Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Luận văn thạc sỹ: Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.76 KB, 114 trang )

MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
4
1.1. Bản chất, vai trò và đặc điểm của kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế thị trường
4
1.1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân
4
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
9
1.1.3. Vai trò của kinh tế tư nhân
15
1.2. Nhân tố ảnh hưởng và nội dung phát triển kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường
22
1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường
22
1.2.2. Nội dung phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
25
1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của trung quốc và
thành phố hồ chí minh
28
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Trung Quốc
29


1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh
32
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho phát triển kinh tế tư
nhân ở tỉnh Nam Định.
34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH NAM ĐỊNH
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
35
2.1. Sự cần thiết phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Nam Định
35
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Nam Định ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế tư nhân
35
2.1.2. Sự cần thiết phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Nam Định trong
nền kinh tế thị trường
44
2.2. Quá trình khôi phục và phát triển kinh tế tư nhân ở nam định
từ năm 2000 đến nay
46
2.2.1. Quan điểm của tỉnh Nam Định về khôi phục và phát triển kinh
tế tư nhân
46
2.2.2. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Nam Định từ năm
2000 đến nay
49
2.3. Đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân ở tỉnh nam định
50
2.3.1. Những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế tư nhân ở
tỉnh Nam Định từ năm 2000 đến nay
50

2.3.2. Những hạn chế, bất cập của KTTN và nguyên nhân
64
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH NAM ĐỊNH
74
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh nam định
74
3.1.1. Xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam
74
3.1.2. Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và các thành phần
kinh tế xã hội của tỉnh Nam Định
77
3.1.3. Định hướng và mục tiêu phát triển KTTN ở tỉnh Nam Định
81
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển mạnh mẽ, đúng hướng và
có hiệu quả kttn ở tỉnh nam định thời gian tới
86
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền làm cho mọi người nhận
thức đúng đắn hơn chủ trương của Đảng về KTTN
86
3.2.2. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật
tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân
90
3.2.3.Tăng cường quan hệ kinh tế trong nội bộ KTTN và giữa
KTTN với các thành phần kinh tế khác
97
3.2.4. Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước đối với kinh
tế tư nhân
99

3.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ
chức đoàn thể nhân dân và các hiệp hội doanh nghiệp đối với
sự phát triển KTTN
105
KẾT LUẬN 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KTTN Kinh tế tư nhân
CNH Công nghiệp hoá
HĐH Hiện đại hoá
HTX Hợp tác xã
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
UBND Uỷ ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
ĐVT Đơn vị tính
Đ Đồng
DANH MC CC BNG, BIU
Trang
Biu s 2.1 Kinh t t nhân trên a b n t nh Nam nh giai on
2000-2006 (Phân theo ngành kinh tế)
Biu s 2.2 Kinh t t nhõn trờn a bn tnh Nam nh giai on
2000-2006
Biu s 2.3
Cơ cấu ngành nghề kinh doanh của kinh tế t nhân trên
địa bàn tỉnh Nam Định
Biu số 2.4 Quy mô vn bình quân ca kinh t t nhân trên a b n
tnh Nam nh
Biu số 2.5
Tổng sản phẩm (GDP) kinh tế t nhân trên địa bàn tỉnh

Nam Định
Biểu số 2.6
Tốc độ tăng Tổng sản phẩm (GDP) kinh tế t nhân trên
địa bàn Tỉnh Nam Định (%)
Biu số 2.7 Tình hình nộ ngân sách Nhà nớc ca KTTN trên
a b n tnh
Biểu số 2.8
Cơ cấu trình độ trang thiết bị, công nghệ
Biểu số 2.9
Thị trờng tiêu thụ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ở nước ta kinh tế tư nhân đã có một lịch sử phát triển thăng trầm. Trước
đổi mới, do quan niệm sai lầm đánh đồng kinh tế quốc doanh với CNXH, nên
chúng ta đã nôn nóng xoá bỏ kinh tế tư nhân. Sai lầm cực đoan đó đã dẫn tới
lãng phí các nguồn lực làm chậm tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.
Kể từ Đại hội VI của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết 16 NQ/TW của
Bộ Chính trị BCH-TW khoá VI về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh
tế ngoài quốc doanh, kinh tế tư nhân ở nước ta mới được phục hồi phát triển.
Nằm trong bối cảnh chung của cả nước, trong những năm đổi mới vừa qua
kinh tế tư nhân ở Nam Định đã có những bước phát triển đáng kể. Khu vực kinh
tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào huy động các nguồn lực giải quyết việc
làm tăng thu nhập và làm sống động nền kinh tế của địa phương, tạo áp lực cạnh
tranh thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế trên địa bàn.
Bên cạnh những thành quả trên cũng như tình trạng chung của cả nước,
hoạt động kinh tế tư nhân ở Nam Định vẫn bộc lộ không ít hạn chế tiêu cực.
Tuy số lượng cơ sở và doanh nghiệp tư nhân tăng lên rất nhanh, nhất là từ khi
có luật doanh nghiệp (năm 2000), nhưng chất lượng hoạt động chưa tương
xứng với sự gia tăng đó. Hầu hết cơ sở doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ,
công nghệ lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực kém, còn mang nặng tính tự

phát, chủ sản xuất - kinh doanh chưa yên tâm phát triển lâu dài… tình trạng
này gây tác động hạn chế không nhỏ đến yêu cầu đẩy mạnh CNH - HĐH của
thành phố và quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nam Định đang
thiếu các giải pháp và cơ chế để phát huy những yếu tố tích cực của thành phần
kinh tế này và hạn chế những tiêu cực của nó trong quá trình phát triển.
Trước những vấn đề bức bách nêu trên tôi chọn đề tài “Phát triển kinh
tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Nam Định” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế
của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn đề kinh tế tư nhân ở nước ta nói chung và ở các tỉnh nói riêng đã được
quan tâm nghiên cứu, phân tích và đã trở thành chủ trương của Đảng trong
đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới.
Đến nay đã có các công trình được công bố trên sách tạp chí như: “ Phát
triển KTTN thực trạng và giải pháp” - Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 12;
“KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” Đề tài
khoa học cấp bộ mã số 94-980076/ĐT Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh; “ Khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân” TS Nguyễn Đình
Tài Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW các công trình trên đã hướng vào
nghiên cứu kinh tế tư nhân ở khía cạnh quản lý. Tuy đã có công trình nghiên
cứu từ góc độ kinh tế chính trị, nhưng hiện nay kinh tế tư nhân đã có nhiều
chuyển biến quan trọng, đang đứng trước đòi hỏi mới của sự phát triển. Tác
giả lựa chọn nghiên cứu đề tài dưới góc độ kinh tế chính trị là mới mẻ và thiết
thực, không trùng lập với các công trình và đề tài đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở xác định bản chất, vai trò và xu hướng vận động của kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam luận văn phân tích, đánh giá thực
trạng thành phần kinh tế tư nhân ở Nam Định, trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu

cực của nó trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Nam Định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về phát triển kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trên cơ sở đó
vận dụng vào phân tích thành phần kinh tế tư nhân ở tỉnh Nam Định.
- Phân tích đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân ở Nam Định, chỉ rõ
những thành công, hạn chế và nguyên nhân những hạn chế trong phát triển
kinh tế tư nhân ở tỉnh Nam Định.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân
trên địa bàn tỉnh Nam Định trong thời gian tới.
2
4. Đối tượng - phạm vi nghiêm cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ các cơ sở và doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân trong các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ thương
mại trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Phạm vi thời gian từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị được coi trọng sử dụng
trong luận văn là phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích và tổng hợp, phương
pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp thống kê, phân tích kinh tế…
6. Đóng góp của luận văn:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và các quan điểm của Đảng ta về
KTTN trong công cuộc đổi mới đất nước.
- Đánh giá tổng quát quá trình khôi phục và phát triển KTTN ở tỉnh Nam
Định từ năm 2000 đến nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tính tích cực và hạn
chế những tiêu cực của thành phần kinh tế này trên địa bàn. Qua đó đóng góp
vào thực hiện chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa của Đảng.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng kinh tế tư nhân ở tỉnh Nam Định từ năm 2000
đến nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân
ở tỉnh Nam Định.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. BẢN CHẤT, VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Trong lịch sử loài người, kinh tế tư nhân ra đời và tồn tại như một tất yếu
lịch sử gắn với việc duy trì cuộc sống và phát triển xã hội thông qua lao động
sản xuất. Khu vực này đã từng tồn tại hàng nghìn năm nay, từ thời nô lệ và phát
triển rất lâu trước khi hình thành khu vực kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.
Ở nước ta, trong một thời gian dài đã giáo điều cho rằng (Kinh tế tư
nhân) KTTN tương đồng với chủ nghĩa tư bản, còn kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể tương đồng với CNXH. Do vậy khi nói đến KTTN trong xây
dựng CNXH, người ta thường nhấn mạnh mặt tiêu cực, mặt xấu mà ít chú ý
đến mặt tiến bộ và sự cần thiết của nó trong sự phát triển lực lượng sản xuất
xã hội. Trong nhận thức cũng như trong tổ chức thực tiễn, chúng ta đã tìm các
giải pháp xoá bỏ KTTN với mong muốn sớm có CNXH. Sự ràng buộc của
quan niệm giáo điều này đã cản trở nghiêm trọng đến việc huy động các
nguồn lực cho sự tăng tưởng và phát triển kinh tế của đất nước.
Từ khi đổi mới đến nay, chúng ta đã nhận thức lại khu vực KTTN và đã

đạt được những thành tựu thực tiễn kinh tế - xã hội quan trọng. KTTN ngày
càng tỏ rõ vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam. Thực tiễn này đặt ra cần phải nghiên cứu để phát huy hơn nữa vai
trò của khu vực kinh tế này trong quá trình phát triển của cả nước nói chung,
các tỉnh nói riêng. Để đạt được yêu cầu này, trước hết cần phải làm rõ bản
chất và đặc điểm của KTTN.
1.1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân
Theo C.Mác, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất có vai trò phản ánh
đặc trưng của các hình thức quan hệ kinh tế nói chung cũng như hình thức tổ
chức kinh tế nói riêng, nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và
4
phân phối kết quả sản xuất. Như vậy, có thể nhận thức rằng KTTN được đặc
trưng bởi sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mặc dù trong các tài liệu nghiên
cứu của Mác và Lê Nin không sử dụng thuật ngữ KTTN, nhưng các ông lại
thường đề cập đến các thuật ngữ sở hữu tư nhân, sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa, lao động tư nhân. Nói KTTN TBCN chính là C.Mác nói đến một hình
thức phát triển của KTTN trong thời đại TBCN.
Ở nước ta cho đến nay đã có nhiều quan niệm về KTTN. Có quan niệm
cho rằng KTTN là một thành phần kinh tế, nhưng ý kiến khác lại cho rằng
KTTN là một khu vực kinh tế, một hình thức tổ chức doanh nghiệp hoặc là
khu vực kinh tế dân doanh
Trong các văn kiện của Đảng ta, KTTN thường được hiểu là một thành
phần kinh tế. Chẳng hạn Nghị quyết 16 của Bộ chính trị (1988) và Nghị quyết
hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khoá VI) nêu quan niệm: KTTN là đơn vị
kinh tế do những người có vốn, có tài sản lập ra, sản xuất, kinh doanh theo
pháp luật, bao gồm các hình thức xí nghiệp tư doanh, công ty hợp doanh,
công ty cổ phần
Trong văn kiện Đại hội IX của Đảng, KTTN được hiểu bao gồm kinh tế
cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Trong văn kiện có đoạn viết:
“Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo

sự quản lý hướng dẫn của Nhà nước, trong đó kinh tế cá thể và tiểu chủ có
phạm vi hoạt động tương đối rộng lớn ở những đơn vị chưa có điều kiện tổ
chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường
tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức [3, tr.69].
Cách hiểu này được căn cứ vào tính chất của quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất và vốn.
Quan niệm như trên cũng được ghi trong luật pháp và chính sách của
Nhà nước ta. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1992 quy định chế độ sở hữu ở Việt
Nam bao gồm ba hình thức cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
5
nhân. Trên cơ sở chế độ sở hữu đó, nền kinh tế có các thành phần cơ bản là
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và
kinh tế tư bản nhà nước [16].
Nghị định 27-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về
Chính sách đối với kinh tế tư doanh và cá thể cũng có quan niệm tương tự
như trong Hiến pháp năm 1992. Quyết định 147/TCTK-PPCĐ ngày
27/2/1993 của Tổng cục thống kê đã phân chia nền kinh tế thành ba khu vực:
kinh tế trong nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế đầu tư ra nước
ngoài. Khu vực kinh tế trong nước bao gồm năm thành phần: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, KTTN, kinh tế cá thể và kinh tế hỗn hợp [31]. Trong khi
đó, các số liệu thống kê lại tổng hợp theo hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các
cơ sở kinh tế cá thể.
Báo cáo của Ngân hàng thế giới đã đồng nhất KTTN với khu vực kinh tế
phi nhà nước, “bao gồm cả các doanh nghiệp tư nhân thật sự, các hợp tác xã
và các doanh nghiệp trong đó nhà nước hay doanh nghiệp nhà nước có sở hữu
dưới 50% [22, tr.20].
Trong các nhà nghiên cứu cũng có những ý kiến khác nhau về KTTN:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng KTTN là hình thức kinh tế dựa trên sở

hữu toàn bộ hay đại bộ phận tư liệu sản xuất thuộc về tư nhân và lao động làm
thuê, người chủ chiếm đoạt giá trị thăng dư do công nhân sáng tạo ra [30,
tr.21 - 25]. Về hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, KTTN bao gồm doanh
nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần (do tư nhân nắm tỷ lệ cổ
phiếu khống chế). Quan niệm KTTN như vậy đã không bao gồm các cơ sở
kinh tế cá thể. Trong các thuộc tính để xác định KTTN, ngoài quan niệm sở
hữu đối với tư liệu sản xuất còn có các quan niệm về thuê mướn lao động, có
bóc lột.
6
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng “KTTN gồm các đơn vị kinh tế mà phần
lớn vốn do một hoặc một số tư nhân góp lại, huy động cổ phần (nhưng do một
hay một nhóm tư nhân nắm cổ phiếu khống chế, chi phối), thuê lao động sản
xuất kinh doanh” [30, tr.16]. Những người theo loại ý kiến này cho rằng
không nên phân biệt tư nhân với cá thể vì không thể lấy tiêu chuẩn có tham
gia lao động trực tiếp hay không bóc lột. Ngoài ra, lý do chính mà trước đây
cần có sự phân biệt như vậy là để “cải tạo tư sản” và phân biệt đối xử trong
chính sách, nhưng hiện nay như vậy là không có lợi. Hơn nữa cơ sở để xác
định KTTN hay loại hình kinh tế nào không chỉ căn cứ vào sở hữu tư liệu sản
xuất, mà còn phải tính đến cả sở hữu vốn và tài sản kể cả những thứ chưa
thành tư liệu sản xuất nhưng có thể đưa vào sản xuất [30, tr.21].
- Loại ý kiến thứ ba cho rằng, KTTN bao gồm các công ty, doanh nghiệp
tư nhân và các cơ sở kinh tế cá thể. Nó còn bao gồm cả các hợp tác xã do tư
nhân đội lốt, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài [13, tr.3 - 6], hoặc bao gồm
kinh tế gia đình, tiểu chủ và tiểu tư nhân có phân biệt theo giá trị tài sản và số
lao động làm thuê [5, tr.23]. Nghĩa là, KTTN bao gồm tất cả các cơ sở kinh tế
dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất hoặc sở hữu tư nhân chiếm ưu thế,
không bao gồm các hợp tác xã đích thực.
- Loại ý kiến thứ tư, KTTN bao gồm tất cả các cơ sở kinh tế ngoài kinh
tế nhà nước (kể cả hợp tác xã và kinh tế gia đình) [21, tr.33-36].
- Loại ý kiến thứ năm lại coi KTTN là một khu vực, bao gồm các tổ chức

kinh tế mà sở hữu tư nhân và hoạt động sản xuất, kinh doanh của chúng do
một hoặc một nhóm tư nhân tổ chức và quản lý [17, tr.5]. Như vậy, việc xác
định KTTN ở đây ngoài yếu tố cơ bản là sở hữu về tư liệu sản xuất (hoặc vốn)
còn có cả yếu tố quản lý và tổ chức.
Những ý kiến trên đã không thống nhất về quan niệm KTTN, tiêu thức
xác định KTTN chưa rõ ràng và chưa nhất quán. Nếu lấy sở hữu tư nhân
làm cơ sở để xác định KTTN thì tại sao trong loại hình kinh tế này lại có cả
7
kinh tế tư nhân cá thể và các hợp tác xã (trong khi Hiến pháp năm 1992 lại
quy định nước ta có ba hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân). Nếu
căn cứ vào tiêu chí có bóc lột người lao động hay không bóc lột để phân
biệt KTTN và kinh tế cá thể, thì ai dám khẳng định rằng các cơ sở kinh tế
cá thể có hàng chục, thậm chí hàng trăm lao động như hiện nay là không
bóc lột. Ở đây khó có thể xác định một cách chính xác khu vực KTTN do
hiện tượng tư nhân núp bóng khu vực nhà nước, mượn tên doanh nghiệp
nhà nước, xây dựng các “sân sau” bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước,
trốn tránh việc đăng ký kinh doanh, hoặc tư nhân đội lốt tập thể dưới dạng
các “tổ hợp” và đội lốt hộ gia đình
Trong tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện
nay, có những doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên
doanh , nó không chỉ bao gồm các chủ đầu tư là tư bản tư nhân mà còn có cả
các chủ là nhà nước ở các nước Tư bản và các nước Xã hội chủ nghĩa. Do vậy
không nên liệt kê các doanh nghiệp loại này vào KTTN. Đại hội IX của Đảng
ta năm 2001 đã xác định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một
thành phần kinh tế gọi là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự xác định như
vậy là đúng chứ không nên xếp chúng vào khu vực KTTN.
Do sự thiếu rõ ràng, nhất quán trong nhận thức như trên, nên trong tổ chức
thực tiễn khu vực KTTN còn gặp không ít khó khăn, lúng túng, kém hiệu quả.
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, nền kinh tế được phân chia
thành hai khu vực chủ yếu là khu vực KTTN và khu vực kinh tế nhà nước.

Khu vực kinh tế nhà nước do nhà nước là chủ sở hữu (hoặc có tỷ lệ cổ phần
khống chế) nên nhà nước có thể chi phối và kiểm soát trực tiếp hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khu vực KTTN là phần còn lại ngoài khu
vực nhà nước. Nền kinh tế của Trung Quốc hiện nay cũng đươc chia ra thành
hai khu vực: khu vực kinh tế công hữu (gồm kinh tế quốc hữu và kinh tế tập
thể) và kinh tế phi công hữu (bao gồm KTTN và kinh tế có vốn đầu tư nước
8
ngoài); tức là KTTN là một khu vực kinh tế phi công hữu. Những sự phân
chia trên chủ yếu dựa trên quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và vốn.
Trong nền kinh tế các nước hiện nay, sự đan xen sở hữu khu vực kinh tế
nhà nước và KTTN làm cho sự phận loại thêm phức tạp. Trong các công ty
hỗn hợp, khu vực tư nhân được xác định dựa vào tỷ lệ vốn khống chế thuộc
về tư nhân. Tỷ lệ vốn đó tuỳ thuộc vào điều kiện mỗi nước và có thể dao động
từ 18 - 40%, không nhất thiết phải trên 50%.
Qua những phân tích trên, căn cứ vào quá trình ra đời và phát triển của
quan hệ sản xuất theo đó là quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân
phối sản phẩm, căn cứ vào quan niệm của Đảng ta về kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế nhiều thành phần, có thể hiểu KTTN là loại hình kinh tế ra đời và
phát triển trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và vốn, tồn tại
dưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất của chế độ sở
hữu mà nó đại diện.
KTTN đã từng tồn tại lâu dài qua những biến đổi của các hình thái kinh
tế - xã hội trong lịch sử. Nó chứng tỏ có một sức sống mạnh mẽ đã vượt qua
những thử thách để tồn tại và phát triển lâu dài. Trong nền kinh tế ở nước ta,
KTTN tồn tại chủ yếu dưới ba hình thức: Kinh tế cá thể, Kinh tế tiểu chủ và
Kinh tế tư bản tư nhân, tuy ranh giới không phải bao giờ cũng phân chia rạch
ròi giữa ba hình thức đó, nhất là giữa Kinh tế tiểu chủ và KTTN. KTTN là
một bộ phận hữu cơ của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
KTTN có ba đặc điểm chủ yếu sau đây:

Một là. Về hình thức sở hữu: KTTN tồn tại và phát triển dựa trên quan
hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và vốn cũng như tất cả của cải vật chất
được tạo ra nhờ tư liệu sản xuất và vốn ấy. Trong quá trình phát triển sản xuất
xã hội, sở hữu tư nhân đã trải qua các trình độ phát triển từ thấp đến cao.
Trình độ thấp là sở hữu tư nhân nhỏ, đây là sở hữu của những người lao động
9
tự do sản xuất ra sản phẩm từ lao động của mình và các thành viên trong gia
đình là chính. Trình độ cao là sở hữu tư nhân lớn. Tuy nó được phát triển từ
sở hữu tư nhân nhỏ, nhưng khi đã được hình thành thì nó lại là cơ sở làm nảy
sinh quan hệ kinh tế mới, đó là quan hệ giữa chủ sở hữu với người làm thuê.
Những trình độ khác nhau của sở hữu tư nhân là những hình thức sở hữu đặc
trưng của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Sở hữu tư nhân của chủ nô
đặc trưng cho phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, sở hữu tư nhân của địa
chủ và phương hội đặc trưng cho phương thức sản xuất phong kiến, sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa đặc trưng cho phương thức sản xuất TBCN.
Mặc dù sở hữu tư nhân đã tồn tại và phát triển trong các giai đoạn lịch sử
khác nhau về cả phương thức sản xuất và chế độ chính trị, nhưng chúng đều
có đặc điểm chung là tồn tại và phát triển khách quan dựa trên quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất, chứ không
phải theo ý muốn chủ quan của bất cứ một người hay một tổ chức nào.
Để xác định vai trò và xu hướng vận động của KTTN trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta, dưới đây là những đặc điểm khác
nhau cơ bản về sở hữu của khu vực này trong lịch sử.
- Sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường khác sở hữu tư nhân trong
nền kinh tế tự cung, tự cấp ở chỗ sở hữu tư nhân trong kinh tế thị trường dựa
trên lực lượng sản xuất đã xã hội hoá. Nó tồn tại và phát triển không thể tách
rời với các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế khác. Nó như một
thành tố trong hệ thống. Chính nó đã đưa đến một mâu thuẫn nội tại trong sở
hữu tư nhân của kinh tế thị trường: mâu thuẫn giữa tính chất xã hội về hoạt
động sản xuất kinh doanh với tính chất tư nhân về chiếm hữu. Đặc điểm này

không có ở sở hữu tư nhân trong nền kinh tế tự cung, tự cấp.
Do sự phát triển của mẫu thuẫn nêu trên, nên kết cấu của sở hữu tư nhân
trong kinh tế thị trường dần dần biến đổi theo hướng xã hội hoá như kinh tế
cổ phần, kinh tế hợp doanh
10
- Sở hữu tư nhân trong kinh tế thị trường ra đời là kết quả của sự xoá bỏ
sở hữu tư nhân trong nền kinh tế tự cung, tự cấp (bằng kinh tế hay bằng tước
đoạt). C.Mác coi đây là bước phủ định thứ nhất. Khi quá trình phát triển mâu
thuẫn nói trên đến mức độ nào đó sẽ diễn ra bước phủ định thứ hai, được coi
là “phủ định của phủ định” đối với sở hữu tư nhân. Quá trình đó tất yếu dẫn
đến sở hữu xã hội.
Điều này nghĩa là chỉ có sở hữu tư nhân trong kinh tế thị trường, chứ
không phải sở hữu tư nhân tự cung, tự cấp, mới có khả năng phát triển, dẫn
đến sở hữu xã hội thông qua những biến đổi theo đòi hỏi của lực lượng sản
xuất. Còn tất cả các hình thức sở hữu trong kinh tế tự cấp hay bao cấp dù quy
mô lớn (như các hợp tác xã kiểu cũ ở Việt Nam, nông trang, nông trường ở
Liên Xô, công xã nhân dân ở Trung Quốc) không bao giờ có thể đưa đến sở
hữu xã hội thực tế.
- Sở hữu tư nhân trong các chế độ chính trị khác nhau thì địa vị có khác
nhau, ở đây chỉ nói sở hữu tư nhân trong chế độ TBCN và trong chế độ do
Đảng cộng sản cầm quyền.
Trong nền kinh tế thị trường TBCN, sở hữu tư nhân giữ vai trò thống trị,
nó phù hợp với trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Vai trò lịch sử của
sở hữu tư nhân là thúc đẩy quá trình xã hội hoá, thông qua sản xuất giá trị
thặng dư để tích luỹ tư bản. Về khách quan, nó chuẩn bị tiền đề vật chất cho
xã hội sau này. Vì vậy, tính chất bóc lột của kinh tế tư nhân TBCN đưa đến
tăng trưởng và phát triển kinh tế, mặc dù người lao động phải trả giá cho sự
phát triển ấy. Còn kinh tế tư nhân trước CNTB chỉ kìm hãm kinh tế và xã hội
trong tình trạng lạc hậu. Vì vậy, tính chất bóc lột TBCN khác với tính chất
bóc lột của kinh tế tư nhân trước CNTB. Vì tính chất khác nhau đó, nên trong

“Lời tựa” viết cho Bộ “tư bản”, C.Mác nêu nhận xét: Chúng ta đau khổ không
những vì sự phát triển của sản xuất TBCN mà còn đau khổ vì nó phát triển
chưa đầy đủ.
11
Còn trong nền kinh tế thị trường ở các nước do Đảng cộng sản cầm
quyền thì sở hữu tư nhân chỉ là một bộ phận trong cơ cấu nhiều hình thức sở
hữu. Nó chịu tác động qua lại giữa các hình thức sở hữu khác, tạo ra cơ hội và
giới hạn nhất định đối với KTTN.
Ở đây, KTTN vẫn còn bóc lột ở mức độ nhất định, nhưng khác với
KTTN trong chế độ TBCN ở chỗ mức độ bóc lột được điều chỉnh cho phù
hợp với yêu cầu của chế độ mới, ở đây động lực làm giàu của tư nhân được
kết hợp với mục tiêu mà xã hội mới lựa chọn và được xác định là làm giàu
chính đáng. Do thể hiện đường lối quan điểm của Đảng cộng sản, nên hệ
thống pháp luật và hoạt động quản lý của nhà nước cơ bản phản ảnh quan hệ
hợp lý giữa lợi ích của tư nhân với lợi ích toàn xã hội. Trong điều kiện đó,
kinh tế tư nhân có phát triển theo định hướng TBCN hay không chủ yếu quyết
định bởi hoạt động quản lý của nhà nước, bởi năng lực và phẩm chất của bộ
máy nhà nước.
Đặc điểm này đòi hỏi tư duy kinh tế chính trị của những người lãnh đạo
đối với KTTN trong điều kiện Đảng cộng sản cầm quyền phải phát triển cao
hơn, mới hơn so với nhận thức về KTTN trước khi giành được chính quyền.
Chỉ như vậy mới tìm ra được giải pháp phát huy các nguồn lực (về vốn, công
nghệ, năng lực quản lý, thu hút lao động tạo việc làm ) để mở rộng giới hạn
khả năng, nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và tạo tiềm năng cho đất nước trong mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Thật không đúng nếu áp dụng chủ trương “trải thảm đỏ” mời gọi đầu tư nhân
nước ngoài, nhưng lại coi thường, đối đãi thiếu bình đẳng đối với kinh tế tư
nhân trong nước.
Hai là. Về hình thức tổ chức, quản lý: Trong thời kỳ kinh tế tự cung, tự cấp,
KTTN tồn tại dưới hình thức tổ chức hộ sản xuất, còn trong kinh tế thị trường,

hoạt động kinh tế của tư nhân được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Dưới
đây là các hình thức tổ chức, quản lý chủ yếu của KTTN trong kinh tế thị trường:
12
- Doanh nghiệp một chủ: Đây là hình thức truyền thống và phổ biến của
KTTN. Nó do một cá nhân nắm quyền sở hữu. Hình thức này đặc biệt thích
hợp với các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhỏ, không đòi hỏi vốn lớn và
công nghệ phức tạp. Ưu thế của loại hình doanh nghiệp này là:
Chủ doanh nghiệp được toàn quyền thu lợi nhuận tại doanh nghiệp, qua
đó kích thích người có vốn vừa và nhỏ ham muốn kinh doanh tham gia
thương trường.
Trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp thường là vô hạn gắn liền với tài sản
và uy tín, thân nhân của cá nhân người chủ, điều này làm cho doanh nghiệp dễ
hoạt động (được bạn hàng tin cậy trong làm ăn) dù số vốn đầu tư có thể rất nhỏ.
Về tâm lý, chủ doanh nghiệp có được cảm giác hài lòng khi tự mình làm
chủ doanh nghiệp, nó kích thích người có vốn tự khẳng định mình trong hoạt
động kinh tế.
Quản lý doanh nghiệp do một người, cá nhân chủ sở hữu, trực tiếp quyết
định. Điều này làm cho doanh nghiệp có ưu thế trong xử lý các tình huống,
linh hoạt trong hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên doanh nghiệp một chủ còn có những bất lợi như trách nhiệm
pháp lý về tài chính doanh nghiệp là vô hạn nên dễ gây tâm lý nặng nề khi
chủ doanh nghiệp đầu tư dài hạn, đổi mới công nghệ thường gặp khó khăn, vì
không có người chia sẻ trách nhiệm trong quản lý nên các quyết định lớn
thường có độ rủi ro cao.
- Doanh nghiệp nhiều chủ (sở hữu nhóm): Đây là doanh nghiệp mà
sở hữu gồm ít nhất là hai chủ. Họ ký kết với nhau một hợp đồng sở hữu nhóm để
xác lập doanh nghiệp. Ưu thế của loại doanh nghiệp này là huy động được nhiều
vốn ban đầu, các thành viên tích cực cao vì cùng tham gia điều hành doanh
nghiệp. Song nó cũng có những bất lợi như tất cả các thành viên đều phải chịu
trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của doanh nghiệp, tính bền vững của doanh

nghiệp không cao vì có thể xảy ra bất đồng giữa các thành viên
13
- Công ty: Đây là một thực thể kinh doanh tồn tại độc lập với các chủ sở
hữu của nó. Lợi thế của hình thức này là các chủ sở hữu chỉ phải chịu trách
nhiệm hữu hạn trên phần vốn góp vào công ty; công ty thường có khả năng
tồn tại và phát triển lâu dài không phụ thuộc vào những biến đổi gắn với cuộc
đời các chủ sở hữu, quyền sở hữu công ty sẵn sàng chuyển nhượng; dễ huy
động được nguồn vốn lớn thông qua phát hành các loại chứng khoán. Song nó
có những bất lợi như thường phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan quản lý
tài chính nên thường không có bí mật hoạt động.
Ngoài ba hình thức chủ yếu trên, KTTN còn có thể tồn tại dưới các hình
thức tổ chức, quản lý như doanh nghiệp nhóm hữu hạn (có một hoặc một
nhóm nhỏ chủ sở hữu tham gia chính cùng với một hoặc nhiều chủ sở hữu
tham gia phụ), liên doanh giữa các chủ tư nhân, uỷ quyền kinh doanh
Ba là. Về hình thức phân phối: Trong KTTN hình thức này được thực
hiện dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đồng thời là người lao
động, không có thuê mướn nhân công, thì phân phối sản phẩm được thực hiện
trực tiếp trong nội bộ gia đình. Đối với các cơ sở tư nhân mà chủ sở hữu có sử
dụng lao động làm thuê, thì phân phối sản phẩm căn cứ vào giá trị sức lao
động của lao động làm thuê để trả công cho họ, còn phần thặng dư thuộc về
người sở hữu. Đối với các công ty tư nhân có nhiều chủ đồng sở hữu, việc
phân phối kết quả sản xuất kinh doanh được dựa trên cơ sở vốn góp của mỗi
chủ có ở trong công ty. Tất nhiên, trong các chế độ xã hội khác nhau thì cơ
chế phân phối của kinh tế tư nhân có sự khác biệt nhất định. Trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, hình thức phân phối trong KTTN
được dựa trên nguyên tắc vốn góp và các đóng góp của tư nhân vào kết quả
hoạt động của doanh nghiệp. Nó được tồn tại và phát triển cùng với các hình
thức phân phối khác, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế là chủ yếu.
14

1.1.3. Vai trò của kinh tế tư nhân
Thông thường, để đánh giá vai trò của một khu vực kinh tế, các nước
thường sử dụng các chỉ tiêu như tỷ trọng của nó trong GDP (hoặc trong giá trị
gia tăng, trong tổng doanh thu), tỷ lệ trong huy động vốn kinh doanh (hoặc
vốn cố định) và tỷ lệ thu hút lao động xã hội (tạo việc làm). Ngoài ra, các
nước còn sử dụng các chỉ tiêu khác để đánh giá vai trò của KTTN trong tăng
trưởng kinh tế, đóng góp cho ngân sách quốc gia… Song, việc đánh giá và
phát triển, nhằm tổng kết vai trò của một khu vực kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân, chứ chưa có tính khái quát về lý luận.
Từ phương pháp tiếp cận của kinh tế chính trị, trên cơ sở khái quát thực
tiễn ở các nước từ trước tới nay, có thể xác định vai trò của KTTN trên các
nội dung chủ yếu sau:
Một là. Thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư xã hội vào đầu tư phát triển
KTTN bao gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh được hình thành và phát triển
dựa trên vốn của các cá nhân. Các nhà kinh doanh tự bỏ vốn đầu tư, tự mình
xây dựng doanh nghiệp, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
Sự phát triển của khu vực này có vai trò rất lớn trong thu hút các nguồn vốn
xã hội vào đầu tư phát triển. Nguồn vốn của các doanh nghiệp tư nhân phần
lớn được tích luỹ bằng lao động sáng tạo của cá nhân và gia đình họ, được
gòm góp lại từ thế hệ này qua thế hệ khác (tất nhiên không loại trừ các biện
pháp tích luỹ cực đoan, không chính đáng, song nếu nhà nước cấm đoán hoặc
không cho phép tồn tại các cơ sở KTTN thì nguồn vốn đó không được đưa
vào đầu tư phát triển). Sở hữu các chủ tư nhân chính là nguồn vốn khởi đầu
để các nền kinh tế có thể tồn tại và phát triển.
Sở hữu tư nhân cùng với sự phát triển của hình thức kinh doanh một
chủ có vai trò là cơ sở để hình thành các hình thức kinh doanh chung vốn,
công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã… con đường hợp quy luật để
phát triển các hình thức sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước là phải biết huy động
các nguồn vốn thông qua phát triển KTTN.
15

KTTN làm tăng nguồn thu từ thuế. Qua đó, tạo điều kiện để nhà nước
thực hiện tốt chức năng của mình. Kinh nghiệm các nước cho thấy, để phát
triển kinh tế đất nước, nếu chi trông chờ vào nguồn đầu tư của nhà nước thì
không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra. Sự phát triển
kinh tế tư nhân sẽ tạo ra nguồn đầu tư quan trọng đóng góp vào quá trình tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Hai là. Tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần rất quan
trọng vào giải quyết nạn thất nghiệp trong xã hội. Ở các nước phát triển, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực KTTN chiếm tỷ trọng tương đối lớn
trong tổng số doanh nghiệp của mỗi nước và giải quyết việc làm cho khoảng 2/3
lực lượng lao động công nghiệp. Ở Trung Quốc, năm 1989 mới chỉ có 90.581 hộ
kinh tế tư nhân sử dụng 164 vạn lao động, đến năm 1997 đã tăng lên 960.726 hộ
thu hút 1.349 vạn lao động; số lượng lao động thu hút vào khu vực này tăng bình
quân 30,1% năm trong khoản thời gian này [24, t.401]; đến năm 2001, lao động
đã có khoảng 2,209 triệu doanh nghiệp tư nhân và 2,4533 triệu hộ cá thể với số
vốn đăng ký 2.164,8 tỉ nhân dân tệ [5.tr.13]. Ở nước ta năm 2000, lao động của
khu vực tư nhân là 21.017.326 người, chiếm 56,3% số lao động có việc làm
thường xuyên trong cả nước. Nhưng các khảo sát thực tế cho thấy số lao động
làm việc trong khu vực tư nhân (nhất là ở hộ kinh doanh cá thể) nhiều hơn so với
số thống kê 20 - 30% [2, tr.31]. Trong 4 năm vừa qua (năm 2000 - 2004), khu
vực KTTN đã thu hút khoảng 1,6 đến 2 triệu chỗ làm việc mới và trở thành nơi
chủ yếu thu hút lao động [23, tr.5]. Đến hết năm 2005, cả nước có 205.000
doanh nghiệp tư nhân đăng ký theo Luật Doanh nghiệp; 2,5 triệu hộ kinh doanh
cá thể công thương nghiệp và dịch vụ; 130.000 trang trại và 12 triệu hộ nông dân
sản xuất hàng hóa, tạo ra sinh khí mới năng động, sáng tạo trước nay chưa từng
có cho nền kinh tế. KTTN đã và đang đảm bảo cho khoảng 90% lực lượng lao
động có việc làm. Theo một nghiên cứu gần đây thì cứ 10 lao động trong doanh
nghiệp cần 1 lao động ngoài doanh nghiệp thực hiện các công việc cung ứng đầu
vào, tiêu thụ đầu ra, vệ tinh…
16

Do có quy mô nhỏ và vừa, các cơ sở và doanh nghiệp tư nhân dễ thích
nghi với điều kiện nông thôn, nơi có nhiều lao động dôi dư, lao động nông
nhàn, trình độ dân trí thấp và đời sống còn nhiều khó khăn. Trong điều kiện
như vậy, KTTN có vai trò quan trọng đối với vấn đề giải quyết việc làm, giảm
thất nghiệp. Theo điều tra gần đây của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung
ương, các doanh nghiệp tư nhân đầu tư trung bình từ 70 - 100 triệu đồng là đã
tạo ra được 1 chỗ làm việc, trong khi đó doanh nghiệp nhà nước phải 210 - 280
triệu đồng (cao gấp khoảng 3 lần) [1, tr.15]
Ba là. Góp phần nâng cao chất lượng lao động, nuôi dưỡng tinh thần
kinh doanh của nhân dân. Tiềm năng trí tuệ, kinh nghiệm quản lý, tay nghề
và những kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, bí truyền được tích luỹ từ đời này
qua đời khác trong từng gia đình và dòng họ sẽ là nguồn sáng tạo vô tận cho
sự tăng trưởng kinh tế nếu ở đó chính phủ biết cách khơi dậy tiềm năng này
thông qua kích thích động cơ của họ. KTTN là hình thức tổ chức có hiệu quả
trong đáp ứng đòi hỏi này. Theo các khảo sát thực tiễn ở nước ta, nguồn tiềm
năng "chất xám" của khu vực KTTN rất đa dạng: có loại là Nhà nước đào tạo
trong các trường chính quy như công nhân, kỹ thuật, nhà kinh tế đến các tiến
sĩ giáo sư…; có loại cá nhân tự bỏ tiền để học lấy một nghề nhất định, có loại
do các doanh nghiệp tư nhân sau khi tuyển dụng đã bỏ tiền ra để đào tạo và
đào tạo lại… Đây là nguồn lực rất to lớn của tăng trưởng kinh tế.
Hơn nữa, trong khu vực KTTN do các nhà kinh doanh tự bỏ vốn của
mình để đầu tư và chịu trách nhiệm (khác với doanh nghiệp nhà nước), và do
phải trực tiếp chịu các áp lực của thị trường, nên các chủ doanh nghiệp phải
tính toán chặt chẽ việc lựa chọn sản xuất kinh doanh. Qua nhiều công trình
nghiên cứu cho thấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh ở nhiều lĩnh vực của
KTTN cao hơn so với các doanh nghiệp nhà nước; các chỉ tiêu hiệu quả về
vốn, thời gian thu hồi vốn, hiệu suất lao động… của khu vực tư nhân đều đạt
mức cao hơn khu vực nhà nước [29, tr.11].
17
Trong quá trình phát triển, do cạnh tranh trên thị trường, không ít

doanh nghiệp tư nhân bị đào thải, nhưng cũng không ít doanh nghiệp tư nhân
vươn lên phát triển rồi trở thành các doanh nghiệp lớn đầy sức sống. Ví dụ ở
nước ta nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế trong nông nghiệp mà từ năm 1996 đến tháng 10 năm 2001 cả
nước có 55.852 trang trại (theo số liệu khác thì đến 31/12/2001 cả nước có
hơn 130.000 trang trại trong nông nghiệp [15, tr.339]. Đây là những đơn vị
kinh tế được hình thành và phát triển từ các cơ sở kinh tế hộ ở nông thôn.
Bốn là. Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cụ thể cho xã hội. KTTN đã
và đang là khu vực rộng lớn trong việc tạo ra sản phẩm và dịch vụ cụ thể cho
xã hội, đóng góp vào sản lượng quốc dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ở
Trung Quốc, tính đến năm 2001 đã có khoảng 2,209 triệu kinh doanh tư nhân
sản xuất ra 1.231,7 tỷ nhân dân tệ. Đây là một nguồn đóng góp rất quan trọng
vào tổng sản phẩm quốc dân. ở nước ta, từ năm 1995 đến nay, khu vực KTTN
thường chiếm tỷ trọng khá ổn định, trên dưới 40% GDP toàn quốc [26, tr.53]
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, nhờ áp dụng nghiệm ngặt chế độ
kế toán và kiểm toán, có luật thuế khoa học và hợp lý, người dân tự giác thực
hiện nghĩa vụ công dân của mình, nên tỷ lệ thất thu thuế không đáng kể.
Trong điều kiện này, khu vực KTTN thường có mức độ đóng góp lớn hơn
ngân sách nhà nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong khu vực này còn có
các khoản tự giác tài trợ, đóng góp cho sự phát triển chung của cộng đồng.
Năm là. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trang bị kỹ
thuật, công nghệ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, nhất là CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Để CNH, HĐH đất nước, không thể không có doanh
nghiệp quy mô lớn, nhiều vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong số các
ngành như các doanh nghiệp nhà nước, nhằm tạo ra sức mạnh để cạnh tranh
thắng lợi trên thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, cần phải tăng
khả năng tích tụ và tập trung vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa để chúng
18
vươn lên thành doanh nghiệp lớn. Điều này có thể thực hiện thông qua phát
triển KTTN. Thực tế các nước cho thấy, quá trình phát triển doanh nghiệp tìm

kiếm phương thức kinh doanh có hiệu quả hơn nhằm giảm chi phí sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị
trường. Đó chính là quá trình các chủ tư nhân phải đổi mới cơ sở vật chất - kỹ
thuật tại doanh nghiệp của mình, chuyển hướng kinh doanh vào các sản phẩm
có lợi nhất. Quá trình này, tự nó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại, hợp lý. Nó lại càng trở nên có ý nghĩa đối với sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay. Bởi vì KTTN là loại hình doanh
nghiệp sử dụng phổ biến công nghệ trung gian - một cầu nối quan trọng trong
việc chuyển nền nông nghiệp còn nhiều lạc hậu lên sản xuất với kỹ thuật,
công nghệ hiện đại. Các cơ sở KTTN trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch
vụ sẽ là những chủ thể cơ bản ban đầu đóng vai trò thực hiện và thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Thực tế ở nước ta vừa qua cho thấy, trình độ sản xuất, kinh doanh của KTTN
ngày càng tiến bộ hơn, số lượng hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu và tham
gia xuất khẩu tăng lên. Một số sản phẩm đã góp phần chặn đứng đẩy lùi sự
xâm nhập của hàng ngoại nhập.
Sáu là. KTTN đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành cơ cấu sở
hữu XHCN. Vai trò này được nhận thức từ sự phân tích logic kinh tế xã hội
hoá trong điều kiện thời đại và dân tộc hiện nay. Trước đây, do không nhận
thức đúng sở hữu XHCN, nên đã gây ra nhận thức không đúng về sở hữu tư
nhân, do đó cản trợ sự phát triển KTTN và nền kinh tế quốc dân
Theo C.Mác, sở hữu XHCN là kết quả của một quá trình xã hội hoá lâu
dài trong kinh tế thị trường. Quá trình xã hội hoá ấy đưa đến hai hình thức sở
hữu: Sở hữu xã hội và sở hữu cá nhân. Hai bộ phận đó hợp thành sở hữu
XHCN. Do dựa trên phân tích logic xã hội hoá kinh tế mà các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lênin đã cho rằng CNXH thay thế CNTB là một tất yếu.
19
Ở đây, sở hữu xã hội là kết quả quá trình phát triển xã hội hoá trong
nền kinh tế nhiều thành phần. Nó không hoàn toàn đồng nhất với sở hữu
nhà nước. Còn sở hữu cá nhân thì hoàn toàn khác về bản chất với sở hữu tư

nhân. C.Mác đã từng dự báo rằng: sau này sở hữu cá nhân sẽ được khôi
phục trên cơ sở những thành tựu của CNTB. Sở hữu cá nhân là một điều
kiện cần để con người phát triển tự do và toàn diện, khác hẳn với những
con người trong chế độ nhà nước bao cấp và khác với những con người
trong chế độ TBCN. Không có sở hữu cá nhân thì không có sự phát triển tự
do toàn diện của mỗi người. Hơn nữa, sự phát triển toàn diện của cá nhân
là động lực và mục tiêu xây dựng xã hội mới là xã hội hoá mà "sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người" [8]. Điều này nghĩa là mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta không
thể bỏ qua vấn đề con người phát triển tự do toàn diện, và do đó không thể
bỏ qua vấn đề sở hữu cá nhân.
Để rõ ràng hơn, cũng cần phải nói rõ về sở hữu nhà nước. Trước đây,
người ta đồng nhất sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước với sở hữu XHCN, còn
sở hữu cá nhân thì không nói tới. Đó là nhận thức không đầy đủ.
Nhìn lại lịch sử các chế độ xã hội trước đây, từ khi có nhà nước thì có
sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước dưới những hình thức khác nhau. Sở hữu
nhà nước thường gắn liền với điều kiện tồn tại của giai cấp cầm quyền. Vì
vậy, kinh tế nhà nước chưa bao giờ thay thế vai trò kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện nước ta, với chế độ nhân dân làm chủ, kinh tế nhà
nước có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự ra đời và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN như: vai trò tổ chức, xây dựng kết cấu hạ tầng.
Đầu tư phát triển nền khoa học, công nghệ hiện đại, đầu tư cho khu vực dịch
vụ, phát triển giáo dục, liên doanh với các thành phần kinh tế khác trong và
ngoài nước nhằm mục tiêu tăng trưởng. Trong quá trình đó, sở hữu nhà nước
mới mang phương hướng đầu tư và hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước.
20
Sự phân tích ở trên cho thấy rằng phát huy vai trò của kinh tế tư nhân
hướng tới sự hình thành sở hữu XHCN là một tất yếu thuận lợi. Đây là một
thuận lợi cho sự phát triển theo con đường rút ngắn trong điều kiện nước ta.
Ngoài ra, KTTN còn có vai trò tạo ra điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu

hàng hoá, mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, góp phần quan trọng vào
việc thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
* Những hạn chế của kinh tế tư nhân.
Bên cạnh vai trò to lớn nêu trên, quá trình hoạt động của KTTN có thể
dẫn đến những hạn chế (tiêu cực) như:
- Do bản chất tư hữu, chạy theo mục tiêu lợi nhuận tối đa, nên các chủ
doanh nghiệp tư nhân thường tự phát đổ xô vào các ngành, lĩnh vực có tỷ suất
lợi nhuận cao (như thương mại, dịch vụ…), dẫn đến tình trạng có các ngành,
lĩnh vực rất cần cho đời sống nhưng tỷ suất lợi nhuận thấp, nếu không được
ngân sách nhà nước tài trợ thì sẽ ít được tư nhân đầu tư.
- Ở các nước đang phát triển trong đó có nước ta, do luật pháp chưa
hoàn thiện, nên khu vực KTTN sẵn sàng bộc lộ những tiêu cực như buôn lậu,
làm hàng giả, gian lận thương mại, trốn tránh đăng ký kinh doanh, trốn thuế…
Ở các nước này môi trường, cạnh tranh lành mạnh chưa được đảm bảo. Thông
qua cạnh tranh, các chủ tư nhân thường tìm các thủ đoạn không kinh tế để
triệt tiêu nhau. Các biện pháp mà họ thường dùng là bán phá giá, đầu cơ, tích
trữ… Đây là những khả năng tiềm tàng gây ra sự mất ổn định kinh tế, rối loạn
thị trường, dễ dẫn đến các cơn sốt giá cả, thổi bùng lạm phát.
- Do quá chú trọng đến lợi ích cá nhân, lợi ích trước mắt nên hoạt động
của các chủ tư nhân thường thiếu tổ chức phối hợp, tự gây khó khăn cho nhau
trên thị trường, làm suy yếu sức mạnh cạnh tranh của nhau, hạn chế khả năng
chen chân và đứng vững trên thị trường thế giới.
- Năng lực quản lý của các chủ tư nhân rất không đồng đều. Nên cạnh
tranh các nhà quản lý dày dạn kinh nghiệm, cha truyền con nối…, còn có
21

×