình - mà thực chất là
kinh tế tư nhân chiếm tới 60 – 70%. [9]
Thực tế trên cho thấy, sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân
là một yêu cầu khách quan. Nhà nước không chỉ thừa nhận mà còn phải
biết khai thác tiềm năng, thúc đẩy nó phát triển hơn nữa phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
1.3.1.2. Giai đoạn sau đổi mới
Đây là thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Cho đến năm 1985, thành phần kinh tế quốc doanh
và tập thể chiếm vị trí tuyệt đối trong cơ cấu của nền kinh tế. Mặc dù
vậy, nền kinh tế vào thời điểm nay lại rơi vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng, đời sống của nhân dân vơ cùng khó khăn, sản xuất khơng
phát triển, hàng hố khan hiếm, Thành phân kinh tế quốc doanh tuy
được xác định là đóng vai trị chủ đạo nhưng lại tỏ ra kém hiệu quả.
Thực tế này cho thấy, những cải cách về mặt kinh tế trước đó tỏ ra
khơng phù hợp với thực tiễn
Với tư duy đổi mới, Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng đã xác

định công cuộc cải tạo và xây dựng XHCN là nhiệm vụ thường xuyên
liên tục trong suốt thời kỳ q độ với những hình thức và bước đi thích
hợp. Do vậy, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế, coi đó là giải pháp có ý nghĩa chiến lược lâu dài nhằm
giải phóng mọi năng lực sản xuất và khai thác mọi tiềm năng của đất
nước. Với nhận thức như vậy, Đảng đã xác định thời kỳ quá độ lên
CNXH vẫn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, bao gồm: Kinh tế quốc
doanh; kinh tế tập thể và kinh tế phụ gia đình; các thành phần kinh tế
khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, kinh tế tư bản chủ nghĩa,
kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp. Các Đại hội


17

VII, VIII và IX tiếp tục hoàn thiện các quan điểm đã nêu ra ở Đại hội
VI, từng bước khẳng định vị trí và vai trị của kinh tế tư nhân.
Đại hội VII của Đảng khẳng định sự nhất quán trong việc phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội còn xác định rõ hơn quan
điểm của Đảng đối với kinh tế tư nhân là: Kinh tế cá thể và kinh tế tư
bản tư nhân được khuyến khích và phát triển , không hạn chế việc mở
rộng kinh doanh và có thể áp dụng nhiều hình thức liên doanh với các
doanh nghiệp khác trong các ngành nghề mà Nhà nước và pháp luật
không cấm.
Đại hội VIII đã làm rõ thêm quan điểm đối với phát triển kinh tế
tư nhân, tạo lập môi trường thuận lợi hơn để kinh tế tư nhân phát huy
lợi thế của mình: kinh tế tư nhân được hướng dẫn, giúp đỡ phát triển,
đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý của Nhà nước, được
bảo hộ quyền sở hữu và những lợi ích hợp pháp, trong đó kinh tế cá thể
và tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối mở rộng ở những nơi chưa
có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng dẫn tư bản tư nhân phát

triển theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX khẳng định: kinh tế tư nhân là một
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế: “Thực hiện nhất quán
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” (Văn kiện ĐH Đảng IX,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, trang 95-96). Đối với kinh tế tư
nhân: “kinh tế cá thể, tiểu chủ ở cả thành thị và nông thơn có vị trí quan
trọng lâu dài, Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến
khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các
doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn; khuyến khích phát triển kinh tế
tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề mà pháp luật không


18

cấm. Tạo mơi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để
kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà
nước (Văn kiện Đại hội Đảng IX, trang 98-99).
Quán triệt quan điểm của Đại hội IX, Nghị quyết hội nghị TW 5
(khoá IX) chỉ rõ: phát triển kinh tế tư nhân ở những ngành, lĩnh vực mà
luật pháp không cấm, đồng thời chú trọng nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với hoạt động khu vực kinh tế tư nhân, bảo đảm định
hướng XHCN của nền kinh tế, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của hội nhập
kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước và bằng sự năng động sáng tạo của minh, kinh tế tư nhân trong
hơn 10 năm qua đã có sự phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, công nghiệp hoá - hiện đại
hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Cùng với quá trình đổi mới về tư duy kinh tế, đặc biệt là trong
thời kỳ đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp để
khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Vì vậy, khu vực kinh tế tư
nhân đã khơng ngừng lớn mạnh, góp phần quan trọng vào sự phát triển
chung của nền kinh tế, thu hút đông đảo các tầng lớp, dân cư tham gia.
Trong giai đoạn 1990 - 1995, kinh tế cá thể, tiểu chủ trong lĩnh vực phi
nông nghiệp tăng rất nhanh. Nếu năm 1990 mới có khoảng 840.000 cơ
sở kinh tế cá thể tiểu chủ thì đến năm 1996 lên tới khoảng 2,2 triệu cơ
sở, tăng gấp 2,6 lần sau 6 năm, tốc độ tăng bình quân 20%/năm. Giai
đoạn 1996 - 2000 số hộ kinh doanh cá thể tăng chậm hơn nhưng vẫn
giữ ở mức tăng bình qn 6%/năm. Tính đến cuối năm 2004, cả nước
có khoảng 3 triệu hộ kinh doanh cá thể tiểu chủ công thương nghiệp.
[9]


19

Ở nông thôn, với việc thực hiện chủ trương giao đất ổn định, lâu
dài cho nông dân, hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Về
thực chất đó là kinh tế cá thể tiểu chủ. Cho đến năm 1990, ngồi hộ
nơng nghiệp cá thể, số hộ cơng thương nghiệp kinh doanh cá thể mới có
khoảng 840 nghìn hộ, đến năm 1996 đã tăng lên 2,2 triệu hộ và đến
cuối năm 2004 đã có 3 triệu hộ. Ngồi ra cịn có trên 10 triệu hộ nơng
dân sản xuất hàng hố theo mơ hình kinh tế hộ tự chủ và khoảng 130
nghìn trang trại. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào
thành tựu nổi bật trong lĩnh vực nông nghiệp mấy năm qua. Từ một
nước phải nhập khẩu hàng năm 1 triệu tấn lương thực trở thành nước
xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. [22]
Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân cho đến nay trải qua
3 giai đoạn phát triển. Trước năm 1991 hầu như khơng có, nếu có thì

chủ yếu ở khu vực hộ kinh doanh, hoạt động ở thị trường ngầm, khơng
được chấp nhận chính thức. Từ năm 1991, sau khi có Luật cơng ty (năm
1990), doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mới chính thức ra
đời và tăng lên nhanh chóng. Năm 1991, cả nước chỉ có 414 doanh
nghiệp, đến năm 1992 là 5.189 doanh nghiệp, năm 1995 là 15.276
doanh nghiệp, năm 1999 là 28.700 doanh nghiệp. Trong giai đoạn 1991
- 1999, bình quân mỗi năm tăng thêm 5.000 doanh nghiệp.
Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thực sự tăng lên
nhanh chóng từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực 1/1/2000.
Cho đến hết tháng 12/2005 đã có 158.153 doanh nghiệp mới đăng ký
(trong 9 năm 1991-1999 có 44.962 doanh nghiệp đăng ký); đưa tổng số
doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật của khu vực kinh tế tư nhân
ở nước ta lên khoảng 203.115 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng ký
trung bình hàng năm hiện nay bằng 3,75 lần so với trung bình hàng năm
của thời kỳ 1991-1999. Số doanh nghiệp mới đăng ký trong 6 năm


20

(2000-2005) ước cao gấp gần 3 lần so với 9 năm trước đây (1991-1999)
tăng bình quân 25%, đưa tỷ lệ bình quân số doanh nghiệp hiện nay trên
1 vạn dân là 25. Riêng trong năm 2005 đã có thêm 38.000 doanh nghiệp
mới ra đời, bằng xấp xỉ 9 năm giai đoạn 1991 - 1999. [18] (xem thêm
bảng dưới đây)
Bảng 1.1: Số lƣợng doanh nghiệp khu vực tƣ nhân đăng ký thành
lập qua các năm.

Đơn vị: Doanh nghiệp
Loại hình
doanh

nghiệp
DNTN

19911999

2000

2001

2002

2003

29.135

6.412

2.229

6.532

7.085

Cty TNHH

15.310

7.304

7.179


12.627 15.120 20.145 20.674

524

726

1.243

2.305

3.715

6.470

6.675

2

0

0

1

7

8

0


0

59

88

125

130

Cty Cổ
phần
Cty Hợp
danh
Cty TNHH
1 thành viên
Tổng số

2004

2005

10.246 11.366

44.962 14.444 21.040 21.523 26.009 36.993 38.144

(Nguồn: Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư)
Số vốn đầu tư đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô sản xuất

của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh, trong 5 năm từ năm 2001 đến
2005 đạt 293.878 tỷ đồng Việt Nam (tương đương khoảng 18,4 tỷ USD,
cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong cùng kỳ). Nguồn
vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân đã đóng vai trị quan trọng đối
với phát triển đất nước, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với
phát triển kinh tế các địa phương.


21

Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp đã có thay đổi tích cực. Tỷ
trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm
từ 64,8% trong giai đoạn 1991-1999 xuống cịn 27%; trong khi đó, tỷ
trọng cơng ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ 35,2%
lên 73% (công ty cổ phần: tăng từ 1,1% lên 13,3%). Đặc biệt, chỉ trong
2 năm 2004, 2005 đã có khoảng hơn 12.000 cơng ty cổ phần đăng ký
thành lập, gấp 20 lần so với giao đoạn 1991-1999. Thay đổi nói trên
chứng tỏ các nhà đầu tư trong nước đã ý thức được những điểm lợi và
bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp: có xu hướng lựa chọn loại hình
doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp có thể ổn định, phát
triển khơng hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động với quản trị nội
bộ ngày càng chính quy và minh bạch hơn. Thực tế nói trên phần nào
chứng tỏ các nhà đầu tư đã có xu hướng đầu tư dài hạn hơn, cơng khai
hơn và quy mô lớn hơn.
Mặc dù vậy, phần lớn doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân của Việt Nam vẫn có quy mơ tương đối nhỏ, chiếm 96% số lượng
các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tiêu chí được xác định trong Nghị
định 90/2001/NĐ-CP
Những kết quả nêu trên khơng chỉ cho thấy tác động tích cực của
những thay đổi về khung pháp lý (sự ra đời của Luật Doanh nghiệp) mà

cịn do hàng loạt các chính sách cụ thể của Nhà nước như:
*Chính sách cơ cấu
Về sở hữu, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần,
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trị chủ đạo, đảm nhận chức năng dẫn
dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, kinh tế tư nhân phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác. Nhà nước Việt Nam cho phép các thành phần kinh tế đầu tư trên
mọi vùng lãnh thổ, theo quy hoạch thống nhất của Việt Nam và có


22

nhiều ưu đãi đối với hoạt động đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư vào
vùng sâu vùng xa. Khu vực tư nhân không bị giới hạn lĩnh vực kinh
doanh. Luật doanh nghiệp mới có hiệu lực từ ngày 1/1/2000 cho phép
mọi loại hình kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân được đầu tư trong
mọi ngành nghề, trừ những lĩnh vực ảnh hưởng đến an ninh quốc gia
*Chính sách thuế
Từ năm 1990, những cải cách thuế đã thực hiện đối xử bình đẳng
giữa khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó
các doanh nghiệp Nhà nước được hưởng nhiều lợi ích hơn doanh nghiệp
tư nhân. Vấn đề khơng phải ở chỗ các luật thuế đã tạo ra những kì thị
với khu vực tư nhân mà là ở chỗ những quy định dưới luật đã đem lại
những lợi ích cho loại hình doanh nghiệp khác mà kinh tế tư nhân
khơng được hưởng. Ví dụ như những quy định về giảm thuế lợi tức,
giảm và hồn thuế giá trị gia tăng,...
*Chính sách đất đai
Cho đến nay, về phương diện chính sách, khu vực tư nhân đã có
được sự bình đẳng nhất định với các khu vực khác trong việc tiếp cận
với nguồn lực đất đai. Nhưng thực tế thì trong những năm qua khu vực

tư nhân ít nhận được sự giao đất của Nhà nước và thường phải thuê lại
của các doanh nghiệp Nhà nước và các tổ chức khác.
Có sự bất bình đẳng khá lớn về quyền sử dụng đất giữa doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (thời hạn
thuê đất của các doanh nghiệp có vốn nước ngồi trên thực tế dài hơn
các doanh nghiệp trong nước), giữa các doanh nghiệp của kinh tế tư
nhân với doanh nghiệp nhà nước, giữa các tổ chức kinh tế trong nước
với các cá nhân, hộ kinh doanh cá thể. Sự phân biệt đối xử đó đã làm
giá cả khơng ổn định và vơ tình khuyến khích việc cho thuê lại. Thực tế


×