ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG PHƢƠNG LINH
B¶O VƯ QUYềN TRẻ EM TRONG LĩNH VựC NUÔI CON NUÔI
THEO PHáP LUËT VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG PHƢƠNG LINH
B¶O VƯ QUYềN TRẻ EM TRONG LĩNH VựC NUÔI CON NUÔI
THEO PHáP LUËT VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Dƣơng Phƣơng Linh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ
EM TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI ............................... 6
1.1.
Khái niệm quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em ......................... 6
1.1.1.
Khái niệm trẻ em. .............................................................................. 6
1.1.2.
Khái niệm quyền trẻ em..................................................................... 7
1.1.3.
Khái niệm bảo vệ quyền trẻ em ....................................................... 10
1.2.
Khái niệm con nuôi và nuôi con nuôi........................................... 11
1.2.1.
Khái niệm về con nuôi ..................................................................... 11
1.2.2.
Khái niệm nuôi con nuôi ................................................................. 11
1.3.
Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi ..................... 14
1.3.1.
Nội dung bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi .......... 14
1.3.2.
Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi ... 17
1.3.3.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc nuôi con nuôi ................................ 18
1.3.4.
Những điều kiện bảo đảm, bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực
nuôi con nuôi ................................................................................... 25
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
CỦA TRẺ EM TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG................................................................ 31
2.1.
Bảo vệ quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi ..... 31
2.1.1.
Nguyên tắc bảo đảm quyền của trẻ em trong giải quyết việc
nuôi con nuôi ................................................................................... 31
2.1.2.
Yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo quyền của trẻ em trong
việc ni con ni ............................................................................ 36
2.1.3.
Trình tự thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi ................................... 47
2.2.
Bảo vệ quyền trẻ em trong q trình nhận ni con ni ......... 56
2.3.
Bảo vệ quyền trẻ em khi chấm dứt việc nuôi con nuôi .............. 62
2.3.1.
Căn cứ chấm dứt việc nuôi con ni ............................................... 62
2.3.2.
Trình tự, thủ tục giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi ............... 68
2.3.3.
Hệ quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi............................ 69
2.4.
Bảo vệ quyền trẻ em trong trƣờng hợp nuôi con nuôi thực tế ....... 71
2.4.1.
Khái niệm ni con ni thực tế ..................................................... 71
2.4.2.
Tình hình việc ni con ni thực tế hiện nay ................................ 71
2.5.
Bảo vệ quyền trẻ em trong trƣờng hợp nuôi con ni có yếu
tố nƣớc ngồi .................................................................................. 73
2.5.1.
Khái niệm ni con ni có yếu tố nước ngồi ............................... 73
2.5.2.
Các hình thức ni con ni có yếu tố nước ngồi ......................... 74
2.5.3.
Phương pháp điều chỉnh và nguồn pháp luật điều chỉnh các
quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi ................................... 76
2.5.4.
Ngun tắc giải quyết việc ni con ni có yếu tơ nước ngồi .... 78
2.5.5.
Tình hình thực tiễn việc ni con ni có yếu tố nước ngồi ở
Việt Nam .......................................................................................... 78
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ
QUYỀN TRẺ EM TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................ 85
3.1.
Quan điểm về tăng cƣờng bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh
vực nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay ....................................... 85
3.1.1.
Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực ni con ni xuất phát từ
lợi ích tốt nhất của trẻ em ................................................................ 85
3.1.2.
Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi xuất phát từ
quyền được ni dưỡng, chăm sóc tốt nhất trong mơi trường
gia đình ............................................................................................ 86
3.1.3.
Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con ni nhằm thực
thi quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con ni với trẻ
em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em bị mồ cơi, bị bỏ rơi,
bị bệnh hiểm nghèo .......................................................................... 86
3.1.4.
Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi là trách nhiệm
quản lý nhà nước về trẻ em ................................................................ 87
3.2.
Giải pháp tăng cƣờng bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực
nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay .............................................. 87
3.2.1.
Nhóm giải pháp hồn thiện pháp luật .............................................. 87
3.2.2.
Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức cho các chủ thể liên quan ..... 92
3.2.3.
Nhóm giải pháp hỗ trợ trẻ em là nạn nhân ...................................... 95
3.2.4.
Một số giải pháp khác ...................................................................... 97
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nội dung
Công ước Lahay Công ước La Hay số 33 ngày 29/5/1993 về Bảo vệ trẻ
em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con ni quốc tế có
hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ 01/02/2012
CRC
Công ước quốc tế về Quyền trẻ em
Nghị định 19
Nghị định số 19/2011/ NĐ – CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật nuôi con nuôi
Nghị định 24
Nghị định số 24/2019/ NĐ – CP quy định sửa đổi Nghị
định 19/2011 hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi
QTE
Quyền trẻ em
UBND
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ni con ni là một hiện tượng xã hội phổ biến đã có từ lâu trong lịch
sử và được nhiều quốc gia ghi nhận, pháp luật các nước điều chỉnh. Hiện nay,
việc nuôi con nuôi đã và đang trở thành mối quan tâm của cộng đồng quốc tế
bởi chính ý nghĩa nhân văn, tình yêu thương giữa con người với con người,
trách nhiệm của xã hội mang đến mái ấm gia đình cho những trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt cùng tình u thương của cha mẹ nuôi. Luật Nuôi con nuôi số
52/ 2010/ QH12 được Quốc hội khóa XII thơng qua và có hiệu lực từ ngày 01
tháng 01 năm 2011 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành khác đã thể hiện
mối quan tâm hoàn thiện nhằm đảm bảo thực hiện quyền trẻ em được chăm
sóc, ni dưỡng và giáo dục tồn diện trong mơi trường gia đình.
Trước tình hình hiện nay vấn đề bảo vệ quyền trẻ em đang trở thành
tâm điểm và ngày càng được quan tâm, và đặc biệt chú trọng. Vì vậy, việc
nghiên cứu một cách có hệ thống, chun sâu và tồn diện pháp luật về nuôi
con nuôi và các hiệp định hợp tác nuôi con nuôi, các công ước quốc tế về nuôi
con nuôi mà Việt Nam đã tham gia ký kết để hoàn thiện khung hành lang
pháp lý trong hoạt động bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực này. Việc bảo
đảm quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi được đặt ra là vấn đề tất yếu
và cần được xem xét trên phương diện lý luận và thực tiễn để có thể đưa ra
những đánh giá, giải pháp toàn diện về việc bảo đảm quyền này ở Việt Nam.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn khách quan, tôi lựa chọn đề tài: “Bảo vệ
quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam hiện
nay” là đề tài luận văn với mong muốn góp phần tăng cường bảo đảm một
trong những quyền cơ bản của con người ở Việt Nam.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền trẻ em là vấn đề pháp lý quan trọng trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước và việc ni con nuôi được nhiều tác giả, các nhà
khoa học, các nhà quản lý quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ, cụ thể như:
Trước khi Luật Nuôi con nuôi ban hành, nhiều cơng trình nghiên cứu,
sách chun khảo làm cơ sở nghiên cứu hồn thiện pháp luật Ni con ni
như: Chuyên đề “Chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và pháp
luật quốc tế” (năm 1998) của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp; Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Hồn thiện pháp luật về ni con ni có yếu
tố nước ngồi trước u cầu gia nhập Công ước La hay 1993 về bảo vệ trẻ em
và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế” (năm 2005) do Tiến sĩ Vũ
Đức Long làm chủ nhiệm…
Sau khi Luật nuôi con nuôi 2010 được ban hành đến nay cũng có một
số đóng góp của các tác giả với: chuyên đề “Pháp luật về nuôi con nuôi” của
Tạp chí dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp (2011); đề tài nghiên cứu cấp bộ do
Tiến sĩ Dương Thị Thanh Mai làm chủ nhiệm về “Dự án điều tra cơ bản –
Thực trạng nuôi con nuôi” (2012); luận văn “So sánh pháp luật về ni con
ni có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và một số nước trên thế giới – Bài
học kinh nghiệm và hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam” – Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội… Nhìn chung, các luận văn này tập trung nghiên cứu
một vấn đề liên quan trực tiếp đến ni con ni trong nước hoặc ni con
ni có yếu tố nước ngoài theo pháp luật nước ta nhưng chưa đề cập đến việc
bảo đảm quyền và chưa tiếp cận dựa trên cái nhìn phổ quát về quyền trẻ em
được nhận nuôi trong quan hệ nuôi con nuôi mà mới chỉ dừng lại ở vấn đề
bảo vệ quyền trẻ em được nhận ni khi có yếu tố nước ngồi. Do vậy, việc
lựa chọn đề tài nghiên cứu bảo đảm quyền của trẻ em trong lĩnh vực ni con
ni từ góc độ tiếp cận quyền đến việc thực thi quyền đó mang ý nghĩa thiết
thực cả về lý luận và thực tiễn.
2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu tổng quát của Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận cơ bản về bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi, đánh giá
nội dung các quy định của pháp luật Việt nam và thực tiễn thi hành từ góc độ
bảo vệ quyền trẻ em được nhận làm con nuôi. Dựa trên những luận cứ khoa
học đó để đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả việc bảo vệ quyền trẻ em
trong lĩnh vực nuôi con nuôi hiện nay cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và
nâng cao tính hiệu quả của pháp luật chuyên ngành.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn cần giải quyết những
nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu và làm sáng rõ các vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ quyền
trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi, xây dựng khái niệm bảo vệ quyền trẻ
em, bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi… làm cơ sở cho việc
nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh
vực ni con ni;
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về việc bảo vệ
quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi từ giai đoạn xác lập quan hệ nuôi
con nuôi đến khi thực hiện và chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Căn cứ vào đó
chỉ rõ quy định phù hợp, chưa phù hợp của pháp luật cần thiết phải sửa đổi,
bổ sung để hoàn thiện cũng như những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn
thực hiện và nêu nguyên nhân của tình trạng này;
Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả pháp
luật về nuôi con nuôi nhằm đảm bảo quyền trẻ em trong lĩnh vực này.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi; nghiên
3
cứu pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm
quyền của trẻ em được nhận làm con ni.
Qua đó, nhằm phân tích, đánh giá các tiêu chí, điều kiện bảo đảm cho
việc thực thi quyền của trẻ em được nhận nuôi ở Việt Nam và nước ngoài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về việc bảo đảm quyền của trẻ em trong
quan hệ nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Pháp luật về nuôi con nuôi được nghiên cứu trong Luận văn chủ yếu là
Luật nuôi con nuôi 2010, Nghị đinh 19/2011/ NĐ – CP, Nghị định 24/ 2019/
NĐ – CP. Trong đó có sự đối chiếu, so sánh, đánh giá với các nội dung về
nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về Hôn nhân và Gia đình, Luật trẻ
em và pháp luật liên quan khác.
Luận văn cịn nghiên cứu, phân tích, so sánh các quy định bảo vệ quyền
của trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi tại các Công ước quốc tế mà Việt Nam
đã ký kết và pháp luật một số quốc gia có liên quan đến nội dung của đề tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nội dung cơ bản được nêu ra của đề tài, Luận văn
đã lựa chọn cách tiếp cận dựa trên quyền và sử dụng phương pháp nghiên cứu
đa ngành, gắn liền lý luận với thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.
Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc đảm bảo thực thi quyền con người
nói chung và quyền của trẻ em được nhận ni nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên những phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, …
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là cơng trình chun khảo có hệ thống và tồn diện, góp phần
4
hệ thống hóa và làm rõ khái niệm, nội dung các quyền của trẻ em được nhận
nuôi và bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi.
Luận chứng một số giải pháp có tính khả thi cao trong việc tăng cường
thiết chế bảo đảm quyền trẻ em được nhận nuôi ở Việt Nam hiện nay.
Từ việc nghiên cứu pháp luật về quyền trẻ em trong hệ thống pháp luật
quốc tế, pháp luật Việt Nam nhằm phân tích, đánh giá những mặt mạnh và
mặt hạn chế của pháp luật ni con ni. Dưới góc độ bảo vệ quyền trẻ em,
kết quả nghiên cứu luận văn góp phần nâng cao nhận thức về quyền trẻ em và
nhu cầu bảo đảm quyền của trẻ em khi được nhận làm con nuôi hiện nay.
Kết quả nghiên cứu luận văn có giá trị tham khảo trong việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật tương thích với thực tiễn cơng tác quản lý, cơ quan
hữu quan, đơn vị đang trực tiếp thực thi pháp luật về trẻ em và quan hệ nuôi
con nuôi hiện nay.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực
nuôi con nuôi.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về việc bảo vệ quyền của trẻ em trong
lĩnh vực nuôi con nuôi và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường bảo vệ quyền trẻ em trong
lĩnh vực nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG
LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI
1.1. Khái niệm quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em
1.1.1. Khái niệm trẻ em được phần lớn các nước định nghĩa dựa trên
dấu hiệu về tuổi dựa trên các yếu tố phát triển về tâm sinh lý, thể lực và trí tuệ
của mỗi người. Do điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, các
giai đoạn phát triển của các nước là không đồng đều nên mỗi quốc gia có quy
định về độ tuổi của trẻ em là không giống nhau.
“Trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có
thể được áp dụng đối với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. (Điều
1 – Công ước QTE được thông qua ngày 20/11/1989 tại Vience có hiệu lực
ngày 02/2/1990). Cơng ước quyền trẻ em, trích Tun ngơn QTE cũng khẳng
định rằng: “…do cịn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và
chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như
sau khi ra đời” [41].
Theo đó, khái niệm trẻ em là những người dưới 18 tuổi, nhưng để tạo
điều kiện mở cho các quốc gia thì công ước này và cũng không nêu ra đây là
căn cứ bắt buộc mà tùy từng quốc gia xem xét khả năng thực tế của mình về
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em để quy định độ tuổi của trẻ em cho phù hợp
(Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong việc phê chuẩn Công ước
quốc tế về quyền trẻ em, phê chuẩn công ước vào ngày 20/2/1990 và được
Liên hợp quốc công nhận phê chuẩn ngày 28/2/1990).
Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có quy định thống nhất về độ tuổi của trẻ
em và người chưa thành niên. Theo Luật lao động năm 2012 quy định: “Trẻ
em là người dưới 15 tuổi” [49]; Luật thanh niên, “áp dụng Công ước quốc tế
6
về quyền trẻ em đối với thanh niên từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám
tuổi”, còn Luật trẻ em 2016 quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới
16 tuổi” „[56, Điều 1].
Theo quan điểm của học viên: Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 18
tuổi, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn chưa hoàn thiện đầy đủ,
cần được sự bảo vệ, chăm sóc giáo dục của gia đình, nhà trường và tồn xã
hội. Trẻ em có đầy đủ các quyền con người về mọi mặt như dân sự, chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa, đồng thời các em có quyền đặc thù riêng tùy theo nhu
cầu phát triển ở các thời kỳ khác nhau của tuổi thơ.
Đến 2015 đã có 193 quốc gia phê chuẩn Công ước QTE với thành viên
trẻ nhất là Somalia (phê chuẩn ngày 20.1.2015) còn Mỹ và South Sudan chưa
phê chuẩn.
1.1.2. Khái niệm quyền trẻ em
Quyền trẻ em trước hết là quyền con người nói chung. Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người 1948 khẳng định rằng quyền con người là những quyền
tự nhiên, vốn có. Bản tuyên ngôn nhấn mạnh: “việc thưa nhận phẩm giá vốn có
và các quyền bình đẳng và bất di bất dịch của mọi thành viên trong gia đình
nhân loại là nền tảng của tự do, cơng bằng và hịa bình trên thế giới”, “mọi
người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền”. Đây là quyền
cơ bản, mang tính phổ qt, khơng thể chuyển nhượng và được Nhà nước
công nhận và bảo đảm thực hiện.
QTE là những đặc quyền tự nhiên mà trẻ em được hưởng, được tôn
trọng và thực hiện nhằm đảm bảo sự sống cịn, tham gia và phát triển tồn diện.
QTE chính là biện pháp nhằm bảo đảm cho trẻ em không những là
người được nhận tình thương hay lịng tốt của bất cứ ai mà trở thành chủ
thể của quyền.
Có thể nói QTE trước hết là một bộ phận của quyền con người, và là
7
“quyền con người của một chủ thể đặc biệt” là trẻ em. Những quyền cơ bản
của trẻ em được Nhà nước, thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật.
Thật vậy, theo Hiến chương Liên hợp quốc đã ghi nhận trong Điều 1:
“Tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do cho tất cả mọi người, không
phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, hoặc tôn giáo”, và điều này được
khẳng định rõ hơn ở tuyên ngôn về các quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua 1959: “Lồi người có trách nhiệm trao cho trẻ em điều
tốt đẹp nhất”. Điều 24 Cơng ước về các quyền chính trị, dân sự 1996 (Việt
Nam gia nhập 1982) nêu rõ: “Mọi trẻ em đều có quyền được hưởng sự bảo hộ
của gia đình, xã hội và nhà nước”. Điều 10 công ước về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa 1966 (Việt Nam gia nhập 1982 (quy định) “Thanh thiếu
niên cần được bảo về và khơng bị bóc lột về kinh tế - xã hội, cấm bóc lột lao
động trẻ em” Theo công ước về quyền trẻ em quy định:
Các thành viên phải tôn trọng và đảm bảo các quyền được nêu ra
trong công ước này đối với mỗi trẻ em thuộc quyền tài phán của họ
mà không có một sự phân biệt đối xử nào, bất kể trẻ em, cha mẹ
hay người giám hộ pháp lý của trẻ em đó thuộc chủng tộc, màu da,
giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, chính kiến gì khác, nguồn gốc quốc
gia, dân tộc hay xã hội, tài sản, khuyết tật, xuất thân gia đình và
những mối tương quan khác [41].
Cụ thể, quyền trẻ em đƣợc pháp luật bảo vệ dựa trên những nhóm
quyền cơ bản sau:
Thứ nhất, nhóm quyền sống cịn là quyền cơ bản của mỗi con người
đảm bảo quyền được sống và đáp ứng những nhu cầu cơ bản để tồn tại. Do
đối tượng chủ thể quyền là trẻ em còn non nớt về cả thể chất và tinh thần,
không thể tự nuôi sống bản thân nên trong nội dung cơng ước có ghi nhận
quyền được sống nhằm ngăn chặn các quốc gia có bất kỳ hành động tùy tiện
8
nào dẫn đến tước đoạt đi quyền sống của trẻ em tại điều 6: “Các quốc gia
thành viên thừa nhận rằng mỗi trẻ em đều có quyền được sống”. Theo đó,
việc đảm bảo sự sống cịn của trẻ em khơng chỉ là việc đảm bảo về tính mạng
mà cịn là việc bảo đảm cho trẻ em được cung cấp dinh dưỡng và sự chăm sóc
y tế ở mức độ cao nhất dựa trên ngun tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ theo điều
24: “quyền có sức khỏe và được chăm sóc sức khỏe”.
Thứ hai, nhóm quyền được bảo vệ là việc bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình
thức bị bỏ rơi, bị phân biệt đối xử, bị lạm dụng. Việc bảo vệ trẻ em trong
nhóm quyền này khơng chỉ là ngăn ngừa sự xâm hại về thể chất, tinh thần đối
với trẻ mà còn bao gồm cả các hoạt động, biện pháp ngăn ngừa, khắc phục
những điều kiện bất lợi đối với cuộc sống của trẻ em. Cụ thể, bảo vệ trẻ em
khỏi mọi hình thức bị bỏ rơi bao gồm sự bỏ rơi của bố mẹ, xã hội, tước đi sự
chăm sóc cơ bản về sức khỏe, giáo dục đối với trẻ.
Đối với các tình huống nguy hiểm, thảm họa thiên nhiên và chiến tranh
có thể đe dọa khẩn cấp đối với sự sống còn và phát triển của trẻ em. Trẻ em tị
nạn, trẻ em sống trong hồn cảnh xung đột vũ trang… đều có quy định cần có
biện pháp bảo vệ đặc biệt. Cơng ước bảo vệ cho trẻ em gái, trẻ em tàn tật, trẻ
em tị nạn, trẻ em vùng dân tộc thiểu số, trẻ em bản địa tránh khỏi bất cứ hình
thức phân biệt đối xử nào và tạo điều kiện để các em có quyền được giáo dục
hịa nhập bình đẳng như những trẻ em khác trong cộng đồng các em đang sinh
sống. Công ước cũng hướng tới quy định việc phục hồi và giúp tái hòa nhập
cho trẻ em là nạn nhân của sự lạm dụng, bóc lột, tình dục, bắt cóc, bn bán.
Thứ ba, nhóm quyền phát triển. Đây là nhóm quyền cơ bản tạo điều
kiện đảm bảo cho trẻ em được phát triển toàn diện cả thể chất và tinh thần
trên các phương diện về chăm sóc sức khỏe, giáo dục phổ cập, phát triển năng
khiếu và đảm bảo quyền vui chơi, giải trí, tham gia các hoạt động văn hóa,
nghệ thuật, thể thao du lịch… phù hợp với lứa tuổi.
9
Thứ tư, nhóm quyền tham gia là việc để trẻ em được bày tỏ ý kiến cá
nhân đối với các vấn đề liên quan đến bản thân và quyền được tiếp cận thông
tin, bày tỏ ý kiến, tham gia các hoạt động xã hội.
QTE thực sự có hiệu lực chỉ khi chính trẻ em xác lập, thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình mà pháp luật khơng cấm. Tuy nhiên trên thực tế, khơng
mọi trường hợp trẻ em đều có thể tự mình thực hiện quyền này mà quyền trẻ
em được thực thi và bảo đảm thông qua người đại diện hoặc người giám hộ.
Những cá nhân này thực hiện quyền và nghĩa vụ cho trẻ khi trẻ chưa có khả
năng thực thi quyền của mình khi tham gia vào các quan hệ xã hội đòi hỏi
những điều kiện nhất định hoặc khi bản thân trẻ khơng có đủ khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi của mình… Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm quyền trẻ
em được thực thi thì việc quy định trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức liên quan cần có nghĩa vụ để.
Như vậy, quyền trẻ em chỉ được bảo đảm thực hiện khi và chỉ khi được
pháp luật ghi nhận và đảm bảo quyền này thực thi trong thực tế. Vì vậy,
khơng chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các điều luật về quyền trẻ em mà pháp luật
cần có các biện pháp bảo đảm để các quyền đó được thực thi.
1.1.3. Khái niệm bảo vệ quyền trẻ em
Như đã đề cập ở trên, quyền trẻ em được toàn thể cộng đồng quốc tế cũng
quan tâm và bảo vệ. Song, để đảm bảo thực thi các quyền của trẻ em lại phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: điều kiện kinh tế xã hội, chế độ chính trị,
phong tục tập quán, hệ tư tưởng, đạo đức của mỗi quốc gia, con người.
“Xâm hại trẻ em có thể xảy ra ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào và chúng ta
không thể biết trước được”. Theo Liên minh các tổ chức cứu trợ trẻ em định
nghĩa bảo vệ quyền trẻ em là việc xây dựng hệ thống quản trị hiệu quả nhằm
đảm bảo có hiệu quả trong việc phịng chống, can thiệp, giải quyết các tình
trạng, xâm hại, xao nhãng, bóc lột và bạo lực đối với trẻ em.
10
Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình,
bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em” và ghi nhận tại điều 37: “…
nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao
động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Hơn nữa, “Nhà nước, xã
hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em…” là một trong những
nguyên tắc cơ bản được đề cập tới của Luật hơn nhân và Gia đình 2014.
Theo Luật trẻ em 2016 ghi nhận: “Bảo vệ trẻ em là việc thực hiện các
biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng
ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; trợ giúp trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt”. Hơn nữa, việc bảo vệ trẻ em phải đảm bảo tính hệ thống và
tính liên tục, cần có sự phối hợp đa ngành giữa các cơ quan, tổ chức, cơ sở
giáo dục, gia đình, cá nhân nhằm đảm bảo vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
1.2. Khái niệm con nuôi và nuôi con nuôi
1.2.1. Khái niệm về con nuôi
Con nuôi là: “người được nhận làm con nuôi sau khi việc ni con ni
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký” (Điều 3 – Luật nuôi con ni
2010). Theo đó, đứa trẻ được nhận ni dưỡng, chăm sóc bởi người khơng
phải cha mẹ đẻ và được pháp luật công nhận trên cơ sở mong muốn xác lập
quan hệ cha mẹ con.
1.2.2. Khái niệm nuôi con nuôi
Khái niệm ni con ni được nhìn nhận trên hai phương diện là góc
độ xã hội và góc độ pháp lý.
Dƣới góc độ xã hội, nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội được thiết lập
giữa người nhận nuôi và người được nhận ni con ni để hình thành quan
hệ cha mẹ và con nhằm đảm bảo cho người được nhận làm con ni được
chăm sóc, trơng nom phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Quan hệ nuôi
con nuôi dựa trên lợi ích và nhu cầu của hai bên bao gồm cả về lợi ích vật
11
chất và tinh thần như: nhận ni con ni vì khơng có con cái thờ cúng tổ
tiên, nối dõi; để có thêm lao động cho gia đình; để được cấp thêm đất đai;
hoặc việc nuôi con nuôi xuất phát từ lịng trắc ẩn, sự cảm thơng, hành động
cưu mang, giúp đỡ trẻ em có những hồn cảnh đặc biệt. Quan hệ giữa cha mẹ
ni và con ni được hình thành khi các bên thực hiện theo thủ tục quy định
của pháp luật và được pháp luật bảo hộ hoặc chủ yếu dựa trên mối liên hệ tình
cảm, đạo làm người và dư luận mà không cần được pháp luật công nhận được
gọi là nuôi con nuôi thực tế.
Như vậy, những trẻ em phải chịu thiệt thịi, bất hạnh, vì nhiều lý do
khác nhau không thể sống và lớn lên trong gia đình gốc của mình khơng
những cần phải được đảm bảo quyền chăm sóc như các trẻ em khác mà cịn
được bảo vệ trong suốt q trình nhận ni con ni.
Khái niệm ni con ni dƣới góc độ pháp lý
Thuật ngữ nuôi con nuôi đã xuất hiện và được ghi nhận trong pháp luật
của nhiều nước trên thế giới như:
Một trong những bộ luật thành văn cổ nhất trên thế giới đã có những
quy định về ni con ni với những trẻ em có hồn cảnh đặc biệt là bộ luật
Hammurabi: “Trước khi đàn ơng có thể ni một đứa trẻ bị bỏ rơi, ơng ta
phải tìm cha mẹ đẻ của nó, nếu tìm thấy thì phải trả đứa trẻ cho họ”. Việc
nhận thức tầm quan trọng của gia đình gốc đối với sự phát triển của trẻ em đã
có từ lâu đời, vì vậy mà từ cổ xưa cho đến hiện đại, trẻ em luôn được ưu tiên
trước hết là “được chăm sóc bởi chính cha mẹ đẻ, được sống trong mơi
trường gia đình ruột thịt của mình” (Điều 3, Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc).
Theo hệ thống pháp luật La Mã cổ đại thì việc nhận ni con ni
nhằm hướng tới việc duy trì dịng họ, thờ cúng tổ tiên và thừa kế tài sản.
Thời kỳ cách mạng tư sản, việc ni con ni đã có những nhận thức
mang ý nghĩa về mặt xã hội, gia đình nào càng đơng con thì gia đình đó
càng hạnh phúc.
12
Thời kỳ lập pháp hiện đại, bộ luật dân sự Napoleon 1804 việc ni con
ni bị hạn chế khi xóa bỏ đối tượng con nuôi là trẻ vị thành niên và chỉ cho
phép con nuôi là người trưởng thành và đã được chăm sóc trong gia đình cha
mẹ ni 6 năm. Người nhận nuôi phải từ 50 tuổi trở lên và khơng có con nối
dõi. Do vậy, việc ni con ni chỉ xảy ra khi cha mẹ ni khơng có người
thừa kế, con nuôi được giữ cả quyền của họ trong gia đình gốc và hưởng
quyền thừa kế tài sản của cha mẹ nhận nuôi [5].
Theo Điều 124 Bộ luật gia đình của Liên Bang Nga trích các quy định về
ni con ni, hình thức được ưu tiên trong việc thu xếp mái ấm cho những trẻ
em không được cha mẹ đẻ chăm sóc chính là việc ni con ni [15, tr.316].
Pháp luật Trung Quốc quy định: trẻ em dưới 14 tuổi bị mồ côi, bị bỏ
rơi, trẻ trong gia đình khó khăn khơng có khả năng ni dưỡng có thể được
cho làm con nuôi (Điều 4 Luật nuôi con ni của nước CHND Trung Hoa
ngày 4/11/1998, có hiệu lực từ ngày 1/4/1999).
Pháp luật của Guatermala việc nuôi con nuôi được hiểu là việc trẻ
em được nhân làm con nuôi để bảo vệ theo quy định của pháp luật và sắc lệnh
được nhà nước giám sát theo đó một người nhận con ruột hoặc con của người
khác làm con nuôi (điều 2, Luật con nuôi)
Con nuôi quốc tế là việc nhận con nuôi mà đứa trẻ thường trú hợp pháp
tại Guatemala được đưa đến một nước khác làm con nuôi
Nuôi con nuôi trong nước: là cha mẹ nuôi và con nuôi là người thường
trú hợp pháp tại quốc gia này [15, tr.315].
Pháp luật Việt Nam
Vấn đề nuôi con nuôi đã được đề cập tới trong pháp luật nước ta từ thời
phong kiến mà tiêu biểu kể đến là bộ Quốc triều hình luật và Hoảng việt luật lệ;
bộ Dân luật Bắc Kỳ thời Pháp thuộc, các bản Hiến pháp của nước ta từ năm
1945, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 (nay đã được thay thế) và sau này
13
là Luật nuôi con nuôi ra đời 2010 là văn bản pháp lý chuyên ngành trong lĩnh
vực nuôi con nuôi nhằm quy định chi tiết các nguyên tắc, điều kiện, thẩm
quyền, trình tự thủ tục giải quyết việc ni con nuôi và hệ quả pháp lý của việc
cho nhận con ni dựa trên nền tảng “vì lợi ích tốt nhất” cho trẻ em. Khoản 1
điều 3 Luật nuôi con nuôi quy định: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ
cha, mẹ, con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”.
1.3. Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi
Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi là xây dựng hệ thống
các biện pháp, cơ chế, quản trị nhằm đảm bảo trẻ em được hưởng đầy đủ
quyền cơ bản của mình khi được nhận làm con nuôi từ giai đoạn xác lập, thực
hiện và chấm dứt việc nuôi con nuôi.
1.3.1. Nội dung bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi
Như đã đề cập ở trên, bảo vệ quyền trẻ em là việc được thực hiện liên tục
ở mọi quá trình từ khi xác lập đến khi thực hiện và chấm dứt việc nhận nuôi.
- Bảo vệ quyền trẻ em khi xác lập quan hệ nuôi con nuôi
Bảo đảm quyền của trẻ em được nhận làm con ni có vai trị vơ cùng
quan trong. Bởi lẽ, ni con ni là hành vi xác lập quan hệ cha, mẹ và con
lâu dài, bền vững được xây dựng trên cơ sở tình cảm, sự ni dưỡng vì lợi ích
tốt nhất cho trẻ được nhận nuôi. Nuôi con nuôi không những mở ra một cơ
hội sống tốt đẹp hơn cho các trẻ em có hồn cảnh đặc biệt: bị bỏ rơi, mồ cơi,
hoặc trẻ em tuy có cha mẹ đẻ họ hàng nhưng khơng ai có khả năng đủ điều
kiện ni dưỡng tốt. Quan hệ ni con ni cịn là một trong những biện pháp
thiết yêu phản ánh mức độ thực thi, bảo đảm quyền con người, tính nhân văn
của mỗi quốc gia. Vì vậy, ngay từ giai đoạn bắt đầu xem xét giải quyết việc
nuôi con nuôi cần sàng lọc kỹ lưỡng, phát hiện và ngăn chặn kịp thời với
những hành vi sai phạm, xâm hại trực tiếp tới quyền lợi của trẻ em. Việc bảo
đảm tốt quyền được nhận làm con ni của trẻ em chính là bước nền tảng đầu
14
tư và phát triển cho chất lượng cuộc sống cho trẻ em có một gia đình thay thế
phù hợp và giúp cho trẻ được chăm sóc, ni dưỡng, phát triển tồn diện về
thể lực và trí tuệ, giúp cho thế hệ tương lai trở thành người có ích cho xã hội.
Tùy thuộc vào từng điều kiện hồn cảnh mà có hình thức ni con ni
khác nhau. Tuy nhiên, để việc nuôi con nuôi được thực hiện trọn vẹn và được
bảo hộ thì việc ni con ni phải được thực hiện, đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo Luật ni con ni 2010. Chỉ sau khi hồn tất các
thủ tục và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trao Giấy chứng nhận nuôi con
nuôi và tổ chức giao nhận con ni thì quan hệ ni con ni mới được thiết
lập và các bên mới phát sinh quyền và nghĩa vụ với nhau. Từ đó, các cơ quan,
tổ chức xã hội mới có đầy đủ cơ sở pháp lý để thực hiện việc bảo đảm quyền
trẻ em được thực hiện; nhà nước mới có thể bảo hộ quyền và nghĩa vụ pháp lý
giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và những người liên quan khác mới phát sinh
theo quy định của pháp luật có liên quan.
- Bảo vệ quyền trẻ em trong q trình thực hiện quan hệ ni con ni
Theo dõi tình hình phát triển của trẻ em là một trong những nguyên tắc
cơ bản của việc nuôi con nuôi nhằm bảo vệ quyền trẻ em được thực thi đúng
đắn. Theo dõi tình hình phát triển của trẻ em nhằm vì lợi ích tốt nhất của trẻ
em, bảo vệ trẻ em bị phân biệt đối xử, bị kỳ thị, bị xao nhãng, bị lợi dụng
nhằm trục lợi cá nhân. Việc bảo vệ quyền trẻ em trong quá trình thực hiện
quan hệ nuôi con nuôi là việc vô cùng cần thiết, đặc biệt đối với trẻ em được
nhận nuôi ở nước ngoài. Bộ Tư pháp gửi Quyết định cho trẻ em làm con ni
nước ngồi cho Bộ Ngoại giao để thông báo cho cơ quan đại diện của Việt
Nam ở nước ngoài về việc trẻ em được nhận làm con nuôi để thực hiện biện
pháp bảo hộ trẻ em trong trường hợp cần thiết [48, Điều 37, Khoản 5]. Quy
định này nằm duy trì quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích của
trẻ được nhận làm con nuôi được đảm bảo nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục tốt.
15
Thời điểm thiết lập mối quan hệ cha mẹ con giữa người nhận nuôi và
con nuôi cũng là lúc hai bên có quyền và nghĩa vụ của mình. Khi đó, hình thức
ni con ni dẫn tới phát sinh đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của cha
mẹ và con giữa người được nhận làm con nuôi, con nuôi có mọi quyền lợi như
con đẻ trong gia đình cha mẹ ni. Dựa trên tinh thần đó nhằm hướng tới bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người nhận con nuôi và người được nhận
làm con nuôi, đồng thời tránh những tranh chấp phát sinh.
- Bảo vệ quyền trẻ em khi chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi
Luật nuôi con ni ghi nhận các dấu hiệu có thể thực hiện chấm dứt
việc nuôi con nuôi tại Điều 13 và Điều 25 như sau: một là: “Con nuôi đã
thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi”; hai là:
“cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi, ngược đãi, hành hạ con nuôi”; ba là:
“vi phạm các hành vi như: lợi dụng ni con ni để trục lợi, bóc lột sức lao
động, xâm hại tình dục, bắt cóc, mua bán trẻ em,…”. Theo quy định tại Điều
26 Luật nuôi con ni thì nếu có một trong những dấu hiệu nêu trên thì cha
mẹ ni, con ni đã thành niên, cha mẹ đẻ, hoặc người giám hộ của con
nuôi, Cơ quan lao động thương binh xã hội, Hội liên hiệp phụ nữ,… đều có
quyền u cầu chấm dứt việc ni con nuôi.
Thực tế, khi chấm dứt quan hệ cha mẹ và con nuôi trẻ em ở trong thế bị
động, và hồn tồn khơng nơi nương tựa, có sự tác động mạnh về tâm lý,
quyền tài sản của trẻ bị tước đoạt và một trong những mối quan tâm hàng đầu
của đứa trẻ là cuộc sống tiếp theo đó như thế nào? Vì vậy cần hạn chế tối đa
việc chấm dứt ni con ni, và chỉ khi quyền và lợi ích của trẻ em bị xâm
phạm nghiêm trọng thì quan hệ nuôi con nuôi cần phải chấm dứt và phải được
bảo đảm về quyền nhân thân và quyền tài sản của trẻ em đó.
Tuy nhiên, vấn đề về các căn cứ để chấm dứt, giải quyết và hệ quả pháp
lý của việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi chưa được quy định cụ thể, rõ
16
ràng, dẫn đến nhiều tranh chấp hoặc quyền và lợi ích của trẻ được nhận nuôi
bị xâm phạm. Nhưng dù giải quyết vấn đề như thế nào thì việc chấm dứt quan
hệ nuôi con nuôi cần đảm bảo cho đứa trẻ ln được chăm sóc, ni dưỡng và
sống trong mơi trường lành mạnh, được bảo vệ, được yêu thương.
1.3.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi
Về mặt xã hội, việc bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện tình yêu thương, tương thân tương ái
phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa gia đình của dân tộc
ta. Qua việc nuôi con nuôi, đặc biệt đối với những trẻ em có hồn cảnh đặc
biệt như trẻ em bị mồ côi, bị bỏ rơi, bị tật nguyền, trẻ em mắc bệnh hiểm
nghèo… đã làm thay đổi cơ bản số phận của các em, giúp cho các em được
sống trong môi trường gia đình an tồn, thuận lợi để phát triển hài hòa cả về
thể chất và tinh thần, nhằm hướng tới những giá trị đạo đức tốt đẹp “chân –
thiện – mỹ” [34, tr.38]. Đây là hành động thể hiện tinh thần nhân văn cao đẹp
giữa những người không cùng huyết thống, sự tiến bộ của nhận thức, góp
phần tiến đến cơng bằng xã hội, xóa dần khoảng cách giàu nghèo để con
người có thể xích lại gần nhau hơn.
Đối với nhà nước, việc việc bảo vệ quyền trẻ em được nhận nuôi sẽ
làm giảm thiểu, khắc phục, ngăn chặn tình trạng trẻ em bị bỏ rơi, bị xao
nhãng, trẻ em lang thang, bị bóc lột sức lao động, bị buôn bán, bạo lực…
khỏi con đường tội lỗi, lang thang cơ nhỡ, mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật. Vì vậy, bảo vệ quyền trẻ em được nhận ni cũng là góp phần bảo
đảm ổn định trật tự xã hội và phát triển bền vững. Hơn nữa, việc nhận con
ni sẽ làm giảm gánh nặng tài chính kinh tế cho ngân sách Nhà nước tại
các cơ sở bảo trợ xã hội mà vẫn đảm bảo lợi ích của trẻ em khi được sống
trong gia đình thay thế.
Đối với trẻ em khi được nhận nuôi đã mở ra cuộc sống mới cho các em
17
được sống trong gia đình an tồn, lành mạnh, được u thương, ni dưỡng
và giáo dục tốt trong gia đình đúng nghĩa, được hòa nhập với cộng đồng và cơ
hội phát triển tài năng của mình. Đối với những trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo,
trẻ em bị tàn tật…, các em có cơ hội được chữa trị, phục hồi chức năng và
điều kiện sống tốt hơn, được kéo dài sự sống, và sống có ích hơn.
Đối với người nhận ni cũng thỏa mãn những lợi ích, nhu cầu chính
đáng của mình. Đặc biệt, trong thời đại hiện nay, rất nhiều cặp vợ chồng vô
sinh, hiếm con; những phụ nữ đơn thân rất cần nhận ni con ni để có cơ
hội làm cha, làm mẹ một cách hợp pháp.
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc nuôi con nuôi
Việc bảo vệ trẻ em trong việc nhận nuôi con nuôi bị chi phối, chịu ảnh
hưởng của rất nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố chủ quan và cả yếu tố khách quan.
1.3.3.1. Các yếu tố khách quan
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến việc nuôi con nuôi bao gồm yếu
tố tự nhiên và yếu tố xã hội.
Yếu tố tự nhiên: là sự tác động của các hiện tượng tự nhiên tác động
tới cuộc sống của con người gây ra hậu quả trực tiếp tới cuộc sống của con
người, và ảnh hưởng nghiêm trọng tới trẻ em. Có thể là các thảm họa tự
nhiên, thiên tai, dịch bệnh,… khiến cho cuộc sống của trẻ em lâm vào tình thế
cùng cực, mất đi cha mẹ, khơng cịn người thân thích, cuộc sống của các em
khơng cịn nơi nương tựa, khơng nhà cửa, khơng có cơm ăn, áo mặc, các em
khơng thể sống cuộc sống bình thường như các trẻ em khác do bị tàn tật, bệnh
dịch… Các em sinh ra đã có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, là nạn nhân của
những thảm họa thiên nhiên, vì vậy, việc ni con ni là nghĩa cử cao đẹp, là
biện pháp tối ưu để giúp các em có mái ấm gia đình, được quan tâm, bảo vệ
như những trẻ em khác.
18