Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

(Luận văn thạc sĩ) các biện pháp quản lý nhằm tăng cường hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên trường cao đẳng công nghiệp nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

HỒNG VĂN CHÍNH

Các biện pháp quản lý nhằm tăng cường hoạt động
tự học ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng
Công nghiệp Nam nh

luận văn thạc sĩ GIO DC HC

Hà nội - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

HỒNG VĂN CHÍNH

Các biện pháp quản lý nhằm tăng cường hoạt động
tự học ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng
Công nghiệp Nam nh

Mó s

: 60 14 05

luận văn thạc sĩ GIO DC HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Văn Quân


Hµ néi - 2007


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, giáo dục- đào tạo có vai trị rất quan trọng là đào tạo cho xã hội
nguồn nhân lực có chất lượng “vừa hồng, vừa chuyên” như lời Bác Hồ dạy :
“cách học tập:.. lấy tự học làm cốt”. Nghị quyết TW 4 (khoá 7) đã chỉ rõ
nhiệm vụ quan trọng của giáo dục và đào tạo là phải “ khuyến khích tự học”,
“áp dụng những phương pháp giáo dục sáng tạo, năng lực giải quyết vấn
đề”... Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quộc lần thứ IX cũng nêu: “
Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững...” Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội
dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo
dục thực hiện “ chuẩn hoá, hiện đại hoá”, phát huy tư duy khoa học và sáng
tạo, năng lục tự nghiên cứu của sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn
thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng
các hình thức chính quy và khơng chính quy, thực hiên tốt cơng tác xã hội hoá
giáo dục để cả nước trở thành xã hội học tập.
Tinh thần các nghị quyết của Đảng về giáo dục- đào tạo đã được thể
chế hoá trong Luật giáo dục. Điều 24- Luật giáo dục năm 1998, điều 28 Luật
giáo dục sửa đổi năm 2005 chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo cho người học, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm, rèn luyện kỹ năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng
thú học tập cho người học”. Ngày 20/4/1999 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT có chỉ thị

15/1999/CT cho các trường sư phạm, trong đó có nêu vấn đề: “Đổi mới
phương pháp giảng dậy và học tập, phát huy tính chủ động, sáng tạo và năng
lực tự học, tự nghiên cứu của học sinh, sinh viên. Người thầy giữ vai trò chủ


đạo trong việc tổ chức, điều khiển, định hướng quá trình dạy học, cịn người
học giữ vai trị chủ động trong quá trình học tập tiếp thu kiến thức và tham gia
nghiên cứu khoa học... Có ý thức xây dựng thói quen tự học, tự nghiên cứu
giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực, sáng
tạo, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.
Trong dự thảo đề án: Xây dựng xã hội học tập ở Việt nam, do Bộ Giáo
dục và Đào tạo phối hợp với hội khuyến học Việt Nam soạn thảo theo công
văn số 167/ VPCP ngày 27/10/2003 của văn phịng Chính phủ, có đoạn viết: “
Cốt lõi của sự học là “ con người ham muốn học và biết cách tự học”... Phát
huy nội lực của người học bằng tự học, tự rèn luyện lập thân, lập nghiệp...
Dạy cho người học biết cách tự tìm, tự tạo việc làm sau khi ra trường tiếp tục
vừa làm, vừa học, thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của cơng nghệ và
thực tế sản xuất... Triển khai nhiều hình thức cho người lớn tuổi và trẻ em thất
học ở bên ngoài nhà trường cũng được học và tự học thường xuyên liên tục,
suốt đời... Động viên, khuyến khích, hỗ trợ cho mọi người tự học...”. Như vậy
tự học là một tư tưởng lớn trong chiến lược phát triển giáo dục & đào tạo ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Quản lí giáo dục nói chung, quản lí dạy học nói riêng có nội dung cốt
lõi là quản lí các hoạt động của nhà trường, trong đó có hoạt động dạy học.
Dạy học là quá trình tương tác hoạt động giữ người dạy và người học,
trong đó người dạy thực hiện những tác động nhằm gây ảnh hưởng đến người
học, trong và bằng cách đó hình thành và phát triển hoạt động học- tự học cho
người học.
Như vậy, quản lí hoạt động dạy học xét đến cùng là nhằm giúp cho
người học, học có kết quả và hiệu quả cao. Điều đó cũng có nghĩa, phải quản

lí được hoạt động tự học của họ, hình thành và phát triển cho người học năng
lực tự học.
Trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định nói riêng và các trường đào
tạo nghề trong tỉnh nói chung đang trong q trình thực hiện đổi mới giáo
dục, đổi mới phương pháp dạy học. Theo đó mục tiêu cần đạt được của nhà


trường là phải biết dạy cho học sinh, sinh viên biết cách học. Phương pháp
giáo dục, thường xuyên phải phát huy vai trò chủ động, khai thác kinh nghiệm
của người học, coi việc bồi dưỡng năng lực tự học, sử dụng phương tiện hiện
đại và công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học.
Quản lý hoạt động dạy và học nói chung, quản lý việc tự học của sinh
viên nói riêng có vai trị rất quan trọng. Việc phát triển năng lực tự học cho
sinh viên sẽ góp phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo của trường Cao đẳng Công nghiệp Nam định
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi chọn đề tài: “Các biện pháp
quản lý nhằm tăng cường hoạt động tự học Ngoại ngữ của sinh viên
trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động dạy học ngoại ngữ ở
trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định, đề xuất các biện pháp quản lý
nhằm tăng cường hoạt động tự học Ngoại ngữ của sinh viên trong trường.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Cơng tác quản lí hoạt động học tập ngoại ngữ của sinh viên trường Cao
đẳng Công nghiệp Nam Định.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý nhằm tăng cường hoạt động tự học Ngoại ngữ của
sinh viên trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định.
4.Giả thuyết nghiên cứu

Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý hợp lý, khả thi để tăng cường
hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Công nghiệp Nam
Định sẽ từng bước nâng cao chất lượng dạy học mơn học và góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo của trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quản lý dạy học và quản lý
hoạt động tự học Ngoại ngữ của sinh viên.


- Nghiên cứu thực trạng về hoạt động tự học và quản lý hoạt động tự
học Ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định hiện
nay.
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm tăng cường
hoạt động tự học của sinh viên trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định .
6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý nhằm tăng cường
hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên nội trú Trường Cao đẳng Công
nghiệp Nam Định
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống những vấn đề
về lý luận có liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài qua sách, báo và
các tài liệu tham khảo
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra: sử dụng mẫu phiếu điều tra với sinh viên, giáo
viên, cán bộ quản lý để nắm được về thực trạng tự học của sinh viên, về công
tác quản lý hoạt động tự học của trường.
+ Thống kê, phân tích tổng hợp, sử dụng số liệu sau điều tra
+ Các phương pháp hỗ trợ: trao đổi, phỏng vấn với sinh viên, giáo viên
và cán bộ quản lý

8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục. Luận văn được trình bày theo ba chương.
+ Chương 1 Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
+ Chương 2 Thực trạng cơng tác quản lí hoạt động tự học ngoại ngữ của
sinh viên trường Cao đẳng Cơng nghiệp Nam định
+ Chương 3 Biện pháp quản lí nhằm tăng cường hoạt động tự học ngoại ngữ
của sinh viên trường Cao Đẳng Công Nghiệp Nam định



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
NGOẠI NGỮ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ giữa thế kỷ 18 , cùng với sự phát triển của nền sản xuất cơng nghiệp,
khoa học quản lí cũng phát triển, xuất hiện các học thuyết, các trường phái
quản lí mới. Chẳng hạn, Fredrick Winslow Taylor (1856- 1915) với thuyết
quản lí khoa học; Henry Fayol (1841-1925) với thuyết quản lí hành chính;
Mary Parker Follet (1868- 1933), Elton Mayor (1880-1949) thiên về trường
phái quản lí theo quan hệ con người; G.B. Watson (1878-1958); Douglas
Hugo Munsterberge (1683-1916); Abraham Maslow (1908-1970); Douglas
Mc.Gregor (1906-1964) với thuyết quản lí theo hành vi. Về thuyết quản lí tổ
chức, phải kể đến Chester Irving Barnard (1886-1961). Về các thuyết văn hố
quản lí có thuyết Z của William Ouchi, và đại biểu của trào lưu này còn phải
kể đến Thomas J. Peters, Robert H. Waterman,... Trên nền tảng khoa học
quản lí chung, khoa học quản lí giáo dục trên thế giới và Việt Nam đã có
những thành tựu đáng kể.
Cũng từ giữa thế kỷ 18 này, trên thế giới đã xuất hiện những cơng
trình về thực tiễn hoạt động giáo dục của K. Raumer (1842, Đức), về cải cách

giáo dục của R. H. Quych (1868, Mỹ). Từ giữa và cuối thế kỷ 19, nhiều tác
giả đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề cụ thể về giáo dục, trong đó đề cập tới
quản lí giáo dục như K.Ker, A.Lavrơxki, M.I. Calinin, N.K. Crupxcaia, A.X.
Makarencô...
Ở Việt Nam, một số tư tưởng, quan điểm về giáo dục cũng đã được
các nhà nghiên cứu đề cập tới trong các cơng trình nghiên cứu của mình như
Ngơ Sĩ Liên (TK 15), Lê Q Đơn (TK 18). Trong nửa đầu thế kỷ 19, Phan
Huy Chú đã nghiên cứu chi tiết, có hệ thống về cơng việc điều hành, tổ chức
thi cử trong giáo dục. Từ 1945, sau cách mạng tháng 8 thành công, nhiều nhà
nghiên cứu và hoạt động sư phạm đã đề cập tới quản lí giáo dục, đặc biệt như


Hồ Chủ Tịch trong “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã có một hệ thống các bài viết, bài nói về giáo dục.
Tiếp theo đó, có những tổng kết lí luận và kinh nghiệm thực tiễn về
phát triển, quản lí giáo dục theo một số giai đoạn như Nguyễn Văn Huyên với
cuốn “ Quá trình 16 năm xây dựng giáo dục - Hà nội, 1961”, Nguyễn Khánh
Toàn với “20 năm xây dựng giáo dục - Hà nội, 1965”, Nguyễn Lân với “Lịch
sử giáo dục thế giới - Hà nội, 1958”,...
Trưởng thành, lớn mạnh theo sự phát triển kinh tế - xã hội, khoa học
quản lí giáo dục Việt nam dần dần hồn thiện, tiếp cận với thế giới. Trong q
trình đó, xuất hiện nhiều nhà quản lí giáo dục như Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đức
Minh, Nguyễn Ngọc Quang, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quang Phúc, Lê
Sơn,...
Vào cuối thế kỷ 20, bước sang đầu thế kỷ 21, xuất hiện những nhà
nghiên cứu kết hợp với thực tiễn giáo dục ở Việt nam với những yếu tố hiện
đại như Đặng Quốc Bảo với “Về phạm trù nhà trường và nhiệm vụ phát triển
nhà trường trong bối cảnh hiện nay”, “ Quản lí giáo dục- nhiệm vụ và phương
hướng”, NXB Đại học - Hà nội, 1996; Nguyễn Quốc Chí- Nguyễn Thị Mỹ
Lộc “Bài giảng Cơ sở khoa học quản lí ”, Hà nội 1996/2004; Nguyễn Văn Lê

với “ Khoa học quản lí”, 1994; Bùi Văn Quân “động lực học tập và tạo động
lực học tập”, Tạp chí giáo dục, tháng 12/2005. Trang 47 “Quản lý giáo dục”,
NXB giáo dục, 2007...
Nghiên cứu quản lý hoạt động tự học của sinh viên nói chung đã được
thực hiện trong một số nghiên cứu luận văn thạc sĩ QLGD. Theo hướng
nghiên cứu này, có thể kể đến một số cơng trình như: “Biện pháp quản lí hoạt
động tự học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình” của tác giả
Đỗ Thị Lan Hương; “Một số biện pháp tăng cường quản lí nâng cao chất
lượng dạy học mơn ngoại ngữ ở trung tâm Đào tạo bồi dưỡng cán bộ trường
Đại học Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Phương Lan. Rõ ràng, những nghiên
cứu về quản lý tự học của sinh viên cao đẳng, đặc biệt là quản lí hoạt động tự


học ngoại ngữ nhằm tăng cường năng lực tự học cho sinh viên cao đẳng tuy
đã được nhiều người quan tâm, song vẫn còn nhiều hạn chế.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Tự học
Thông thường, tự học được hiểu là tự mình học lấy cho mình. Tuy
nhiên, chuyện tự học đề cập ở đây không phải chỉ được hiểu một cách đơn
giản như vậy.
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp)
và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất, rồi cả động cơ, tình cảm, nhân sinh
quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, khơng ngại
khó, ngại khổ, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết
biến khó khăn thành thuận lợi,…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó
của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành của mình”.
Giáo sư Vũ Văn Tảo nhận định: “Sự học dù dưới dạng nào, tại trường
lớp hoặc ngồi trường lớp, có người thầy hướng dẫn hoặc khơng có thầy, có
sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật, của cơng nghệ thơng tin hoặc chưa,

đều phải có sự tự học… Học là một q trình trong đó chủ thể tự biến đổi
mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lượm và xử lý thông tin từ mơi
trường sống xung quanh mình”.
Nhà giáo dục John Lubbock nói: “Cái gì ta tự học được thì mới thực
là của ta, hơn những cái người khác dạy cho ta”.
Tự học là nội lực của người học, là nhân tố quyết định sự phát triển
của bản thân người học. Có tự học mới phát triển được tư duy độc lập, từ chỗ
có tư duy độc lập mới có tư duy phê phán, có khả năng phát hiện vấn đề, nhờ
đó mới có tư duy sáng tạo. Tự học là q trình tích cực, tự giác chiếm lĩnh tri
thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo của chính bản thân người học. Nhờ có tự
học, người học mới thực sự nắm vững tri thức, làm chủ tri thức và vận dụng
những tri thức đó vào thực tiễn cuộc sống. Tự học có thể tóm tắt lại như sau:
Trị học, cốt lõi là tự học, học cách học, cách tư duy. Thầy dạy cốt lõi là dạy


cách học, cách tư duy. Tác động dạy của người thầy là ngoại lực đối với sự
phát triển của người học. Theo quy luật phát triển của sự vật, ngoại lực dù
quan trọng đến đâu, lợi hại đến mấy cũng chỉ là nhân tố hỗ trợ, thúc đẩy, tạo
điều kiện. Nội lực mới là nhân tố quyết định sự phát triển của bản thân sự vật.
Sự vật đó phát triển đến trình độ cao khi nội lực và ngoại lực cộng hưởng
được với nhau.
Hoạt động tự học là công việc mà mọi người có thể tiến hành ở mọi
nơi, mọi lúc, bằng mọi cách và với mọi nội dung. Nói như giáo sư Nguyễn
Cảnh Toàn là thực hiện “5 mọi” trong học tập.
Khi bàn về vấn đề tự học, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười có ghi trong
thư gửi “Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo” ngày
06/01/1998 như sau: “Tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời
mỗi con người trong điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau,
đó cũng là truyền thống quý báu của con người Việt Nam và dân tộc Việt
Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng

lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành tự giáo
dục. Quy mơ giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học”.
Hoạt động tự học diễn ra với ba hình thức sau:
- Hình thức thứ nhất: Có sách, có tài liệu, người học tự tìm kiếm tri
thức để thoả mãn nhu cầu nâng cao, mở rộng hiểu biết của riêng mình, bổ
sung, mở rộng kiến thức ngồi chương trình đào tạo của nhà trường. Đây là tự
học ở mức độ cao.
- Hình thức thứ hai: Có sách, có tài liệu, và có thêm người thầy ở xa
hướng dẫn tự học thông qua các phương tiện viễn thông. Hướng dẫn tự học từ
xa là hướng dẫn tư duy trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Đây là tự học có
hướng dẫn.
- Hình thức thứ ba: Có sách, có tài liệu, có thầy trực tiếp hướng dẫn
một số tiết trong ngày, trong tuần. Tự học diễn ra dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn
cụ thể trước của thầy và chịu sự kiểm tra kết quả sau tự học. Đây là hình thức
trực tiếp có thầy trên lớp và về nhà tự học theo hướng dẫn.


Trong đề tài này, căn cứ vào mục đích và phạm vi nghiên cứu, tác giả
chỉ đề cập đến hoạt động tự học theo hình thức thứ ba.
1.2.2. Sinh viên
Trong tiếng Pháp, từ “étudiant” (sinh viên) được cấu thành từ từ gốc
“étude” (học tập, nghiên cứu). Trong tiếng Anh, từ “student” (sinh viên) được
cấu thành từ, từ gốc “study” (học tập, nghiên cứu). Như vậy, sinh viên là
những người gắn liền với cơng việc học tập và nghiên cứu.
Về trình độ văn hoá, sinh viên là những người đã tốt nghiệp bậc học
trung học phổ thơng và có đủ điều kiện để học tiếp các cấp học cao hơn như
cao đẳng, đại học.
Hầu hết sinh viên ở độ tuổi từ 18 đến 22, đang trưởng thành về nhận
thức xã hội, tinh thần và đạo đức, bắt đầu hình thành nhân cách và những
phẩm chất nghề nghiệp. Sinh viên sống có niềm tin, có lý tưởng, có ước mơ

cao đẹp, có hồi bão cho tương lai, có tình cảm nghĩa vụ, tinh thần trách
nhiệm, khát vọng được cống hiến. Họ có tính độc lập sáng tạo, có nguyện
vọng tự khẳng định mình và mong muốn xã hội đánh giá đúng mình. Sinh
viên là lứa tuổi có thể lực đang phát triển khoẻ mạnh, trí tuệ tiếp thu nhanh,
nhạy bén, ham học hỏi và tìm tịi cái mới.
Bên cạnh những điểm mạnh trên đây, sinh viên cũng thường bộc lộ
một số nhược điểm. Họ mới rời ghế nhà trường phổ thông, chưa từng trải, có
ít kinh nghiệm trong cuộc sống, tiếp thu các yếu tố bên ngồi khơng chọn lọc
kỹ, khi có tác động của ngoại cảnh thì dễ bị ảnh hưởng. Hơn nữa, sau kỳ thi
tuyển sinh căng thẳng, những sinh viên khơng xác định đúng mục đích, động
cơ học tập dễ có tư tưởng “xả hơi”, học hành chểnh mảng, thậm chí chơi bời
q đà dẫn đến sa ngã. Vì vậy, nhà trường cần có những biện pháp quản lý,
giáo dục, định hướng cho sinh viên để họ tránh những lệch lạc trong cuộc
sống cũng như học tập.
Khi nhận xét về sinh viên, V.I. Lênin đã đánh giá: “Sinh viên là bộ
phận nhạy cảm nhất của trí thức, là tầng lớp có trình độ tiên tiến nhất trong
giới thanh niên. Song bên cạnh đó, sinh viên cịn thiếu kinh nghiệm sống, cần


được bổ sung bằng “kinh nghiệm” của lớp chiến sĩ già, những người đã được
hun đúc bằng truyền thống cách mạng và tầm hiểu biết chính trị rộng rãi làm
cho họ sáng suốt hơn”.
Sinh viên là lớp người có nhiều cơ hội được tiếp xúc với những tiến
bộ khoa học mới nhất của nhân loại, được trang bị một cách có hệ thống
những tri thức và kỹ năng cần thiết cho cuộc sống tương lai. Vì vậy, trong quá
trình học tập ở nhà trường, sinh viên phải tận dụng mọi cơ hội để học tập,
không chỉ học tập trên lớp mà còn phải tự học, tự nghiên cứu để trang bị kiến
thức một cách vững chắc, cho phép mình tự tin bước vào cuộc sống.
Đối với sinh viên, học tập là hoạt động chủ đạo và liên tục. Học tập
của sinh viên khơng chỉ để có học vấn mà cịn để chuẩn bị những kỹ năng

chuyên môn sâu nên hoạt động học tập của sinh viên là loại hình lao động rất
vất vả. Để nắm được tri thức đã khó, việc hình thành các kỹ năng cịn khó hơn
nhiều, vì thế việc học tập ở trên lớp không thể nào đủ thời gian, sinh viên cần
phải tích cực tự học, tự nghiên cứu để đạt được kết quả cao trong học tập cũng
như trong cuộc sống thực tế sau này.
1.2.3. Hoạt động tự học của sinh viên
Đối với sinh viên thì khơng thể khơng có việc tự học, bởi đặc trưng
của việc học tập của sinh viên là tự nghiên cứu, tìm tịi khám phá tri thức là
chủ yếu, cịn giảng viên chỉ là người giúp đỡ, hướng dẫn sinh viên học tập,
nghiên cứu mà thôi. Hoạt động tự học ln giữ vai trị quan trọng trong q
trình học tập của sinh viên và cả trong cuộc sống sau này.
Hoạt động tự học của sinh viên nhằm nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo về nghề nghiệp trong tương lai. Quá trình tự học giúp sinh viên hiểu sâu
bài, củng cố và ghi nhớ kiến thức, mở rộng kiến thức, biết thực hành những kỹ
năng đã học trên lớp, biết vận dụng kiến thức vào việc giải quyết những vấn
đề mới. Tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng
và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp sinh viên có
hứng thú, thói quen và phương pháp tự học, rèn luyện và nâng cao khả năng
làm việc độc lập, sáng tạo trong học tập và trong cuộc sống, để thường xuyên


làm phong phú thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình trong thời đại
bùng nổ thơng tin hiện nay.
Kho tàng tri thức của xã hội loài người rất phong phú và đa dạng, đòi
hỏi của xã hội đối với sinh viên ra trường rất lớn, nhà trường không thể dạy
hết tất cả cho sinh viên được. Vì vậy, nhà trường coi tự học, tự đào tạo là
phương thức tạo ra chất lượng thực sự, lâu bền của quá trình giáo dục - đào
tạo. Tự học là cốt lõi của việc học, khi có học là có tự học, khơng ai có thể học
thay người khác được. Tự học đối với sinh viên là một nhiệm vụ không thể
thiếu được khi đất nước và thế giới đang trong đà phát triển như vũ bão.

Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ của thời đại thông tin và
nền kinh tế tri thức. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và
công nghệ, tri thức của nhà trường cung cấp ln ở trạng thái “lão hố”. Trong
tình hình như vậy, nếu sinh viên chỉ hồn tồn phụ thuộc vào sự cung cấp tri
thức của nhà trường, không có ý thức tự mình cập nhật tri thức thì sẽ bị tụt
hậu, không theo kịp cuộc sống hiện đại, không thể đáp ứng được yêu cầu của
xã hội khi ra trường.
Sinh viên nội trú là những sinh viên sống trong ký túc xá sinh viên
Họ là những người ở xa gia đình, sống trong tập thể sinh viên, dưới sự quản lý
của các cán bộ quản lý ký túc xá sinh viên trong những thời gian không lên
lớp. Sinh viên nội trú không được tự do như những sinh viên ngoại trú, họ
phải chấp hành nội quy và những quy định của ký túc xá do nhà trường đề ra.
Ngược lại, họ được học tập và sinh hoạt trong một mơi trường tập thể sinh
viên có kỷ luật, khuyến khích nhau tự học, cùng nhau tự học và học hỏi, giúp
đỡ lẫn nhau trong khi tự học. Hoạt động tự học của sinh viên nội trú là hoạt
động dễ quan sát và hồn tồn có thể tổ chức được.
Vì vậy, đối tượng để quản lý hoạt động tự học trong đề tài này chỉ hạn
chế trong sinh viên nội trú.
Hoạt động tự học của sinh viên nội trú là hoạt động tự học theo hình
thức tự học: hàng tuần có thời gian học thầy trên lớp và ở ký túc xá tự học
theo hướng dẫn.


1.2.4. Quản lý hoạt động tự học
1.2.4.1. Quản lý
Các Mác cho rằng: “Bất cứ nơi nào có lao động, ở đó có quản lí”, và
“Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên qui mơ
tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt
động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động
của những khí quan độc lập của nó. Một người đọc tấu vĩ cầm tự mình điều

khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng”. Quản lí là “Nhằm
thiết lập sự phối hợp những cơng việc giữa các cá nhân và thực hiện những
chức năng chung nảy sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ sở sản xuất, khác với
sự vận động của các bộ phận riêng lẻ của nó”.
Kazlova O.V, Kuznhetsov I.N, những nhà nghiên cứu về quản lý ở
Liên xô cũ cũng đã quan niệm “Quản lí là sự tác động có mục đích đến những
tập thể con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản
xuất”.
Harold Koontz, trong tác phẩm “Những vấn đề cốt lõi của quản lí”
viết: “Quản lí là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực
cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lí
là nhằm hình thành một mơi trường mà trong đó con người có thể đạt được
các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc và sự bất mãn cá nhân ít nhất”.
Aphanaxev V.G, trong sách “Con người trong hệ thống quản lí” đã định nghĩa
“Quản lí con người là sự tác động con người đến con người thơng qua quan
hệ quản lí (quan hệ con người với con người là quan hệ công việc) làm cho
hành vi (hoạt động) của con người đáp ứng yêu cầu của xã hội, của tập thể
đem lại lợi ích cho cá nhân, tập thể và xã hội, thúc đẩy sự phát triển cho cả cá
nhân, tập thể và xã hội”.
Các nhà nghiên cứu về quản lí ở Việt nam cũng đã đưa ra những quan
niệm về quản lí.
Giáo trình “Quản lí hành chính nhà nước,1996” của viện hành chính
quốc gia đã viết “Hoạt động quản lí là một dạng lao động đặc biệt của người


lãnh đạo mang tính tổng hợp của các hoạt động trí óc liên kết các bộ máy
quản lí thành một chỉnh thể thống nhất điều hoà, phối hợp các khâu, các cấp
hoạt động nhịp nhàng để đưa đến hiệu quả cao”.
Trong tác phẩm “Cơ sở khoa học quản lí”, NXB Chính trị Quốc gia Hà
nội,1999, tác giả Nguyễn Minh Đạo định nghĩa: “Quản lí là sự tác động có tổ

chức, có định hướng của chủ thể quản lí (đối tượng) về mặt chính trị, văn hố,
xã hội, kinh tế,... bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên
tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều
kiện cho sự phát triển của đối tượng quản lí”.
Giáo trình “Quản lí giáo dục”, NXB giáo dục, 2007, tác giả Bùi Văn
Quân định nghĩa: “Quản lí là q trình tiến hành những hoạt động khai thác,
lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của chủ thể quản
lí theo kế hoạch chủ động và phù hợp với quy luật khách quan để gây ảnh
hưởng tới đối tượng quản lí nhằm tạo ra sự thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần
thiết vì sự tồn tại (duy trì), ổn định và phát triển của tổ chức trong một môi
trường luôn biến động”.
Frederick Taylor (1856-1917), người đặt nền móng cho quản lí một
cách khoa học đã kết luận rằng “ Quản lí là khoa học và đồng thời là nghệ
thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội”.
Từ những khái niệm về quản lí theo các góc độ khác nhau nêu trên,
chúng ta có thể định nghĩa chung như sau: Quản lí một đơn vị (cơ sở sản xuất,
cơ quan, trường học, địa phương, khoa, tổ bộ môn...) với tư cách là một hệ
thống xã hội là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống, vào từng thành
tố của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp, nhằm đạt được các mục
tiêu đề ra một cách có chất lượng, hiệu quả.
1.2.4.2. Quản lý giáo dục và quản lý dạy học
- Quản lý giáo dục
Hiện nay, định nghĩa quản lí giáo dục tuy chưa hồn tồn thống nhất,
nhưng đã có nhiều ý kiến cơ bản đồng nhất. Người ta thường xem xét quản lí
giáo dục theo hai góc độ: hệ thống giáo dục theo đặc trưng thứ bậc (toàn xã


hội, Bộ, Sở, Phòng, Trường), hệ thống giáo dục tồn tại có tính bản thể (q
trình sư phạm, cơ sở vật chất, thiết bị..., các định hướng giáo dục: đường lối,
chính sách..., yếu tố con người: thầy, trị, cán bộ quản lí..., quan hệ giữa con

người là chủ thể quản lí, với con người là khách thể quản lí...)
Theo M.I Kơndakơp, trong sách “Cơ sở lí luận của khoa học quản lí
giáo dục” Hà nội, 1984 viết: “Tập hợp những biện pháp (tổ chức, phương
pháp, cán bộ, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu...) nhằm đảm bảo sự vận hành
bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và
mở rộng hệ thống cả về mặt chất lượng cũng như số lượng”.
Ở Việt nan, Giáo sư Phạm Minh Hạc trong “Một số vấn đề về giáo dục
và khoa học giáo dục”, NXB Giáo dục, Hà nội, 1986, cho rằng: “quản lí nhà
trường (quản lí giáo dục nói chung) là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng
trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” và nhấn mạnh thêm:
“Quản lí nhà trường, quản lí giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học, tự học...,
có tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà
trường... thì mới quản lí được giáo dục, tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục
của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng được yêu cầu đó của
nhân dân, của đất nước”
Trong tài liệu “ Những vấn đề quản lí nhà nước và quản lí giáo dục”,
Hà nội,1998, Trường Cán bộ quản lí Giáo dục- Đào tạo TƯ viết: “Quản lí
giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí tới khách thể quản lí
nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong
muốn bằng cách hiệu quả nhất”. Cũng trong tài liệu này, Đặng Quốc Bảo
viết: “ Quản lí giáo dục là quản lí một loại quá trình kinh tế- xã hội nhằm
thực hiện đồng bộ, hài hồ sự phân hố xã hội để tái sản xuất sức lao động có
kỹ thuật phục vụ các yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội”. Cũng ở tài liệu trên,
trong chủ đề “ Quản lí nhà nước về giáo dục- đào tạo”, tác giả Nguyễn Thị
Mỹ Lộc định nghĩa: “Quản lí nhà nước trong giáo dục là việc nhà nước thực


hiện quyền lực công, được xã hội uỷ thác để điều chỉnh toàn bộ các hoạt động

giáo dục- đào tạo trong phạm vi toàn xã hội”
Tác giả Bùi Văn Quân cũng định nghĩa: “Quản lí giáo dục là một dạng
của quản lí xã hội trong đó diễn ra q trình tiến hành những hoạt động khai
thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của chủ thể
quản lí theo kế hoạch chủ động để gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lí được
thực hiện trong lĩnh vực giáo dục, nhằm thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết
vì sự ổn định và phát triển của giáo dục trong việc đáp ứng các yêu cầu mà
xã hội đặt ra đối với giáo dục”.
- Quản lí dạy học
Dạy học là khái niệm chỉ hoạt động chung của người dạy và người học,
hai hoạt động này song song tồn tại và phát triển trong cùng một quá trình
thống nhất. Quá trình dạy học là bộ phận hữu cơ của q trình giáo dục tổng
thể, trong đó vai trò của nhà sư phạm là định hướng tổ chức, thực hiện việc
truyền thụ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đến người học một cách hợp lí, khoa học
và có hệ thống, do đó nhà sư phạm có vai trị và tác dụng chủ đạo.
Quản lí hoạt động dạy của giáo viên là quản lí nội dung, chương trình,
phương pháp dạy học thông qua qui chế chuyên môn, thông qua việc chỉ đạo
việc đổi mới phương pháp dạy học, thông qua kiểm tra, đánh giá...
Quản lí hoạt động học của học sinh là quản lí q trình lĩnh hội tri
thức của học sinh, hướng học sinh vào những nội dung trọng tâm của môn
học, của từng bài với phương pháp học tập cá nhân phù hợp, đạt hiệu quả cao
nhất.
Như vậy: Quản lí hoạt động dạy học là quản lí nội dung chương trình
theo mục tiêu của nhà trường, quản lí q trình truyền thụ kiến thức của giáo
viên, quản lí việc thực hiện chương trình dạy học và quản lí sự lĩnh hội kiến
thức của học sinh.
1.2.4.3. Quản lý hoạt động tự học
Tự học là một hoạt động do bản thân mỗi người nhận thức được sự
cần thiết của nó đối với q trình học tập cũng như cuộc sống của mình. Vì



thế, người ta thường cho rằng tự học thì khơng phải quản lý. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy, đối với bất cứ hoạt động nào, dù sự cố gắng của bản thân tốt đến
đâu nhưng khi có thêm sự hỗ trợ, tác động tích cực từ bên ngồi thì kết quả
đạt được sẽ tốt hơn nhiều. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Cách học
tập… lấy tự học làm cốt. Có thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Thảo luận là sự
hợp tác giữa những người cùng tự học, còn chỉ đạo là một trong những chức
năng quan trọng của quản lý.
Như chúng ta đã biết, tự học là hoạt động học tập của sinh viên ngoài
giờ lên lớp của các thầy cô giáo nhằm nắm vững kiến thức, mở rộng tri thức.
Nó mang tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân. Mặc dù kết quả tự
học phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố tự giác, tích cực và phương pháp học tập
của sinh viên, nhưng nó cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những yếu tố bên
ngồi. Vì vậy, muốn cho hoạt động tự học của sinh viên đạt kết quả tốt thì
phải coi trọng vai trò của quản lý hoạt động tự học của sinh viên.
1.2.5. Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Hoạt động tự học là hoạt động mang nhiều tính tự lực, cá nhân của
chủ thể tự học. Việc quản lý hoạt động tự học cần có những biện pháp thật
phù hợp để hoạt động đó đạt hiệu quả. Để hiểu được khái niệm biện pháp
quản lý hoạt động tự học thì trước hết chúng ta tiếp cận khái niệm biện pháp
quản lý.
Biện pháp quản lý là những cách thức cụ thể để thực hiện các phương
pháp quản lý. Vì đối tượng quản lý rất phức tạp nên đòi hỏi các biện pháp
quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt, phù hợp với đối tượng quản lý.
Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên là những cách thức,
cách giải quyết những vấn đề của hoạt động tự học mà chủ thể quản lý chịu
trách nhiệm chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Theo đó, biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên nội trú là
những cách thức, cách giải quyết mà nhà quản lý sử dụng để quản lý hoạt
động tự học của sinh viên trong ký túc xá nhằm giúp cho sinh viên tự học đạt

kết quả cao.


1.3. Hoạt động dạy học ngoại ngữ ở các trường Cao đẳng chuyên nghiệp
Ngoại ngữ là ngôn ngữ của một dân tộc ở nước ngồi, nói gọn là tiếng
nước ngồi.
Dạy học ngoại ngữ là một hoạt động truyền thụ và lĩnh hội thứ tiếng
nước ngồi một cách có mục đích, chương trình, nội dung, phương pháp, kế
hoạch, biện pháp tổ chức rõ ràng nhằm hình thành ở người học khả năng hiểu
biết, thu nhận, tái tạo và sử dụng ngôn ngữ được học đạt mục tiêu đã định.
1.3.1. Mục tiêu dạy học ngoại ngữ
Mục tiêu dạy học ngoại ngữ (Tiếng Anh...) ở các trường Cao đẳng
chuyên nghiệp... là hình thành, phát triển ở người học (sinh viên) những kiến
thức, kỹ năng cơ bản về tiếng nước ngoài được học, nhằm góp phần phát triển
học vấn cần thiết để có thể tiếp tục học lên, hoặc ra trường công tác.
Nêu một cách cụ thể hơn, quá trình dạy học ngoại ngữ nhằm truyền thụ
cho sinh viên nắm vững những kiến thức cơ bản tối thiểu, tương đối có hệ
thống cùng những kĩ năng nghe- nói - đọc - viết về tiếng nước ngồi được học
và sử dụng như một cơng cụ giao tiếp. Sau khi hồn thành chương trình, sinh
viên phải sử dụng được ngơn ngữ đó để đọc hiểu các sách báo khoa học
thưởng thức, các tài liệu tham khảo phù hợp với trình độ học vấn và ngành
nghề cơng tác, đồng thời có thể giao tiếp trực tiếp với người nước ngoài về
các vấn đề sinh hoạt đơn giản hàng ngày, sử dụng được một số thuật ngữ
chuyên ngành theo chun mơn được đào tạo nhằm góp phần hỗ trợ cho việc
học tập các môn học khác, phát triển trí tuệ cần thiết để tiếp tục học tiếp hoặc
đi vào
cuộc sống lao động, công tác.
1.3.2. Nội dung dạy học ngoại ngữ
Tri thức ngoại ngữ cung cấp cho sinh viên (người học) là những nội
dung khoa học cơ bản, tối thiểu về ngoại ngữ được học, giúp họ nhận thức và

có thể vận dụng chủ động, tự giác tiếng nước ngồi được học như một “cơng
cụ giao tiếp”. Đồng thời, việc dạy học ngoại ngữ còn kết hợp giới thiệu cho
người học những kiến thức văn hoá nền tảng của dân tộc có ngơn ngữ mà sinh


viên đang học, giúp họ hiểu thêm về đất nước, con người ấy; Từ đó tăng thêm
hứng thú học tập, thu nạp và làm giầu thêm vốn giá trị văn hố của người học.
Ở trường Cao đẳng Cơng nghiệp, với đặc điểm là đào tạo chuyên ngành, sinh
viên được học thêm về những thuật ngữ về chuyên môn, để họ có thể đọc
hiểu, tham khảo những tài liệu chun mơn xuất bản bằng tiếng nước ngoài
thuộc chuyên ngành đang học.
Những kĩ năng cơ bản trong dạy học ngoại ngữ
Nội dung dạy học ngoại ngữ bao gồm kĩ năng giao tiếp ngoại ngữ với
4 dạng hoạt động giao tiếp cơ bản: Nghe, Nói, Đọc, Viết.
 Kỹ năng nghe được hiểu là người nghe tiếp nhận thơng tin của người
nói thơng qua thính giác của mình để hiểu nội dung thơng báo, thơng
tin đó. Trong q trình giao tiếp bằng dạng thức “nói- nghe”, người nói
sử dụng bộ máy phát âm của mình để tạo thơng báo, thơng tin gồm
những từ, ngữ, câu tạo thành.
 Kỹ năng nói được hiểu là người học ngoại ngữ dùng âm thanh tiếng nói
để chuyển tải mội dung một thơng báo, thơng tin của mình tới người
nghe có cùng một tín hiệu “ âm thanh ngơn ngữ” trong hoạt động giao
tiếp.
 Kỹ năng đọc được hiểu là người đọc sử dụng khả năng thị giác nhìn vào
bản ghi “thông báo, thông tin”, đồng thời phát ra thành âm thanh ngôn
ngữ tương ứng với từ, ngữ, câu... có trên văn bản, ngoại trừ hình thức
“đọc thầm”.
 Kỹ năng viết được hiểu là chữ viết trên giấy, trên bảng... ghi ra nội
dung muốn biểu đạt, muốn nói đã được sắp xếp thông qua cách dùng
từ, đặt câu theo mục đích giao tiếp.

Bốn kĩ năng nêu trên đều được hình thành trên cơ sở hiểu nội dung
thơng báo, thơng tin. Người đọc cũng như người nghe đều là người tiếp nhận
thơng báo, thơng tin từ phía người viết hoặc người nói.


Mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa bốn kĩ năng nghe- nói- đọc- viết
được tóm tắt theo hình 1.1 dưới đây:
NĨI

NGHE

VIẾT

ĐỌC

Hình 1.1: Sơ đồ mối quan hệ giữa những kỹ năng cơ bản
trong học ngoại ngữ
Kỹ năng nói và kỹ năng nghe có quan hệ hai chiều hữu cơ với nhau, tạo
ra quá trình giao tiếp thực hiện.
Kỹ năng nói và kỹ năng viết cũng có quan hệ hai chiều, hữu cơ với
nhau, vì người nói và người viết đều là những người phát ra thông báo, thông
tin trong hoạt động giao tiếp.
Kỹ năng nói, kỹ năng nghe, kỹ năng viết có quan hệ tích cực lẫn nhau.
Kỹ năng viết với kỹ năng đọc có quan hệ một chiều, tạo ra sự giao tiếp
thuộc về nhận thức.
1.3.3. Đặc điểm của hoạt động dạy ngoại ngữ
- Trong hoạt động dạy tiếng nước ngoài, người dạy truyền thụ thứ
ngoại ngữ là ngơn ngữ vốn có sẵn, đã và đang được dân tộc đó sử dụng. Điều
này khác với hoạt động nghiên cứu khoa học hay hoạt động sáng tạo nghệ
thuật.

- Hoạt động dạy ngoại ngữ là truyền thụ tiếng nước ngoài đó khơng
phải để cho bản thân người dạy, mà là để tổ chức quá trình này cho hoạt động
học- tự học ngoại ngữ của học sinh. Nói cách khác, hoạt động dạy ngoại ngữ
của giáo viên tạo ra nội dung cho hoạt động học- tự học của học sinh; còn
hoạt động học- tự học ngoại ngữ của học sinh là điều kiện duy trì hoạt động
dạy ngoại ngữ của giáo viên.


1.4. Quản lí tự học ngoại ngữ của sinh viên các trường Cao đẳng chuyên
nghiệp
1.4.1. Nhiệm vụ chức năng của khoa - bộ môn ngoại ngữ trong trường Cao
đẳng chuyên nghiệp
- Tổ chức thực hiện quá trình đào tạo, quá trình dạy học ngoại ngữ và
các hoạt động giáo dục khác được nhà trường phân công.
- Chịu trách nhiệm về nội dung, chất lượng, tiến độ dạy học môn ngoại
ngữ theo kế hoạch giảng dậy của nhà trường. Tổ chức kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của sinh viên.
- Tổ chức biên soạn chương trình mơn học cụ thể, giáo trình- tài liệu
dạy học ngoại ngữ (do Hiệu trưởng phân nhiệm) theo chương trình khung và
hướng dẫn của Bộ Giáo dục- Đào tạo.
- Tổ chức nghiên cứu, cải tiến phương pháp dạy học ngoại ngữ, đề xuất
xây dựng kế hoạch bổ sung, khai thác hiệu quả và bảo trì thiết bị dạy học,
thực hành, thực tập, thực nghiệm khoa học phục vụ việc dạy học ngoại ngữ.
- Quản lí giảng viên, cán bộ - nhân viên, sinh viên theo phân cấp của
Hiệu trưởng. Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện đào tạo bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên, cán bộ- nhân viên; Triển
khai các hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ... do nhà trường phân
công.
- Liên hệ phối hợp chặt chẽ với các phòng, khoa khác trong trường,
nhằm thực hiện tốt cơng tác quản lí hoạt động tự học của sinh viên.

Quản lí nhà trường, quản lí khoa- bộ mơn thực chất là quản lí q trình
dạy học, vì thế phải chú trọng vào hai hoạt động cơ bản này là hoạt động Dạy
của thầy và hoạt động Học của trò.
1.4.2. Đặc điểm hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên cao đẳng
Cũng như hoạt động dạy học nói chung, hoạt động dạy học ngoại ngữ
bao gồm hai hoạt động thống nhất hữu cơ gắn bó, qui định lẫn nhau trong
cùng một hoạt động: Hoạt động dạy ngoại ngữ và hoạt động học- tự học ngoại
ngữ.


- Tiếng nước ngoài cần học là đối tượng của hoạt động học ngoại ngữ.
- Hoạt động học ngoại ngữ hướng vào làm biến đổi chính chủ thể
(người học) của hoạt động này.
- Hoạt động học ngoại ngữ trong nhà trường khác với học ngoại ngữ
diễn ra trong đời sống thường ngày có tính tự phát như trẻ em học tiếng mẹ
đẻ. Hoạt động học ngoại ngữ trong nhà trường mang tính tự giác, có mục
đích, có kế hoạch, chương trình- nội dung, biện pháp tổ chức rõ ràng. Bản
chất việc học nói chung, học ngoại ngữ nói riêng được hiểu là sự biến đổibiến đổi từ chỗ “khơng có đến chỗ có”, hoặc từ chỗ “có ít đến chỗ có nhiều
hơn”. Đó chính là sự biến đổi về khả năng hiểu biết, thu nhận, tái tạo, và sử
dụng được tiếng nước ngồi đó như một cơng cụ giao tiếp.
- Hoạt động học ngoại ngữ theo cơ chế lĩnh hội, tái tạo chứ không phải
cơ chế sáng tạo phát minh như các hoạt động khác. Tiếng nước ngồi cần học,
khơng được người học đồng hoá tạo ra cái mới về phương pháp phản ánh,
khái quát hiện thực và thông báo để cho chính bản thân người học chứ khơng
phải cho ai khác. Học tiếng nước ngoài là tiếp thu, lĩnh hội những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo và việc sử dụng tương ứng với ngơn ngữ đó.
1.4.3. Quản lí hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên
1.4.3.1. Mục tiêu và nội dung quản lý
Quản lý hoạt động tự học của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng học
tập của sinh viên và đạt được nhiệm vụ của hoạt động dạy học đề ra. Vì vậy,

nội dung quản lý hoạt động tự học của sinh viên nội trú bao gồm những nội
dung chính sau đây:
- Xây dựng động cơ tự học cho sinh viên
Mọi hoạt động của con người đều có mục đích, có động cơ. Động cơ
là nhân tố thúc đẩy, định hướng và duy trì hành vi của con người. Hoạt động
học tập của sinh viên cũng như các hoạt động khác sẽ diễn ra hiệu quả hơn
nếu sinh viên có thái độ đúng đắn, động cơ rõ ràng, tích cực, có nhu cầu lĩnh
hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.


Thuyết “nhu cầu” của A. Maslow đã xếp bặc thang nhu cầu như sau:
nhu cầu sinh học – cơ bản, nhu cầu về sự an toàn, nhu cầu về sự được thừa
nhận, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được thể hiện. Nhu cầu là một trong
những nguồn gốc sinh ra động cơ. Từ đó, động cơ tự học của sinh viên cũng
có những thứ bậc khác nhau như: nhu cầu phải hoàn thành nhiệm vụ học tập,
tự khẳng định mình, cơ hội có việc làm và cơng danh sự nghiệp, hoặc là học
để biết, học vì hứng thú, học vì lịng khát khao tri thức.
Động cơ tự học tích cực sẽ tạo nên hứng thú, niềm tin của sinh viên
trong quá trình tự học. Động cơ tự học chịu tác động của những người xung
quanh như giảng viên, bạn bè, và những điều kiện thực tiễn của nhà trường,
nhưng bản thân mỗi người là yếu tố quyết định.
Động cơ là tiền đề, là điều kiện cho hoạt động tự học ngoại ngữ của
sinh viên. Phải xây dựng cho sinh viên động cơ tự học tích cực, mong muốn
trở thành người có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ, mong muốn tạo ra
được những sản phẩm nghề nghiệp có giá trị và có nguyện vọng phát triển tri
thức và kỹ năng nghề nghiệp của mình đáp ứng được với các yêu cầu của sự
phát triển nghề nghiệp trong xã hội hiện đại. Đây là nội dung cơ bản, rất quan
trọng của công tác quản lý hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên.
- Quản lý kế hoạch tự học của sinh viên
Quản lý kế hoạch tự học của sinh viên bao gồm quản lý việc lập kế

hoạch và việc thực hiện kế hoạch đó.
Kế hoạch tự học là bảng phân phối nội dung tự học theo thời gian một
cách hợp lý, phù hợp với phương pháp tự học từng nội dung môn học, dựa
trên yêu cầu, mục tiêu đào tạo của từng môn học, nhiệm vụ tự học trong từng
giai đoạn cụ thể, khả năng tự học của bản thân và các điều kiện được đảm bảo
thực tế để tiến hành việc tự học.
Kế hoạch tự học càng rõ ràng bao nhiêu thì càng giúp cho sinh viên
thực hiện nhiệm vụ tự học một cách khoa học và hiệu quả bấy nhiêu. Kế
hoạch tự học của sinh viên còn giúp cho giảng viên và cán bộ quản lý có cơ sở


×