Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu biểu hiện rối loạn lo âu ở học sinh trường trung học cơ sở phương mai hà nội khi sống trong gia đình có bạo lực luận văn ths tâm lý học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

NGHIÊN CỨU BIỂU HIỆN RỐI LOẠN LO ÂU Ở HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ PHƯƠNG MAI – HÀ NỘI
KHI SỐNG TRONG GIA ĐÌNH CĨ BẠO LỰC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

NGHIÊN CỨU BIỂU HIỆN RỐI LOẠN LO ÂU Ở HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ PHƯƠNG MAI – HÀ NỘI
KHI SỐNG TRONG GIA ĐÌNH CĨ BẠO LỰC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN

CHUYÊN NGÀNH ĐÀO TẠO THÍ ĐIỂM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Thu Hoa


HÀ NỘI – 2013


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BECK :

Beck Anxiety inventory

BLGĐ :

Bạo lực gia đình

BLLĐ/KT :

Bạo lực lao động/ kinh tế

BLTT :

Bạo lực thân thể

BLTL :

Bạo lực tâm lý

DSM :

Diagnostic and statistical Manual of Mental
Disorder ( Hướng dẫn chẩn đoán và thống kê)

HHN :


Hạnh hạch nhân

RLLA :

Rối loạn lo âu

THCS :

Trung học cơ sở

STAI :

State-TraitAnxiety Inventory

UBND :

Ủy ban nhân dân

2


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Tổng số học sinh tham gia trả lời bảng hỏi về thực trạng
bạo lực gia đình ........................................................................................... 32
Bảng 2.2. Tổng số học sinh sống trong gia đình có bạo lực tham gia
trả lời bảng hỏi dân số ................................................................................. 32
Bảng 2.3. Tổng số học sinh sống trong gia đình có bạo lực tham gia
trả lời trắc nghiệm và số học sinh có biểu hiện RLLA phân bổ theo

lớp và giới tính ............................................................................................ 34
Bảng 3.1. Phân loại bạo lực gia đình .......................................................... 41
Bảng 3.2. Các nhóm hành vi bạo lực học sinh đã chứng kiến .................... 42
Bảng 3.3. Học sinh là nạn nhân của các nhóm bạo lực trong gia đình ....... 44
Bảng 3.4. Học sinh vừa là nạn nhân vừa chứng kiến các nhóm hành
vi bạo lực trong gia đình ............................................................................. 48
Bảng 3.5. Những triệu chứng được ghi nhiều nhất của thang đo Beck ............. 49
Bảng 3.6. Những triệu chứng được ghi nhiều nhất của thang đo Stai ........ 51

3


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Thực trạng biểu hiện rối loạn lo âu của trường THCS
Phương Mai đánh giá các test .........................................................................
53
Biểu đồ 3.2. Tỉ lệ học sinh có biểu hiện rối loạn lo âu ở trường
THCS Phương Mai khi sống trong gia đình có bạo lực..................................
53

4


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn .................................................................................................. i
Danh mục viết tắt ........................................................................................ ii
Danh mục các bảng ..................................................................................... iii
Danh mục các biểu đồ ................................................................................. iv

Mục lục ........................................................................................................ v
Mở đầu ........................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ........................................... 5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. .................................................................. 5
1.1.1. Nghiên cứu về rối loạn lo âu. ............................................................ 5
1.1.2. Nghiên cứu về bạo lực gia đình ........................................................ 8
1.2. Một số vấn đề lý luận của đề tài........................................................... 11
1.2.1. Rối loạn lo âu. ................................................................................... 11
1.2.2. Bạo lực gia đình ................................................................................ 20
1.3. Ảnh hưởng của bạo lực gia đình tới trẻ. .............................................. 22
1.4. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở. ........................... 26
Tiểu kết chương 1........................................................................................ 27
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............. 28
2.1. Tổ chức nghiên cứu. ............................................................................. 28
2.1.1. Kế hoạch nghiên cứu. ........................................................................ 28
2.1.2. Triển khai nghiên cứu. ...................................................................... 28
2.2. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 29
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận....................................................... 29
2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn ........................................... 30
2.2.3. Phương pháp toán thống kê............................................................... 37
2.3. Đạo đức nghiên cứu ............................................................................. 37
Tiểu kết chương 2........................................................................................ 38
5


Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................... 39
3.1. Thực trạng bạo lực gia đình tại trường THCS Phương Mai. ............... 39
3.1.1. Bạo lực gia đình qua sự chứng kiến của học sinh. ............................ 42
3.1.2. Bạo lực với học sinh trong gia đình. ................................................. 44
3.1.3. Học sinh vừa là vừa chứng kiến và vừa là nạn nhân của bạo lực

gia đình. ....................................................................................................... 47
3.2. Thực trạng biểu hiện rối loạn lo âu của học sinh của trường trung
học cơ sở Phương Mai khi sống trong gia đình có bạo lực. ....................... 49
3.3. Mối tương quan giữa biểu hiện rối loạn lo âu của học sinh và các
yếu tố trong gia đình ................................................................................... 60
3.3.1. Mối tương quan giữa biểu hiện RLLA và các loại bạo lực trong
gia đình. ....................................................................................................... 60
3.3.2. Mối tương quan giữa biểu hiện RLLA và mức thu nhập bình
quân trong gia đình...................................................................................... 61
3.3.3. Mối tương quan giữa biểu hiện RLLA và trình độ văn hóa của
cha và mẹ học sinh trong gia đình............................................................... 62
3.4. Một số cơng cụ làm giảm thiểu biểu hiện rối loạn lo âu ở trẻ khi
sống trong gia đình có bạo lực ................................................................... . 62
3.4.1. Chia sẻ ............................................................................................... 62
3.4.2. Thư giãn ............................................................................................ 63
3.4.3. Dừng lại, bình tĩnh và thể hiện cảm xúc ........................................... 63
Tiểu kết chương 3........................................................................................ 64
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................... 65
1. Kết luận ................................................................................................... 65
2. Khuyến nghị ............................................................................................ 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 69
PHỤ LỤC ................................................................................................... 73

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sức khỏe tinh thần là một vấn đề đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến tính
mạng cũng như chất lượng cuộc sống của người dân. Đã có rất nhiều nghiên

cứu trên thế giới và ở Việt Nam nói về sức khỏe tinh thần của trẻ em. Thực tế
những năm gần đây, rất nhiều vấn đề liên quan đến sức khỏe tinh thần đang
nổi lên như stress, RLLA, ám ảnh, trầm cảm, tự sát trong học sinh trường học,
vấn đề “hysterya tập thể”, các biểu hiện suy nhược và rối loạn dạng cơ thể...
Các rối loạn tinh thần ở trẻ em và thanh thiếu niên có ngun nhân từ các yếu
tố sinh học, mơi trường hoặc kết hợp cả hai. Chẳng hạn về các yếu tố sinh học
như yếu tố di truyền, cân bằng sinh hoá trong cơ thể, tổn thương hệ thần kinh
trung ương (chấn thương sọ não). Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sức
khoẻ tâm thần như bị bạo hành, bị thảm hoạ, mất người thân…
Trong các vấn đề về sức khoẻ tinh thần, RLLA được nhiều nhà khoa
học quan tâm nhắc đến rất nhiều ở mọi lứa tuổi. Trong nghiên cứu
“Bước đầu nhận dạng và phân loại các biểu hiện tâm bệnh lý thường gặp ở trẻ
em và thanh thiếu niên hiện nay” của trung tâm Nghiên cứu tâm lý Trẻ em
(1995), Nguyễn Khắc Viện cho biết trong 352 hồ sơ tâm lý thì tỉ lệ trẻ được
chẩn đốn là tâm căn là 31,53% [17]. Nguyễn Công Khanh sử dụng thang
đánh giá lo âu của Spiebeger trên 503 học sinh trung học cơ sở, cho biết có
17,65 – 19,2% học sinh đã trải qua biểu hiện của RLLA [3]
RLLA không chỉ ảnh hưởmg đến sự phát triển của trẻ mà còn ảnh
hưởng trực tiếp đến sự tiến bộ của xã hội. Chính vì vậy, RLLA ở thanh thiếu
niên đang được quan tâm và nghiên cứu nhằm phát hiện, can thiệp và giải
quyết sớm các RLLA trong thanh thiếu niên.

7


1.2. Gia đình là mơi trường đầu tiên ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của
trẻ. Trong gia đình, cha mẹ đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành và
phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ có biểu hiện RLLA có thể là do ảnh hưởng
của việc khơng được sống cùng cả cha và mẹ, cũng có thể là do hồn cảnh
kinh tế gia đình, cũng có thể là do cách cha mẹ giáo dục trẻ chưa đúng hoặc

do trẻ sống trong mơi trường có bạo lực… Khi nghiên cứu trên 600 học sinh
trung học phổ thông, Nguyễn Hằng Phương cho biết có 130 học sinh có
RLLA. Và một trong bốn nhóm nguyên nhân ảnh hướng tới RLLA của các
em là ngun nhân gia đình, trong đó BLGĐ là yếu tố ảnh hưởng đến RLLA
nhiều, chỉ xếp sau yếu tố lo lắng về kinh tế gia đình [10]. Trong một điều tra
phúc lợi trẻ em ở Canada, Lil Tonmyr và các cộng sự cho biết, trong số 4.381
trẻ em từ 10 – 15 tuổi thì có 25 % các em có vấn đề về lo âu, trầm cảm, trong
đó nguyên nhân tiếp xúc với BLGĐ là nguyên nhân ảnh hưởng đến RLLA
nhiều nhất (11%), sau đó mới đến các nguyên nhân khác [31]
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài:“Nghiên cứu biểu hiện
rối loạn lo âu của học sinh Trường Trung học Cơ sở Phương Mai – Hà Nội
khi sống trong gia đình có bạo lực” nhằm tìm hiểu thực trạng biểu hiện
RLLA của học sinh THCS, từ đó đề xuất kiến nghị nhằm giảm thiểu những
biểu hiện RLLA ở học sinh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng biểu hiện RLLA của lứa tuổi thiếu niên khi sống
trong gia đình có bạo lực.
- Đề xuất kiến nghị nhằm giảm thiểu biểu hiện RLLA ở lứa tuổi thiếu
niên khi sống trong gia đình có bạo lực.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2.1. Phân tích, hệ thống hóa và khái quát hóa một số vấn đề cơ bản về “ bạo
lực gia đình”, “rối loạn lo âu”, “học sinh Trung học cơ sở” từ đó xây dựng cơ
8


sở lý luận cho việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của BLGĐ đối với biểu hiện
RLLA của trẻ em.
2.2.2. Khảo sát thực trạng biểu hiện RLLA và ảnh hưởng của BLGĐ đối với
biểu hiện RLLA.

2.2.3. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đưa ra một số kết luận và kiến nghị cần
thiết giúp giảm thiểu tổn thương ở trẻ.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện RLLA của học sinh THCS khi sống trong gia đình có bạo
lực.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- 143 học sinh tham gia vào nghiên cứu làm bảng hỏi sàng lọc BLGĐ.
- 57 học sinh sống trong gia đình có bạo lực tham gia vào nghiên cứu
làm trắc nghiệm Stai và Beck để chẩn đoán biểu hiện của RLLA.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi về mặt nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu: Biểu hiện RLLA của trẻ sống trong gia
đình có bạo lực.
4.2. Phạm vi về mặt khách thể
Do khách thể nghiên cứu là trẻ vị thành niên nên việc lựa chọn mẫu
nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên và
phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện của trẻ cũng như sự đồng ý của những
người quản lý, nuôi dưỡng trẻ.
Khách thể nghiên cứu trong độ tuổi từ 11 – 15 ở các gia đình có hồn
cảnh kinh tế khác nhau, mơi trường sống khác nhau, trình độ học vấn của cha
mẹ khác nhau.
5. Giả thuyết khoa học

9


Trẻ vừa chứng kiến BLGĐ và vừa là nạn nhân của BLGĐ có biểu hiện
RLLA nhiều hơn trẻ chỉ chứng kiến hoặc chỉ là nạn nhân trong mơi trường gia
đình có bạo lực.

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Sưu tập, tổng hợp và phân tích các tài liệu có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu để xây dựng nền tảng lý luận của đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp trắc nghiệm dùng để khảo sát thực trạng
Sử dụng trắc nghiệm đánh giá lo âu Stai và trắc nghiệm đánh giá lo âu
Beck để chẩn đoán biểu hiện RLLA của trẻ khi sống trong gia đình có bạo lực.
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Tiến hành phỏng vấn trẻ vị thành niên để làm rõ hơn những kết quả định
lượng thu được từ phương pháp sử dụng thang đo. Đồng thời, phỏng vấn giáo
viên, bạn bè và hàng xóm xung quanh nơi trẻ sống, cha mẹ trẻ (nếu có thể).
6.2.3. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện đề tài, sẽ xin ý kiến của các chuyên gia tâm
lý học, giáo dục học, xã hội học về những vấn đề có liên quan đến luận văn.
6.2.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Xây dựng bảng hỏi về BLGĐ để sàng lọc thực trạng BLGĐ ở trường
THCS Phương Mai.
Sử dụng bảng hỏi về dân số để lấy thơng tin của học sinh.
6.3. Phương pháp tốn thống kê
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 21.0 và Excel để xử lý những kết
quả thu được.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
10


Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.

Chương 3: Kết quả nghiên cứu
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về rối loạn lo âu
1.1.1.1. Nghiên cứu rối loạn lo âu trên thế giới
Vấn đề sức khỏe tâm thần được rất nhiều nước quan tâm trên thế giới,vì
chi phí hàng năm trong việc chữa trị cho bệnh nhân có rối loạn tâm thần rất
lớn. Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu được thực hiện và đưa ra những số
liệu cảnh báo cho chính phủ cũng như người dân, nhất là những nghiên cứu
về RLLA cho trẻ trước 18 tuổi.
Có một số nghiên cứu chú ý tới các yếu tố nuôi dưỡng của cha mẹ là
yếu tố phát sinh gây ra RLLA ở trẻ, như trong nghiên cứu của M.prior và
cộng sự trên 2443 trẻ theo chiều dọc từ lúc mới sinh đến tuổi 18 (1983-2001)
nhận thấy ở những trẻ có tính cách nhút nhát, thu mình trước 9 tuổi được cha
mẹ bao bọc nhiều thì 42% em có RLLA khi ở độ tuổi từ 13- 14 [27].
Trong nghiên cứu của Huston và cộng sự (2000) cho biết mối quan hệ
giữa mẹ và con gắn bó quá kéo dài sẽ làm tăng sợ hãi lo âu ở trẻ em và dự
đoán được RLLA ở trẻ em và thanh thiếu niên [28].
Cả hai nghiên cứu trên đều quan tâm đến những yếu tố nuôi dưỡng của
cha mẹ: cha mẹ quá đùm bọc, che chở trẻ quá mức, ít tạo cơ hội tự lập
cho trẻ… Đây có thể là yếu tố phát sinh RLLA của trẻ.
Một số tác giả nghiên cứu về sự ảnh hưởng của bạo BLGĐ tới RLLA
của trẻ như:
Cơng trình nghiên cứu của tác giả Anne M. Libby và các cộng sự khi
nghiên cứu dân cư ở 2 bộ lạc thổ dân thuộc phía Bắc và phía Tây Nam của
11


Mỹ đã chỉ ra, một số người bị lạm dụng về thể chất và tình dục trước 16 tuổi

có nhiều biểu hiện về rối loạn tâm thần như: Stress sau sang trấn, Rối loạn lo
âu lan tỏa, trầm cảm… ở tuổi trưởng thành [24]
Tác giả Metin và các cộng sự khi nghiên cứu trẻ ở độ tuổi từ 8-16 đang
sống cùng mẹ trong những nhà tạm trú dành cho phụ nữ bị bạo lực cho biết,
một số em có nhiều biểu hiện của stress sau sang trấn, trầm cảm, lo lắng, tức
giận, phân ly… khi vừa chứng kiến chứng kiến bạo lực và vừa là nạn nhân
của bạo lực từ người cha của mình [26]
Khi nghiên cứu về chứng kiến bạo lực ở trẻ em đặc biệt là những em có
trải nghiệm mức độ sợ hãi cao khi xem các tập phim bạo lực, một số tác giả
đã cho biết các em khó khăn trong việc quản lý cảm xúc, hành vi và dần dần
dẫn đến những vấn đề hướng nội như RLLA, trầm cảm [20]
Trong nghiên cứu: Lo lắng và khủng hoảng tâm lý ở lứa tuổi từ 10-15,
điều tra Phúc lợi trẻ em ở Canada, Lil Tonmyr và các cộng sự cho biết trong
4.381 trẻ em ở nhóm tuổi 10-15 đại diện cho 3.395 gia đình thì 25% các
trường hợp trẻ RLLA/trầm cảm. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến RLLA
được sắp xếp theo thứ tự như: tiếp xúc với BLGĐ, tiếp theo là bỏ rơi , tiếp
theo là ngược đãi tình cảm, tiếp theo nữa là lạm dụng thể chất, và cuối cũng là
lạm dụng tình dục [31]
Tóm lại các cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu một số vấn đề ảnh
hưởng tới sức khỏe tâm thần của thiếu niên như: cách nuôi dạy của cha mẹ,
trẻ em sống trong gia đình có bạo lực, trẻ coi nhiều phim bạo lực, trẻ có
những hồn cảnh đặc biệt,… Và họ nhận thấy những yếu tố này đều có mối
liên hệ với RLLA, trầm cảm, phân ly… Các tác giả đã làm rõ triệu chứng của
từng loại bệnh và đưa ra nhiều vấn đề ảnh hưởng đến RLLA.
1.1.1.2. Những vấn đề nghiên cứu rối loạn lo âu ở Việt Nam
Rất nhiều nghiên cứu ở Việt Nam đã đề cập đến vấn đề sức khỏe tâm
thần của trẻ em, trong đó RLLA được nghiên cứu khá nhiều.
12



Trong nghiên cứu “khảo sát tình trạng lo âu – trầm cảm và một số yếu
tố liên quan ở trẻ vị thanh niên lang thang kiếm sống trên đường phố”, Phan
Tiến Sĩ và Nguyễn Thành Công khảo sát 100 trẻ lang thang kiếm sống trên
đường phố bằng test Zung cho biết có 9 trẻ có RLLA chiếm tỷ lệ 9%. Hầu hết
những trẻ này có hồn cảnh gia đình khơng thuận lợi như bố mẹ mâu thuẫn,
bố mẹ ly hôn, ly thân hoặc mồ côi cha hoặc mẹ. Đây là là những yếu tố đầu
tiên ảnh hưởng đến RLLA của các em, tuy nhiên những RLLA này thực sự
tiến triển hơn khi các em phải tự kiếm sống, lang thang và tiếp xúc nhiều với
những hiểm họa: bị lạm dụng, nghiện chất,… [4]
Nguyễn Hằng Phương với đề tài luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu một số
nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu ở học sinh trung học phổ thông” cho biết:
trong số 600 khách thể nghiên cứu thì có 130 em RLLA, chiếm 21,66%. Và
cũng đưa ra bốn nhóm ngun nhân chính gây ra RLLA của học sinh là
nhóm nguyên nhân liên quan đến học tập, nhóm nguyên nhân liên quan tới
gia đình, nhóm ngun nhân liên quan đến quan hệ xã hội, nhóm nguyên
nhân liên quan tới bản thân học sinh. Tác giả đưa ra nguyên nhân gia đình
bao gồm các yếu tố: kinh tế, cha mẹ/anh chị em trong nhà bất hịa, gia đình
có người mất, bị cha mẹ kiểm sốt… trong đó yếu tố kinh tế gia đình làm
các em lo lắng nhiều nhất, tiếp đến là yếu tố các thành viên trong gia đình
xung đột với nhau [10]
Trong luận văn thạc sĩ “Ảnh hưởng của một số yếu tố tâm lý đến rối
loạn lo âu của trẻ em”, Nguyễn Hồng Thúy đã chẩn đoán và trị liệu cho 42 trẻ
em từ 7 – 15 tuổi có RLLA đến khám tại khoa Tâm bệnh - viện nhi Quốc Gia
từ tháng 8/2001 đến tháng 8/2002. Tác giả đã đưa ra rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến RLLA của các em như: RLLA có liên quan đến gia đình, RLLA
có liên quan đến học tập, RLLA có liên quan đến mơi trường xã hội. Trong
đó yếu tố gia đình gồm có: tâm lý mang thai của mẹ, cảm xúc của mẹ
sau khi sinh, kiểu giáo dục của cha mẹ, RLLA ở cha mẹ, bệnh tật, mất mát
13



người thân, kinh tế, xung đột gia đình, gia đình không đầy đủ, các yếu tố
khác…ảnh hưởng đến RLLA của trẻ [14].
Một số tác giả nghiên cứu thực trạng về biểu hiện RLLA ở trẻ vị thành
niên và đưa ra những con số báo động về tình trạng này.
“Bước đầu nhận dạng và phân loại các biểu hiện tâm bệnh lý thường gặp ở
trẻ em và thanh thiếu niên hiện nay” là nghiên cứu của trung tâm Nghiên cứu
tâm lý Trẻ em (1995) cho biết trong 352 hồ sơ tâm lý thì tỉ lệ trẻ được chẩn
đốn là tâm căn là 31,53% [17]
Nguyễn Công Khanh sử dụng thang đánh giá lo âu của Spiebeger trên
503 học sinh THCS, cho biết có 17,65 – 19,2% học sinh đã trải qua biểu hiện
của RLLA [3]
Nghiên cứu của Hoàng Cẩm Tú cho biết tỉ lệ RLLA chiếm khoảng 30% bệnh
nhân có vấn đề về tâm bệnh trong đó RLLA ở vị thành niên là 75,29% [15]
Trong nghiên cứu “Xây dựng mơ hình chăm sóc sức khỏe tâm lý – tâm
thần cho học sinh phổ thông Đồng Nai” do BS. Nguyễn Văn Thọ và cộng sự
thực hiện năm 1998-2000 cho biết RLLA và trầm cảm chiếm tỉ lệ từ 10-21%
trong số những học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần [12]
Các nghiên cứu trên đã đưa ra rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
biểu hiện RLLA của trẻ, mỗi yếu tố có sự ảnh hưởng riêng và có những số
liệu cụ thể về mức độ ảnh hưởng.
1.1.2. Nghiên cứu về bạo lực gia đình
1.1.2.1. Các nghiên cứu về bạo lực gia đình trên thế giới
Có rất nhiều tác giả nghiên cứu về những nhân tố ảnh hưởng đến
RLLA. Trong đó nhân tố gia đình được nhắc đến rất nhiều, có gia đình quá
đùm bọc các em, ít cho các em tiếp xúc với mơi trường xã hội bên ngồi,
nhưng có gia đình bỏ mặc các em, không quan tâm đến các em, để các em
14



phải chứng kiến những lời nói, hành động thơ bạo của cha mẹ, hay nhiều cha
mẹ dùng những lời nói, hành động không phù hợp làm tổn thương các em.
Các em khơng chỉ hứng chịu những trận địn mà cịn phải chứng kiến cảnh
bạo lực của cha mẹ. Có nhiều cơng trình nghiên cứu về BLGĐ đã đưa ra
những con số báo động về tình trạng này.
Theo Jouriles và các cộng sự khi dự đoán những vấn đề về hành vi của
trẻ trong gia đình có bạo lực cho biết: sự gây hấn giữa cha mẹ và con cái ở
mức độ cao có liên quan đến các vấn đề hành vi, vấn đề chú ý, lo lắng thu
mình, hành vi tự động khơng kiểm sốt được. Trong đó có sự khác biệt giữa
trẻ gái và trẻ trai, ở trẻ trai các em thường có vấn đề hành vi, vấn đề chú ý và
khả năng kiểm sốt hành vi của mình, ở trẻ gái chủ yếu các em có những biểu
hiện lo lắng thu mình. [21]
Khi nghiên cứu về tỷ lệ mắc và mối tương quan giữa BLGĐ và rối loạn
stress sau sang trấn ở trẻ từ 8 – 16 tuổi của 45 bà mẹ sống trong nhà trú ẩn
dành cho phụ nữa bị bạo lực của phụ nữ Adelaide – Nam Úc, Mertin và các
cộng sự cho biết hầu hết các bà mẹ đều chịu bạo lực về tâm lý và thể chất ở
mức độ cao và hầu hết con cái của họ cũng chịu ảnh hưởng bạo lực về tâm lý
cũng như bạo lực về thể xác. Các tác giả cịn cho biết thêm, có một số em khi
chứng kiến cảnh BLGĐ hay trực tiếp gánh chịu bạo lực thường xuyên có triệu
chứng đau buồn, đau khổ, khó chịu, khó tập trung, dễ giật mình và đáp ứng
một số tiêu chuẩn của stress sau sang trấn [26]
Các nghiên cứu về BLGĐ hầu hết nghiên cứu về tình trạng bạo lực của
cha mẹ, rất ít nghiên cứu nói về tình trạng bạo lực của anh chị em ruột trong
gia đình. Vì vậy, Teicher và các cộng sự đã làm một nghiên cứu trên 1412
khách thể từ 18-25 tuổi mà thời thơ ấu sống trong gia đình có bạo lực. Tác giả
cho biết, khách thể chứng kiến các mối đe dọa và tấn công tới anh chị em ruột
chiếm 2,4 – 4.7 lần trong tổng số các mối đe dọa và tấn công tới mẹ. Khách
thể nghiên cứu chứng kiến mối đe dọa và tấn cơng tới anh chị em có mối
15



tương quan với các triệu chứng phân ly, khơng có mối quan hệ với lo âu và
những khách thể bị bạo lực tâm lý bởi cha mẹ lo lắng gấp 10 lần so với chứng
kiến bạo lực đối với anh chị. [29]
Một số tác giả nghiên cứu về thực trạng BLGĐ cho biết:
Có khoảng 15,5 triệu trẻ em Mỹ phải tiếp xúc với BLGĐ ít nhất một
lần trong một năm, và bảy triệu trẻ em phải sống trong các gia đình có bạo lực
đặc biệt nghiêm trọng [25, tr. 137-142].
Khoảng 3,3 triệu trẻ em (Carlson, 1984) và 10 triệu trẻ em (Straus,
1991) tại Hoa Kỳ và 500.000 trẻ em ở Canada (MacLeod, 1987) hàng năm
chứng kiến số lượng các vụ tấn công chống lại người mẹ của chúng. Bao gồm
những hành vi bạo lực khác nhau,từ tâm lý, kinh tế, vật lý và tình dục để giết
người.[23, tr.241- 257]
Các nghiên cứu trên đã nghiên cứu những ảnh hưởng cũng như mối
tương quan giữa bạo lực giữa các thành viên trong gia đình với sức khỏe tâm
thần của khách thể nghiên cứu. Các nghiên cứu lấy mẫu rộng cả về số lượng
và độ tuổi, và xem xét rộng về nhiều vấn đề mà BLGĐ có thể ảnh hưởng chứ
khơng chỉ có RLLA.
1.1.2.2. Các nghiên cứu về bạo lực gia đình ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ BLGĐ rất cao. Có rất nhiều
nghiên cứu về vấn đề này trong hàng chục năm qua.
Nghiên cứu về hậu quả của BLGĐ, tác giả Lê Thị Quý và Đặng
Cảnh Khanh (2000) chỉ ra rằng 27.08% trong tổng số 1240 trẻ được hỏi
cho biết các em rất tức giận bố mẹ khi bị bố mẹ đánh. Tỷ lệ các em tức
giận cao nhất là ở nhóm tuổi vị thành niên, từ 14 – 16 tuổi, chiếm 45, 95%.
Theo tác giả, những thương tích trên cơ thể dù đau đơn nhưng thời gian sẽ
xố nhịa, cịn những thương tích về tinh thần, đời sống tâm lý, trẻ đâu dễ
quên [11]
Theo tác giả Nguyễn Đăng Vững và các cộng sự khi nghiên cứu nguy cơ
16



bị bạo lực của phụ nữ đã từng chứng kiến BLGĐ từ cha mẹ ở thời thơ ấu cho
biết, khi nghiên cứu trên 730 phụ nữ đã lập gia đình trong độ tuổi từ 17 - 60 tuổi
nông thôn Việt Nam, có 16% cho biết khi cịn nhỏ đã chứng kiến sự bạo lực
từ cha mẹ. Trong số này 40% người đã trải qua sự bạo lực về thể chất và tình
dục từ người tình tính theo thời gian tiếp xúc với họ và 16% đã trải qua bạo
lực trong năm qua. Qua đó, các tác giả đã đánh giá về nguy cơ cuộc đời cũng
như năm qua cao hơn đáng kể giữa người chứng kiến BLGĐ trong thời thơ
ấu và người chưa có kinh nghiệm đó. Và tác giả cũng cho biết thêm những
phụ nữ báo cáo chứng kiến BLGĐ trong thời thơ ấu chấp nhận bạo lực do
bạn tình gây ra cao hơn so với phụ nữ chưa chứng kiến [19].
Theo Nguyễn Bá Đạt khi khảo sát 182 thiếu niên sống ở Phú Thọ, Hà Nội
Và Quảng Bình, có 56 em sống trong gia đình khơng có bạo lực; 51 em sống
trong gia đình có mâu thuẫn khơng có bạo lực và 75 em sống trong gia đình có
bạo lực; 98 em bị bố mẹ quát mắng và đánh đòn, 94 em được bố mẹ nhắc nhở,
khuyên bảo, giảng giải khi các em mắc lỗi. Tác giả cho biết hầu hết cảm xúc của
các em là chán nản, buồn rầu và sợ hãi, suy nghĩ của các em rất tiêu cực, bi quan
về cha mẹ cũng như gia đình của mình. Có những em có một số hành vi kém
thích nghi như lo âu, trầm cảm, hành vi lệch chuẩn và xâm kích [1].
Các nghiên cứu về BLGĐ ở Việt nam không chỉ tập trung vào sự ảnh
hưởng của BLGĐ đối với sức khỏe tâm thần của trẻ em, mà còn nghiên cứu
nguy cơ bị bạo lực của người phụ nữ từng chứng kiến BLGĐ thời thơ ấu.
Tóm lại, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về BLGĐ và RLLA ở
nước ngoài và Việt Nam. Tuy nhiên rất ít cơng trình nghiên cứu đưa ra
mối liên hệ giữa hai yếu tố này. Vì vậy nghiên cứu của chúng tơi có định
hướng nghiên cứu cụ thể hơn về vấn đề này với mong muốn lấp đầy khoảng
trống mà các nghiên cứu trước còn bỏ ngỏ.
1.2. Một số vấn đề lý luận của đề tài
1.2.1. Rối loạn lo âu

17


1.2.1.1. Khái niệm về lo âu
Có rất nhiều định nghĩa về lo âu, trong đó có một số định nghĩa tiêu
biểu như:
Tác giả Trần Viết Nghị “lo âu là một trạng thái bệnh lý: khi lo âu
mang đặc tính dai dẳng lan tỏa, tản mạn, không liên quan, không khu trú vào
một sự kiện hoàn cảnh đặc biệt nào ở xung quanh hoặc có liên quan với
những sự kiện đã qua khơng cịn tính chất thời sự nữa ( lo lơ lửng – tản mạn
– vô lý – lo bệnh lý – lo âu)” [ 8, tr.11]
Theo tác giả Nguyễn Minh Tuấn: “lo âu là một rối loạn có cấu trúc
đơn sơ thể hiện ra ngoài bằng một mối lo không đối tượng, lan tỏa và dai
dẳng” [16, tr.11]
Theo tác giả Đặng Bá Lãm: “Lo âu là trạng thái cảm xúc thông thường
của con người trước những sự kiện của cuộc sống, là tín hiệu báo trước một trở
ngại sắp xảy ra kèm theo sự suy diễn tính tốn sắp đặt của quá trình tư duy
trước sự thay đổi của cuộc sống hàng ngày, và cho phép con người sử dụng mọi
biên pháp để giải quyết, đương đầu với những mối đe dọa” [4, tr.205]
“Lo âu là trạng thái cảm xúc thông thường của con người trước những
sự kiện của cuộc sống ( thi cử, xung đột trong các mối quan hệ, bệnh tật, tai
nạn…) là tín hiệu báo trước một sự trở ngại sắp xảy ra, kèm theo sự suy diễn
tính tốn sắp đặt của q trình tư duy trước sự thay đổi của cuộc sống hàng
ngày và cho phép con người sử dụng mọi biện pháp để giải quyết, đương đầu
với đe dọa. Lo âu bình thường sẽ hết khi mọi chuyện đã giải quyết xong. Khi
vượt qua được lo âu và sợ hãi thông thường trong cuộc sống hàng ngày, con
người sẽ có thêm kinh nghiệm và thích nghi với cuộc sống để phát triển các
chức năng tâm lý” theo Nguyễn Viết Thêm, Lã Thị Bưởi, Trần Viết Nghị
[ 7, tr.41]


Còn theo từ điển Nguyễn Khắc Viện: “lo âu là việc đón chờ và suy
nghĩ về một điều gì đó mà khơng chắc chắn có thể đối phó được là lo. Nếu sự
18


việc cụ thể mà đã từng gây nguy hiểm là lo sợ. Trong nhiều trường hợp, đặc
biệt khi tâm lý bị rối loạn, một triệu chứng thường gặp là mối lo nhưng cụ thể
không thật rõ là lo về các gì, sợ về các gì, đó là hãi [18, tr.190].
Có sự khác biệt giữa lo âu và sợ:
Sợ: được coi như một cảm xúc bình thường để chuẩn bị tư tưởng cho ta
trước những nguy hiểm có thực đang đến và vì thế có giá trị sống cịn. Sợ cịn
được coi là lo âu bình thường, là phản ứng tâm lý khi cảm thấy có một tai họa
thực tế, giúp cho việc chuẩn bị các giải pháp đảm bảo cho việc làm chủ tai
họa này. Vậy sợ hay lo âu bình thường là một cơ chế thích ứng với thế giới
bên ngồi.
Lo âu: cảm giác giống như sợ, nhưng khơng có sự đe dọa rõ rệt, sắp
đến. Đây là lo âu bệnh lý, tình trạng lo âu xuất hiện khơng có ngun do,
khơng liên quan tới một mối đe dọa rõ rệt nào hoặc mức độ lo âu không phù
hợp với nguyên nhân gây ra nỗi lo âu đó. Trạng thái tâm lý này thường đi
kèm với các rối loạn cơ thể và rối loạn thần kinh thực vật, diễn ra kéo dài,
gây trở ngại rõ rệt tới các hoạt động. [13]
Từ một số khái niệm trên về lo âu, trong phạm vi nghiên cứu của luận
văn, chúng tôi đồng ý với khái niệm về lo âu cuả Nguyễn Viết Thêm, Lã Thị
Bưởi, Trần Viết Nghị như sau: “Lo âu là trạng thái cảm xúc thông thường
của con người trước những sự kiện của cuộc sống (thi cử, xung đột trong các
mối quan hệ, bệnh tật, tai nạn…) là tín hiệu báo trước một sự trở ngại sắp
xảy ra, kèm theo sự suy diễn tính tốn sắp đặt của q trình tư duy trước sự
thay đổi của cuộc sống hàng ngày và cho phép con người sử dụng mọi biện
pháp để giải quyết, đương đầu với đe dọa. Lo âu bình thường sẽ hết khi mọi
chuyện đã giải quyết xong. Khi vượt qua được lo âu và sợ hãi thông thường

trong cuộc sống hàng ngày, con người sẽ có thêm kinh nghiệm và thích nghi
với cuộc sống để phát triển các chức năng tâm lý”.
19


1.2.1.2. Khái niệm rối loạn lo âu
Theo định nghĩa lo âu, chúng ta thấy lo âu đơi khi là bình thường, là
cần thiết nhưng nếu người ta không biết cách kiểm sốt lo âu mà để nó vượt
q giới hạn trong thời gian dài kèm theo những biểu hiện về mặt thực thể,
rối loạn thần kinh thực vật… thì lo âu trở thành bệnh lý, gọi là RLLA.
Trong luận văn thạc sĩ của mình, Nguyễn Hồng Thúy đã định nghĩa:
“RLLA là các rối loạn của cảm xúc thông thường, được đặc trưng bởi sự lo
lắng sợ hãi quá mức, dai dẳng và kéo dài nhiều ngày hoặc xuất hiện thành
cơn đột ngột, cấp tính, mãnh liệt. Lo âu có thể khu trú trực tiếp vào một vật,
một tình huống cụ thể và cũng có thể khơng khu trú, khơng liên quan đến một
hồn cảnh đặc biệt nào đó ở xung quang rất chung chung và mơ hồ hoặc là
liên quan với những sự kiện, tình huống có tính chất đe dọa chủ thể trong
quá khứ” [14, tr.13]
Aubrey Lewis định nghĩa RLLA như sau: [9, tr.123]
+ Đó là một trạng thái cảm xúc với tính chất trải nghiệm chủ quan về
sợ hoặc cảm xúc có liên quan gần như thế (kinh hãi, tồn tại, hoảng hốt khiếp
sợ, hoảng sợ, bối rối, kinh sợ, kinh hồng).
+ Cảm xúc xấu: Có thể là cảm xúc cái chết đe dọa hoặc là suy sụp.
+ Đó là sợ trực tiếp cho tương lai, trong đó có cảm giác đe dọa của
nguy hiểm đang đến.
+ Có những đe dọa hoặc là không thể nhận ra được, hoặc
là theo tiêu chuẩn hợp lý, đe dọa ấy không cân xứng với cảm xúc đó gây nên.
+ Có những khó chịu chủ quan về cơ thế như là cảm giác thắt lại trong
ngực, cảm giác thít chặt trong cổ họng và khó thở.
+ Có các rối loạn cơ thể bao gồm các hoạt động tự ý (kêu thét, chạy

trong khi hoảng sợ) hoặc các hoạt động khơng hồn tồn hoặc hồn tồn tự ý
(khơ mồm, ra mồ hơi, nơn, đánh trống ngực..)
Theo tiêu chuẩn phân loại RLLA của hội Tâm thần học Mỹ,
20


DSM – IV: RLLA là những sợ hãi thái quá về một sự kiện hoặc các hành vi
kéo dài trong nhiều ngày, xảy ra và lặp đi lặp lại ít nhất 6 tháng. Cá nhân
thường có khó khăn khi kiểm sốt những lo lắng và thường có dấu hiệu thực
thể như là căng cơ, cáu bẳn, khó ngủ và cảm giác bất an…
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử dụng khái niệm
về RLLA theo tiêu chuẩn chẩn đoán của hội Tâm thần học Mỹ, DSM – IV:
“Rối loạn lo âu là những sợ hãi thái quá về một sự kiện hoặc các hành vi kéo
dài trong nhiều ngay, xảy ra và lặp đi lặp lại ít nhất 6 tháng. Cá nhân thường
có khó khăn khi kiểm sốt những lo lắng và thường có dấu hiệu thực thể như
là căng cơ, cáu bẳn, khó ngủ và cảm giác bất an…” [30]
Theo khái niệm này, những người có RLLA phải đảm bảo một số yếu
tố: bệnh nhân không thể kiểm soát cảm xúc, hành vi, suy nghĩ cũng như
trạng thái cơ thể ít nhất 6 tháng. Bệnh nhân có những sợ hãi, lo lắng thái quá
về một vấn đề nào đó. Và bệnh nhân có những triệu chứng cơ thể như tim đập
nhanh, vã mồ hôi, bất an, đứng ngồi khơng n, mất ngủ, ăn khơng ngon…
Ví dụ những bệnh nhân sợ bẩn, họ phải rửa tay liên tục, vì họ bị ám ảnh bởi
suy nghĩ: khơng rửa tay sẽ bị nhiễm vi khuẩn và họ phải thực hiện một nghi
thức rửa tay theo đúng trình tự, và nếu khơng làm đúng và đủ trình tự họ sẽ
thấy lo lắng, khó chịu, và có những triệu chứng cơ thể như: khó thở, bất an,
tim đập nhanh, bồn chồn đứng ngồi không yên, không ăn hoặc không ngủ
được… Những nghi thức, cảm xúc sợ hãi thái quá này phải duy trì liên tục ít
nhất 6 tháng thì mới đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh.
1.2.1.3. Các biểu hiện của rối loạn lo âu
Đặc điểm lâm sàng của RLLA: [8, tr 25]

- Lo âu khơng có chủ đề rõ ràng, khơng khu trú vào một hồn cảnh sự
kiện xung quanh nào. Bệnh nhân lo sợ bản thân hoặc người ruột thịt sẽ sớm
mắc một bệnh, hoặc sẽ bị tai nạn, hoặc lo lắng về một tương lai bất hạnh, đói
kém, cơ đơn mà khơng hề có căn cứ thực tế nào.
21


- Lo âu thường kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng đến nỗi
bệnh nhân mất ăn, mất ngủ.
- Triệu chứng kèm theo với lo âu được trải nghiệm tùy theo từng cá
thể, rất khác nhau, nhưng thường có những biểu hiện:
+ Kích thích, nóng nảy, bồn chồn
+ Run rẩy chân tay
+ Rối loạn giấc ngủ (ngủ rất khó, khơng duy trì được n giấc)
+ Vã mồ hơi nhiều (kể cả lúc trời lạnh)
+ Hồi hộp, đánh trống ngực
+ Đi tiểu nhiều lần
+ Căng thẳng cơ bắp
+ Rất mau mệt kể cả sau một cố gắng nhỏ
+ Cáu bẳn (dễ nổi khùng)
+ Hoa mắt, chóng mặt
+ Hụt hơi khi thở
+ Cảm giác buồn chán
1.2.1.4. Các loại rối loạn lo âu [30, tr.48-54]
Theo DSM-IV (Hiệp hội tâm thần Mỹ, 1994), rối loạn lo âu bao gồm:
rối loạn lo âu chia ly, ám ảnh sợ đặc hiệu, RLLA lan tỏa, cơn hoảng sợ,
ám ảnh sợ xã hội, rối loạn ám ảnh nghi thức, rối loạn stress sau sang trấn…
Trong đó RLLA chia ly chỉ gặp ở trẻ em, còn các rối loạn khác có ở cả
trẻ em và người lớn.
* RLLA chia ly:

Các tiêu chuẩn chẩn đoán RLLA chia ly:
- Lo lắng quá mức và không phù hợp khi tách khỏi người gắn bó. Có ít
nhất 3 dấu hiệu:
+ Khó chịu q mức, lặp lại nhiều lần khi phải tách khỏi người gắn bó.
+ Lo lắng quá mức và kéo dài về việc người gắn bó có thể bị chết, bị
22


hại….
+ Lo lắng quá mức và kéo dài về bản thân: có thể bản thân bị chết, bị
tai nạn nếu tách khỏi người gắn bó.
+ Miễn cưỡng hoặc từ chối đi học vì sợ phải chia tách với người gắn bó.
+ Miễn cưỡng hoặc sợ hãi quá mức khi phải ở nhà một mình.
+ Miễn cưỡng hoặc từ chối đi ngủ nếu khơng có người gắn bó.
+ Cơn ác mộng thường liên quan đến chia ly.
+ Luôn kêu ca phàn nàn về các triệu chứng đau đầu, đau dạ dày, nơn
mửa… khi phải chia tách với người gắn bó.
- Các dấu hiệu này kéo dài ít nhất trên 4 tuần và ảnh hưởng đến một số
sinh hoạt thường ngày của người bệnh.
- Chỉ chẩn đoán ở trẻ em trước 18 tuổi, trừ các biểu hiện lo sợ ở RLLA
khác hoặc tâm thần phân liệt hay loạn thần.
* RLLA lan tỏa.
RLLA lan tỏa được chẩn đốn với các tiêu chí:
- Người bệnh lo lắng quá mức về một số sự kiện hoặc hoạt động xảy ra
hàng ngày, kéo dài ít nhất 6 tháng.
- Người bệnh khó kiểm sốt được sự lo lắng của mình.
- Lo lằng ít nhất 3 trong 6 triệu chứng (ở trẻ em chỉ có 1 triệu chứng)
+ Kích thích, dễ bực mình, đầu óc căng thẳng.
+ Dễ mệt mỏi.
+ Khó tập trung hoặc đầu óc trống rỗng.

+ Dễ cáu kỉnh.
+ Căng thẳng cơ bắp.
+ Rối loạn giấc ngủ.
* Rối loạn hoảng sợ.
Một giai đoạn sợ hãi hay mệt mỏi trầm trọng có giới hạn về thời gian
rõ rệt và trong giai đoạn đó có ít nhất 4 trong số các triệu chứng sau đã xuất
23


hiện một cách đột ngột và lên đến cực điểm trong vòng 10 phút:
+ Tim đập nhanh mạnh, nhịp đập gấp.
+ Vã mồ hôi.
+ Run rẩy.
+ Cảm thấy hơi thở ngắn và ngột ngạt.
+ Cảm thấy ngẹt thở
+ Cảm thấy đau hoặc tức ngực.
+ Bồn chồn hoặc cồn cào trong bụng.
+ Cảm thấy chóng mặt, đứng khơng vững, chống váng hoặc đầu nhẹ
bẫng.
+ Cảm thấy đối tượng không thực hoặc bị tách khỏi bản thân.
+ Sợ mất kiểm soát hoặc sợ bị điên.
+ Sợ chết.
* Ám ảnh sợ đặc hiệu.
Ám ảnh sợ đặc hiệu được chẩn đoán với các tiêu chí:
Sự sợ hãi vơ lý, q mức và kéo dài trước một tình huống hoặc một
đối tượng cụ thể (ví dụ: sợ động vật, sợ máu, sợ sấm chớp..)
Lo âu thể hiện một cách giống nhau và trực tiếp với các tình huống gây
sợ (trẻ em thường bộc lộ bằng khóc, cơn xung động, chai lì…)
Bệnh nhân thấy sự lo sợ là q mức và vơ lý và tìm cách né tránh các
tình huống sợ.

Việc né tránh tình huống sợ hoặc rối nhiễu do sợ gây cản trở một số
hoạt động hàng ngày của chủ thể.
Phân biệt với lo âu trong các tình huống rối nhiễu tâm cản khác: ám sợ
khoảng trống, chán ăn tâm thần, ám ảnh nghi bệnh…
* Rối loạn ám ảnh cưỡng bức.
- Có thể chỉ có ám ảnh hoặc có cưỡng bức hoặc cả hai.
Ám ảnh được đặc trưng bởi 4 dấu hiệu:
24


×