Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

(Luận văn thạc sĩ) áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự thực tiễn tại viện KSND tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN VĂN LONG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
- QUA THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN VĂN LONG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
- QUA THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60380101

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế

Hà Nội – 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

TRẦN VĂN LONG


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................... i
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ......................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân ..............7
1.1.1 Khái niệm áp dụng pháp luật và đặc điểm của áp dụng pháp luật .....................7
1.1.2. Áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và các đặc điểm của nó ..............................10
1.1.3 Vai trị áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều

tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân...........................................................50
1.2. Các yếu tố bảo đảm việc áp dụng pháp luật của viện kiểm sát nhân dân trong
kiểm sát ở giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự ...........................................51
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................61
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM
SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN...............................................62
2.1. Những kết quả đạt được về áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân tỉnh nghệ an từ năm
2013 đến năm 2016 ...................................................................................................62
2.2. Những hạn chế về áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân tỉnh nghệ an từ năm 2012
đến năm 2016 và nguyên nhân của những hạn chế đó ..............................................72
2.2.1. Những hạn chế về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An ..........................................72


2.2.2. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế về chất lượng áp dụng pháp luật về
hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Nghệ An ....................................................................................................................76
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................83
Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH NGHỆ AN .....................................................................................................84
3.1. Quan điểm và yêu cầu khách quan nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật về
hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Nghệ An .............................................................................................84
3.1.1. Quan điểm cơ bản nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự ...................................................................................84

3.2.2. Nhóm các giải pháp đối với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An...............98
Kết luận chƣơng 3 .................................................................................................114
KẾT LUẬN ............................................................................................................115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................118


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL

: Áp dụng pháp luật

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS

:Bộ luật hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên


PL

: Pháp luật

QCT

: Quyền công tố

THQCT

: Thực hành quyền công tố

KSHĐTP

: Kiểm sát hoạt động tư pháp

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKS

: Viện kiểm sát

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa

XH

: Xã hội

i


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp
trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một địi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã
chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra", yêu cầu trên đã
được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKS năm 2014.
Kiểm sát trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thể hiện chức năng
của VKS, bảo đảm hoạt động khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vơ tội. Đồng
thời cịn là biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà nước góp phần ổn định xã
hội, phát triển kinh tế và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghị quyết số
08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp
thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi giải quyết tin báo,
tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố vụ án và trong suốt q trình tố tụng
nhằm bảo đảm khơng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng
làm nhiệm vụ... Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng

pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết khơng
phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp
oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình".
Để đáp ứng yêu cầu này ngành kiểm sát phải không ngừng nâng cao chất lượng
thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, VKS đã cố gắng thực hiện tốt chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra

1


vụ án hình sự góp phần có hiệu quả trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy
nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của VKS vẫn cịn có những hạn chế
trong việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn để xảy ra tình trạng hồ sơ vụ án
phải trả để điều tra bổ sung nhiều, vẫn còn nhiều người bị bắt, khởi tố, điều tra oan,
sai. Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng như
vật chất đối với những người bị bắt, khởi tố - điều tra oan, sai hơn nữa cịn làm ảnh
hưởng khơng nhỏ đến uy tín của ngành kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ
pháp luật nói chung trước quần chúng nhân dân và dư luận xã hội.
Những yếu kém trên có nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên nhân
chủ quan và khách quan. Trong đó chủ yếu là do ý thức pháp luật, bản lĩnh nghề
nghiệp và năng lực áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra, thực hành quyền
công tố của Điều tra viên, Kiểm sát viên còn nhiều bất cập, yếu kém. Đặc biệt nhận
thức về công tố, quyền cơng tố của khơng ít Kiểm sát viên cịn hời hợt, chưa sâu
nên trong nhiều trường hợp không phát huy được chức năng, nhiệm vụ của ngành.
Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ nhận thức việc áp dụng pháp luật trong
hoạt động kiểm sát giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự là một trong những
vấn đề quan trọng, cần có sự quan tâm hơn nữa về cả phương diện lý luận lẫn thực
tiễn để việc áp dụng pháp luật trong hoạt động thực hành quyền công tố tại Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đạt kết quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp. Vì những lý do này, học viên chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật về hoạt động
kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự - Qua thực tiễn tỉnh Nghệ
An” làm luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay đã có một số cơng trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong
hoạt động kiểm sát được cơng bố trên các tạp chí chun ngành, trong các luận
văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, sách tham khảo và trong các đề tài nghiên cứu cấp
bộ do Viểm sát nhân dân tối cao thực hiện. Đáng chú ý một số cơng trình như:
Đề tài nghiên cứu cấp bộ: ''Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong

2


cơng tác kiểm sát hình sự'', đề tài nghiên cứu cấp bộ, do Ngô Văn Đọn chủ biên,
năm 2004; ''Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự'', Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2006; ''Quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp'', của Lê Hữu Thể chủ biên, năm 2008.
Luận án tiến sỹ “Quyền công tố ở Việt Nam”, của nghiên cứu sinh Lê Thị
Tuyết Hoa thực hiện năm 2002; luận văn thạc sỹ “Áp dụng pháp luật trong kiểm sát
việc sử dụng các biện pháp ngăn chặn của cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, của Nguyễn Đức Thanh, năm 2004; luận văn thạc sỹ “Áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
ở Việt Nam hiện nay”, của Trịnh Duy Tám, năm 2005; luận văn thạc sỹ “Áp dụng
pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay”, của Bùi Mạnh Cường, năm 2007; luận văn thạc sỹ “Áp dụng
pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân đối với tội phạm về tham nhũng ở Thanh hóa”, của Lê Xuân Tiến, năm 2008.
Bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí có: “Nâng cao chất lượng thực hành

quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp”
của Hà Mạnh Trí, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2003; “Đặc trưng
của áp dụng pháp luật hình sự " của Chu Thị Trang Vân đăng trên Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 3/2006; “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay” của Đỗ Văn Đương, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
7/2006; Trần Công Phàn, "Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải
cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 03/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng
tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 6 16/2012; Nguyễn Hịa
Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012;
Nguyễn Thị Thủy, "Sửa đổi bổ sung Bô luật TTHS nhằm thực hiện chủ trương của
Đảng - Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế

3


gắn cơng tố với điều tra”, tạp chí Kiểm sát 21/2012; Đào Trí Úc, "Đề xuất đổi mới
VKS ở Việt nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới", tạp chí Kiểm sát số
12/2013; Lê Đức Xuân, Phạm Lan Phương, "Vai trị cơ quan cơng tố các nước trên
thế giới trong việc KSĐT các vụ án hình sự", tạp chí Kiểm sát số 13/2013; Lê Thị
Tuyết Hoa, "Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra", tạp chí Kiểm sát số
08/2014;
Mặc dù đã có một số cơng trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp ở những giai đoạn khác nhau của tố
tụng hình sự. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu, khảo sát về áp dụng
pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An. Luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tiên

về vấn đề này ở cấp độ luận văn thạc sỹ. Các cơng trình nghiên cứu đã được thực
hiện là nguồn tư liệu phong phú cho học viên thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học
của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp
luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ
án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An từ năm 2012 đến 2016.
4. Mục đích nhiệm vụ của luận văn
- Mục dích của luận văn
Nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn ADPL về hoạt động kiểm sát
trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự, nhằm đề xuất những phương hướng
và giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả ADPL trong hoạt động kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố, điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, đáp ứng yêu cầu cải

4


cách tư pháp, góp phần cùng với các cơ quan tư pháp trong tỉnh bảo vệ tốt hơn quyền,
lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức và công dân, tăng cường pháp chế XHCN.
- Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về ADPL về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân theo qui định của pháp luật.
Trong đó tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, qui trình và các yếu tố đảm bảo việc
áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân;
+ Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố, điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An.

+ Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng
pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra của Viện kiểm sát,
đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện
trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác - Lê nin theo
quan điểm phát triển toàn diện, lịch sử cụ thể. Đồng thời, kết hợp với các phương pháp
nghiên cứu khác như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh...
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối tồn diện và
có hệ thống về áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố,

5


điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, nên có một số
đóng góp mới sau đây:
- Đánh giá khách quan về thực trạng, làm rõ nguyên, những hạn chế của hoạt
động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra của VKSND tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong
THQCT, KSHĐTP ở giai đoạn khởi tố, điều tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm và cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho Điều tra

viên, Kiểm sát viên trong Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, nhất là những Kiểm sát
viên trực tiếp làm công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp để nâng cao
trình độ lý luận và thao tác chun mơn. Đồng thời kết quả nghiên cứu có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ nghiên cứu giảng dạy, cho học viên, sinh
viên các cơ sở đào tạo luật quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM
SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm
sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân
1.1.1 Khái niệm áp dụng pháp luật và đặc điểm của áp dụng pháp luật
- Khái niệm áp dụng pháp luật:
Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của việc thực
hiện pháp luật. Đó chính là hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà
nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện PL, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể
quan hệ PL thực hiện được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định của
pháp luật. Thơng qua hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp luật được tôn
trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ thể được thực hiện
và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm được xử lý
nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các quan hệ XH được PL bảo vệ trên các lĩnh vực
khác nhau của đời sống XH. Có thể nói, áp dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng
ngày trong các cơ quan nhà nước và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có

thẩm quyền thực hiện.
Tính chất tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước của áp dụng pháp luật
thể hiện ở chỗ hoạt động này chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhân viên
nhà nước có thẩm quyền tiến hành, khơng theo ý chí của các chủ thể mà là theo quy
định của pháp luật. Quyết định áp dụng quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thi
hành và được Nhà nước bảo đảm thi hành. Chính vì vậy, áp dụng pháp luật cịn là một
hình thức thực hiện quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
* Áp dụng pháp luật được thực hiện trong các trường hợp sau:
Thứ nhất: Trong trường hợp cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế nhà
nước, hoặc áp dụng chế tài xử lý đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.

7


Đây là trường hợp áp dụng pháp luật được áp dụng phổ biến đơí với các tội
phạm hình sự, các vi phạm hành chính.
Thứ hai: Khi quan hệ pháp luật với những quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp
lý cụ thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Chẳng
hạn, Hiến pháp và Bộ luật lao động có ghi: "lao động là quyền và nghĩa vụ của
cơng dân", nhưng nếu khơng có sự hoạt động ra quyết định tuyển dụng lao động của
các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động thì quan hệ lao động cũng không mặc nhiên
phát sinh.
Thứ ba: Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó khơng tự giải quyết được. Đây là
trường hợp quan hệ phát luật đã phát sinh, nhưng quyền nghĩa vụ của các bên khơng
được thực hiện và có tranh chấp, ví dụ như: tranh chấp về hợp đồng thương mại, lao
động, thừa kế.v.v.
Thứ tư: Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải
tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó; hoặc
Nhà nước xác nhận sự tồn tại của một số vụ việc, sự kiện thực tế. Chẳng hạn như

việc Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn, xác nhận di chúc, chứng thực thế
chấp cho công dân theo qui định.
Từ những vấn đề phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy: “Áp dụng PL là
một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thơng qua các cơ quan có
thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể PL thực hiện những qui
định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các qui định của pháp luật ra các
quyết định áp dụng trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội” [11,
tr.500].
* Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất: ADPL là hoạt động mang tính tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước. Hoạt động ADPL chỉ do những cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm
quyền tiến hành. Pháp luật qui định mỗi cơ quan nhà nước hay nhà chức trách khác
nhau có thẩm quyền ADPL khác nhau, như Thẩm phán có quyền xét xử ra bản án,

8


Kiểm sát viên có quyền thực hành quyền cơng tố, đề ra yêu cầu điều tra hoặc tự
mình tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp…Trong trường hợp đặc biệt một
số tổ chức xã hội được nhà nước uỷ quyền cũng được ADPL. Như vậy pháp luật là
cơ sở xuất phát điểm để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ADPL thực hiện chức
năng của mình. Việc ADPL được xem là sự tiếp tục thực hiện ý chí của nhà nước
được thể hiện trong pháp luật.
Thứ hai: Hoạt động áp dụng pháp luật phải được tiến hành theo các thủ tục
pháp lý chặt chẽ. Do tầm quan trọng và tính chất phức tạp của ADPL, chủ thể bị áp
dụng pháp luật có thể được hưởng những lợi ích rất lớn hoặc chịu những hậu quả bất
lợi nghiêm trọng, nên pháp luật luôn xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục,
quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong quá trình ADPL. Bởi vậy mà các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong q trình ADPL phải tn thủ
nghiêm chỉnh các qui định có tính thủ tục đó.

Thứ ba: Áp dụng PL là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với những
quan hệ XH nhất định. Đối tượng của hoạt động ADPL là những quan hệ XH cần
đến sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong qui phạm PL.
Bằng hoạt động ADPL những qui phạm PL nhất định được cá biệt hóa vào trong
những trường hợp cụ thể của đời sống.
Thứ tư: Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Bởi lẽ những
tình huống dự liệu qui định trong các qui phạm pháp luật chỉ là những dấu hiệu
chung nhất, có tính khái qt cao, trong khi đó những tình huống, sự kiện pháp lý
diễn ra trong thực tế lại hết sức phong phú, đa dạng nên hoạt động ADPL có tính
thực tiễn cao và địi hỏi tính sáng tạo. Các trường hợp pháp luật chưa qui định hoặc
qui định chưa rõ thì có thể vận dụng sáng tạo bằng cách ADPL tương tự để giải
quyết, việc vận dụng phải phù hợp với qui định chung của pháp luật. Để làm được
điều đó người ADPL khơng thể máy móc, rập khn mà địi hỏi phải có ý thức pháp
luật cao, có kiến thức tổng hợp, có kinh nghiệm cuộc sống phong phú. Như vậy:
“ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực
hiện thơng qua những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các
tổ chức XH khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những qui phạm PL
vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể” [11, tr.503].

9


* Hình thức thể hiện của ADPL: Hình thức thể hiện chính thức và chủ yếu
của hoạt động ADPL là văn bản ADPL. Văn bản ADPL được thể hiện trong những
hình thức xác định như: Bản án, quyết định, lệnh. Căn cứ vào nội dung nhiệm vụ
của văn bản ADPL, có thể chia thành hai loại: Văn bản xác định quyền, nghĩa vụ và
văn bản bảo vệ PL chứa đựng những biện pháp trừng phạt, cưỡng chế nhà nước đối
với cá nhân, tổ chức vi phạm PL.
Với tính cách là một mắt xích của cơ chế điều chỉnh PL, văn bản ADPL là văn bản
pháp lý cá biệt mang tính quyền lực do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách

hoặc các tổ chức XH được nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở những qui phạm PL,
nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của cá nhân, tổ chức hoặc xác định các
biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm PL [11, tr.505].
1.1.2. Áp dụng pháp luật về hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và các đặc điểm của nó
1.1.2.1.Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát việc tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội phạm
Một trong những nguồn thơng tin về tội phạm đó là các tố giác, tin báo của
các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước và mọi công dân. Thông tin về tội phạm là
một dự kiện không thể thiếu được cho việc phát hiện, khám phá tội phạm, do đó
nguồn tố giác và tin báo về tội phạm đóng góp một phần rất quan trọng trong cơng
cuộc đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm của Nhà nước. Cho dù cơ quan bảo vệ
pháp luật có lực lượng mạnh và có các phương tiện kỹ thuật hiện đại đến đâu đi
chăng nữa mà thiếu sự phối hợp cung cấp thông tin về tội phạm của các tổ chức xã
hội, các cơ quan nhà nước và của quần chúng nhân dân thì việc phát hiện và xử lý
tội phạm khó đạt được kết quả cao.
BLTTHS năm 2003 quy định khá cụ thể và chặt chẽ trách nhiệm phối hợp
giữa cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác đấu tranh
phịng ngừa và chống tội phạm, bởi vì thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra của
các cơ quan quản lý Nhà nước có thể phát hiện hành vi phạm tội như tham ô, đưa và
nhận hối lộ hoặc vi phạm nghiêm trọng công tác quản lý Nhà nước về kinh tế v.v...
Những hành vi phạm tội đó cần phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nhằm chấn
chỉnh công tác quản lý Nhà nước về kinh tế, bảo đảm sự ổn định của xã hội, nên

10


BLTTHS năm 2003 đã quy định: "Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ
quan nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp với
CQĐT, VKS và Tòa án trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các cơ

quan nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật để xử lý và
phải thông báo ngay cho CQĐT, VKS mọi hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan
và trong lĩnh vực quản lý của mình; có quyền kiến nghị và gửi các tài liệu có liên
quan cho CQĐT, VKS xem xét khởi tố đối với người có hành vi phạm tội" Đối với
cơ quan Thanh tra Nhà nước thì: "...Có trách nhiệm phối hợp với CQĐT, VKS, Tòa
án trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Khi phát hiện có sự việc có dấu hiệu tội
phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu có liên quan và kiến nghị CQĐT, VKS khởi
tố vụ án hình sự".
Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự nước ta quy định trách nhiệm phát hiện
tin báo và tố giác tội phạm là của mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức và công dân.
Các thông tin về tội phạm phải được gửi ngay tới cơ quan cuối cùng có trách nhiệm
giải quyết đó là CQĐT và VKS, Điều 86 BLTTHS quy định: "Trong thời hạn không
quá hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tin báo, CQĐT, VKS trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án hình sự". Trong suốt quá trình thực hiện quy định trên, đồng
thời trong thực tiễn phát triển của xã hội thì hiện tượng vi phạm, tội phạm đã diễn ra
ngày càng phức tạp với số lượng gia tăng nên việc quy định trong phối hợp phát
hiện và xử lý các tố giác và tin báo về tội phạm cần cụ thể hơn, nên ngày 02-8-2013
liên bộ VKSND tối cao - Bộ công an - Bộ quốc phịng - Bộ nơng nghiệp - tổng cục
Hải quan đã ban hành thông tư liên ngành số 06-TT/LN quy định về quản lý và xử
lý tin báo tội phạm, trong đó có quy định: "VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của các CQĐT, các
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra..." và "... khi
nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, VKS có trách nhiệm chuyển đến CQĐT có
thẩm quyền để giải quyết, yêu cầu khởi tố hoặc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự,

11



chuyển cho CQĐT để tiến hành điều tra". Cho nên, về lý thuyết hoạt động của VKS
trong việc tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm bao gồm những nội dung:
Thứ nhất, kiểm sát việc tiếp nhận (thụ lý) thông tin về tội phạm ở CQĐT và
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo
quy định của BLTTHS năm 1988 và Thơng tư liên ngành số 06-TT/LN, VKSND có
nhiệm vụ kiểm sát việc CQĐT đã phát hiện và thụ lý đầy đủ các vi phạm và tội
phạm xảy ra trên địa bàn mình quản lý hay chưa, có trường hợp nào CQĐT không
thụ lý hay không? Lý do không thụ lý. Trong trường hợp VKS nhận được tố giác và
tin báo về tội phạm nhưng CQĐT chưa nhận được thì VKS chuyển đến cho CQĐT
để tiến hành xác minh.
Đối với hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận (thụ lý) các tố giác, tin báo về tội
phạm của VKS thì đây là một cơng việc có tính chất phức tạp, bởi quy định về thụ
lý các thông tin về tội phạm của CQĐT cũng như các cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra hiện nay thường do ngành dọc quy định, nên đòi
hỏi người cán bộ kiểm sát bên cạnh việc nắm rõ quy định chung của BLTTHS, còn
phải nắm được quy định của CQĐT về việc thụ lý, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm. Mặt khác còn phải nắm được phương pháp nghiệp vụ về điều tra án hình sự
thì mới có thể phát hiện được các vi phạm của CQĐT. Ví dụ, trong thực tế hiện nay
có nhiều thơng tin về tội phạm xảy ra nhưng CQĐT thấy khó phá án hoặc do một
ngun nhân nào đó hay nhận thức thơng thường là khơng quan trọng nên đã bỏ
ngồi sổ sách thụ lý những đơn thư tố giác của công dân, từ đó mà VKS khơng thể
kiểm sát đầy đủ số thụ lý các tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT. Trong trường
hợp đó các kiểm sát viên có thể thông qua việc yêu cầu xem các báo cáo của Công
an khu vực, Công an các phường, xã về việc phản ánh các sự kiện có dấu hiệu tội
phạm trong khu vực, sau đó đối chiếu với sổ thụ lý cùng thời điểm sẽ phát hiện ra
CQĐT có vào sổ thụ lý hay không.
Vấn đề kiểm sát việc thụ lý các tố giác và tin báo về tội phạm của các cơ
quan có thẩm quyền điều tra hiện đang gặp nhiều khó khăn do nhận thức và phương
pháp phối hợp giữa hai ngành Cơng an và VKS chưa có sự thống nhất. Để giải
quyết bất cập trên, trong BLTTHS năm 2003 nhà làm luật đã bỏ quy định về kiểm


12


sát việc thụ lý các tố giác và tin báo về tội phạm của VKS, mà quy định VKS chỉ có
trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết tố giác và tin báo tội phạm của CQĐT, Điều
103 của Bộ luật quy định: "1/... VKS có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu liên quan đã tiếp nhận
cho CQĐT có thẩm quyền”
Trong thời gian hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, CQĐT trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra,
xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự.
VKS có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố".
Như vậy, kể từ ngày 1-7-2004 khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành
thì VKS khơng đến CQĐT và các cơ quan khác được giao thẩm quyền tiến hành
một số hoạt động điều tra để nắm và kiểm sát thụ lý tin báo, tố giác về tội phạm, mà
chỉ có trách nhiệm kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT.
Thứ hai, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT và
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra: Trong
nội dung này VKS tập trung kiểm sát về thời hạn giải quyết và các biện pháp mà
CQĐT áp dụng khi tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh có đúng theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự hay khơng. Cụ thể, về thời hạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm Điều 86 BLTTHS quy định: "Trong thời hạn không quá hai
mươi ngày kể từ khi nhận được tố giác hoặc tin báo, CQĐT phải kiểm tra, xác minh
nguồn tin và quyết định khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự. Trong trường
hợp sự việc bị tố giác hoặc tin báo có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra,
xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác, tin báo có thể dài hơn,
nhưng không quá hai tháng". Như vậy, thời hạn để giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm không phức tạp là hai mươi ngày, nếu thông tin về tội phạm có nhiều tình tiết
phức tạp phải kiểm tra, xác minh ở nhiều địa bàn khác nhau thì thời hạn giải quyết
có thể kéo dài nhưng khơng q hai tháng. Để kiểm sát được chặt chẽ thời hạn giải

13


quyết thơng tin về tội phạm của CQĐT thì VKS phải nắm được cụ thể nội dung của
thơng tin đó nhằm phân loại và xử lý, nếu thông tin về tội phạm có nội dung rõ
ràng, xác thực và xét thấy hành vi mà đơn thư tố giác hay tin báo phản ánh có đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm thì khơng cần thiết phải chờ hết hai mươi ngày mới ra
quyết định xử lý. Trong trường hợp nói trên mà CQĐT vẫn để kéo dài thời hạn cho
hết hai mươi ngày mới ra quyết định xử lý thì VKS có biện pháp yêu cầu CQĐT
quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành hoạt động điều tra.
Tuy nhiên trong thực tiễn hiện nay ở nhiều địa phương do sự phối hợp giữa
hai ngành Công an và VKS trong cơng tác đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm
chưa được tốt, do nhận thức chưa thống nhất quy định tại Điều 86 BLTTHS. CQĐT
cho rằng, pháp luật cho phép thời hạn 20 ngày kiểm tra, xác minh thì đến ngày thứ 20
ra quyết định giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là không vi phạm pháp luật. Nhận
thức đó làm hạn chế tính kịp thời trong phát hiện cũng như trong việc xử lý tội phạm,
dẫn đến những hậu quả bất lợi cho các cơ quan bảo vệ pháp luật như để thời gian kéo
dài đối tượng phạm tội có thể xóa dấu vết phạm tội hay bỏ trốn gây trở ngại cho công
tác điều tra, truy tố và xét xử. Do đó, VKS phải kiểm sát chặt chẽ thời hạn giải quyết
các tố giác, tin báo về tội phạm để từ đó đề ra yêu cầu, biện pháp cho CQĐT tiến
hành xử lý, giải quyết nhanh chóng, tránh gây ra những hậu quả như đã nêu trên.
Cùng với hoạt động kiểm sát về thời hạn kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo
tội phạm, VKS cịn phải tiến hành kiểm sát tính hợp pháp của những biện pháp mà
CQĐT áp dụng trong quá trình kiểm tra, xác minh. Hoạt động kiểm tra, xác minh các
tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT nhằm để xác định có dấu hiệu của tội phạm đã
xảy ra hay không và trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh quyết định khởi tố hoặc

không khởi tố vụ án hình sự, mà chưa cần phải làm rõ đối tượng phạm tội. Nên khi
chưa có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì CQĐT khơng được áp dụng bất kỳ biện
pháp tố tụng hình sự nào. Nếu CQĐT áp dụng biện pháp tố tụng hình sự để kiểm tra,
xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, ví dụ như hỏi cung, khám xét, bắt hoặc tạm giữ
…thì vi phạm pháp luật. Chỉ sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan
có thẩm quyền thì mới cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng các

14


biện pháp tố tụng hình sự do luật định để thu thập tài liệu và kiểm tra các chứng cứ
nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội. Với chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc giải quyết các tố giác và tin báo về tội phạm, VKS phải kịp thời
phát hiện và yêu cầu khắc phục ngay những vi phạm của CQĐT trong quá trình xác
minh tố giác, tin báo về tội phạm nếu có, như thế mới bảo đảm các hoạt động của
CQĐT tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
Trên cơ sở kết quả của quá trình kiểm tra, xác minh các tố giác, tin báo về
tội phạm đã thụ lý, CQĐT sẽ đánh giá và xác định có dấu hiệu của tội phạm hay
khơng để từ đó giải quyết bằng việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết
định khơng khởi tố vụ án hình sự. Với chức năng của mình, VKS tiếp tục kiểm sát
việc khởi tố của CQĐT.
Kiểm sát quyết định khởi tố và quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự
Việc quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự làm
phát sinh mối quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa các cơ quan tiến hành tố tụng mà cụ
thể là giữa CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra với cơ
quan VKS. Mối quan hệ này được phản ánh thông qua việc thực hiện chức năng kiểm sát
việc khởi tố vụ án hình sự của VKS.
Có thể nói, kiểm sát việc khởi tố là thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra các vụ án hình sự, thơng qua việc
thực hiện chức năng này VKS có trách nhiệm bảo đảm quyết định khởi tố hoặc

quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền phải có căn cứ
và hợp pháp, kịp thời ngăn chặn ngay từ ban đầu các vi phạm pháp luật của CQĐT.
Ví dụ, như việc ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự khơng có căn cứ dẫn đến
áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự sai hoặc việc ban hành quyết định không
khởi tố vụ án hình sự trái pháp luật thì sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
Về nguyên tắc, sau khi tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tố giác, tin báo
về tội phạm, nếu phát hiện có dấu hiệu của tội phạm hình sự thì CQĐT phải ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự, ngược lại nếu xác định khơng có dấu hiệu của tội
phạm hình sự hay có dấu hiệu của tội phạm hình sự nhưng có cắn cứ khơng khởi tố

15


vụ án thì ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự. Tất cả các quyết định này của
CQĐT phải được gửi cho VKS để tiến hành kiểm sát việc khởi tố. Bản chất của
hoạt động kiểm sát việc khởi tố bao gồm hai nội dung là kiểm tra tính có căn cứ và
tính hợp pháp của quyết định khởi tố và quyết định không khởi tố vụ án hình sự của
cơ quan có thẩm quyền.
Tính có căn cứ là một nội dung cơ bản mà hoạt động kiểm sát khởi tố hướng
vào. Điều 83 BLTTHS quy định: "Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có
dấu hiệu tội phạm", Theo quy định trên thì căn cứ duy nhất để khởi tố vụ án hình sự đó
là khi có đủ cơ sở xác định một cách chính xác có dấu hiệu tội phạm đã xảy ra. Còn
dấu hiệu tội phạm được xác định trên cơ sở nào thì BLTTHS đã liệt kê ra 5 cơ sở tại
Điều 83. Vì vậy, sau khi tiến hành kiểm tra, xác minh các thông tin về tội phạm, CQĐT
xác định chính xác có dấu hiệu tội phạm thì khi đó mới được ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự để mở cuộc điều tra. Ngược lại khi xác định khơng có dấu hiệu tội phạm thì
CQĐT ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp mặc dù
xác định có dấu hiệu của tội phạm nhưng có căn cứ khơng được khởi tố vụ án hình sự
quy định tại Điều 89 BLTTHS thì CQĐT cũng ra quyết định không khởi tố vụ án hình
sự. Thơng qua hoạt động kiểm sát việc khởi tố xét thấy quyết định khởi tố hoặc quyết

định không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT khơng có căn cứ thì VKS có quyền ra
quyết đinh hủy bỏ các quyết định nói trên.
Tính hợp pháp là nội dung quan trong thứ hai mà VKS cần phải xem xét khi
thực hiện chức năng kiểm sát việc khởi tố. Nội dung này bao gồm những vấn đề cần
xem xét như về thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án; quyết định khơng khởi tố vụ
án hình sự, nội dung và hình thức của quyết định đó đã đúng theo quy định của
BLTTHS chưa, Nếu qua kiểm sát, VKS phát hiện có những vi phạm về thầm quyền ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự thì yêu cầu cơ quan ra quyết định đó có biện pháp
khắc phục. Ví dụ, các cơ quan Hải quan, Kiểm lâm chỉ được ra quyết định khởi tố vụ
án trong những trường hợp quy định tại Điều 93 BLTTHS, nếu các cơ quan nói trên
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự vi phạm quy định trên là đã vi phạm về thẩm
quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Vi phạm đó cần được phát hiện và yêu
cầu khắc phục kịp thời.

16


Qua nghiên cứu và so sánh quy định về thẩm quyền ra quyết định khởi tố
hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự của BLTTHS năm 2003 với BLTTHS
năm 1988 thì nhà làm luật đã có những sửa đổi, bổ sung mới, cụ thể như quy định
thu hẹp phạm vi khởi tố vụ án hình sự của VKS, theo đó VKS chỉ ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự trong hai trường hợp:
+ Khi hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT và các cơ quan
khác được giao thẩm quyền điều tra.
+ Khi Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
Việc hạn chế như trên là để thống nhất với quy định mới về việc tập trung
thống nhất giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ở một đầu
mối là CQĐT.
Hơn nữa BLTTHS năm 2003 bên cạnh việc tiếp tục quy định thẩm quyền ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan khác được tiến hành một số hoạt

động điều tra thì có bổ sung một cơ quan nữa đó là lực lượng cảnh sát biển có thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự khi xác định có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực quản lý
của mình. Ngồi ra, Bộ luật còn quy định khá rõ thẩm quyền chức danh tố tụng ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự, cụ thể đối với CQĐT theo quy định tại Điều 94
Bộ luật thì Thủ trưởng CQĐT là người ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, tuy
nhiên trong thực tế Phó thủ trưởng CQĐT trên cơ sở được ủy quyền cũng được ký
các quyết định này.
Như vậy, khi nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
khơng khởi tố vụ án hình sự, VKS căn cứ vào các quy định của BLTTHS để tiến
hành kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp của các quyết định đó một cách chặt chẽ.
Để thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc khởi tố, VKS phải cùng CQĐT phân loại
và xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm và giám sát chặt chẽ việc xác minh của
CQĐT. Đồng thời phải nắm chắc các cấu thành tội phạm của những hành vi bị coi
là tội phạm được quy định trong BLHS, đặc biệt là những vụ án khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại thì bảo đảm phải có căn cứ theo quy định của Điều 88
BLTTHS. Cịn đối với quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự mà CQĐT và các cơ

17


quan khác có thẩm quyền điều tra gửi đến, VKS cũng phải xem xét chặt chẽ căn cứ
từ chối không khởi tố, bởi vì quyết định khơng khởi tố vụ án luôn tiềm ẩn khả năng
che giấu tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Điều 89
BLTTHS đã quy định liệt kê ra 7 căn cứ để không được khởi tố vụ án hình sự, do
đó nếu quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự khơng có một trong các căn cứ quy
định tại Điều 89 thì quyết định đó là vi phạm pháp luật và VKS phải ra quyết định
hủy bỏ ngay quyết định trái pháp luật đó của CQĐT và ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra vụ án.
Đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự của Tịa án khi được chuyển đến
VKS để yêu cầu điều tra. Nếu qua kiểm tra, xem xét thấy khơng có căn cứ thì VKS

kháng nghị lên Tòa án cấp trên để xem xét, đồng thời báo cáo cho VKS cấp trên biết.
Quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Tịa án đã được sửa đổi, bổ sung tại
BLTTHS năm 2003, trong đó quy định thay thế "Tịa án" bằng "Hội đồng xét xử"
và bổ sung quy định: "Yêu cầu VKS khởi tố". Sự sửa đổi bổ sung này không chỉ là sự
hợp lý hóa ngơn từ, mà cịn là sự thay đổi cách thức xử lý thông tin về tội phạm của
cơ quan xét xử, điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, khơng phải là Tịa án nói chung mà chính là Hội đồng xét xử
thơng qua việc xét xử mà phát hiện dấu hiệu tội phạm;
Thứ hai, khi phát hiện dấu hiệu tội phạm tại phiên tòa xét xử, Hội đồng xét xử
có hai cách xử lý hoặc là ra quyết định khởi tố vụ án hình sự rồi gửi tới VKS để
xem xét, quyết định giao cho CQĐT tiến hành điều tra; hoặc là yêu cầu VKS khởi
tố vụ án hình sự. Đương nhiên việc khởi tố hay không khởi tố vụ án theo yêu cầu
khởi tố của Hội đồng xét xử phải được VKS thông báo lại.
Như vậy điểm mới của BLTTHS năm 2003 là nhà làm luật đã quy định rõ
Hội đồng xét xử mới có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự chứ khơng
phải là " Tịa án" một thuật ngữ chung chung, hơn nữa cũng quy định một cách linh
hoạt cho Hội đồng xét xử có hai phương án xử lý khi thông qua xét xử phát hiện
được dấu hiệu tội phạm.
Về trình tự, thủ tục kiểm sát việc khởi tố, BLTTHS nước ta đã quy định:
"Trong thời hạn 24 giờ quyết định khởi tố của CQĐT và các cơ quan khác được

18


giao thẩm quyền điều tra phải được gửi đến VKS để kiểm sát việc khởi tố..." (Điều
104 BLTTHS năm 2003). Việc quy định như vậy là đảm bảo cho VKS thực hiện
chức năng kiểm sát việc khởi tố được kịp thời, nhằm hạn chế những vi phạm trong
việc khởi tố của CQĐT. Mục đích kiểm sát là bảo đảm khơng một người nào khơng
thực hiện hành vi phạm tội thì họ không thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế
theo quy định của luật tố tụng hình sự, như bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam, hạn chế

các quyền công dân.
Để thực hiện chức năng kiểm sát quyết định khởi tố và quyết định khơng khởi
tố vụ án hình sự, VKS có thể tiến hành thơng qua hai phương pháp sau:
+ Trực tiếp tham gia cùng CQĐT phân loại các tố giác, tin báo về tội phạm
ngay từ đầu để xem xét việc quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự
ngay, cịn nếu thơng tin tội phạm nào phải tiến hành kiểm tra xác minh mới xác định
có hay khơng dấu hiệu tội phạm thì yêu cầu CQĐT tiến hành kiểm tra xác minh
thông tin đó.
+ Gián tiếp thơng qua nghiên cứu các tài liệu liên quan kèm theo quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự mà CQĐT gửi đến. Trên cơ sở nghiên cứu
các tài liệu đó VKS có thể xem xét việc khởi tố của CQĐT có đúng hay khơng.
Tóm lại, thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc khởi tố có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng, thơng qua đó VKS sẽ loại trừ ngay từ đầu các vi phạm pháp luật của
CQĐT và yêu cầu CQĐT sớm có biện pháp khắc phục kịp thời để hạn chế việc khởi
tố tràn lan khơng có căn cứ rồi sau đó phải đình chỉ điều tra hoặc khơng khởi tố vụ
án khơng có căn cứ dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
1.1.2.2. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự
- Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự:
“Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án theo qui định của BLTTHS từ
việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án hình sự. Quá trình giải quyết
vụ án hình sự phải trải qua những giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn thể hiện một
hướng nhất định của hoạt động tố tụng” [39, tr.9-10].
Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng
mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Có thể được

19


×