Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Luận văn thạc sĩ triết học “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ở Quảng Nam hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.88 KB, 100 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đường lối cách mạng Việt Nam, Đảng ta khẳng định: con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đảng chủ
trương lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững. Quan điểm này đã đặt ra cho quá trình phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta nhiều nhiệm vụ to lớn, đặc biệt là việc chăm lo giáo
dục thế hệ trẻ, trong đó giáo dục đạo đức đóng vai trò quan trọng. Thông qua
giáo dục, con người sẽ học cách điều chỉnh hành vi, hoàn thiện dần nhân
cách. Đặc biệt, đạo đức truyền thống có vai trò quan trọng trong việc giáo dục
thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước.
Trong lịch sử phát triển của dân tộc, những giá trị đạo đức truyền thống
đã làm nên cốt cách, tinh thần và sức mạnh Việt Nam. Những giá trị đạo đức
truyền thống tuy mang tính ổn định, bền vững nhưng không phải là nhất
thành, bất biến mà luôn vận động, biến đổi cùng với sự vận động, biến đổi của
lịch sử. Khi lịch sử bước sang một thời kỳ mới thì những giá trị đạo đức
truyền thống cũ lại được thẩm định, chắt lọc và đổi mới cho phù hợp. Đồng
thời, những giá trị mới dần được hình thành làm cho hệ thống giá trị truyền
thống của dân tộc ngày càng phong phú.
Hiện nay, những tác động đa chiều của nền kinh tế thị trường đòi hỏi
chúng ta một mặt, phải quan tâm tới phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra cuộc
sống đầy đủ cho nhân dân, mặt khác duy trì và phát huy giá trị đạo đức truyền
thống, đặc biệt cho thế hệ trẻ. Trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế,
thanh niên, sinh viên đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng
phải sẵn sàng đối mặt với những thách thức, khó khăn. Việc tiếp thu những
thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới và mở rộng giao lưu hội


2



nhập quốc tế đã giúp thanh niên, sinh viên có nhận thức, tư duy phát triển, thị
hiếu thẩm mỹ nâng lên. Tuy nhiên, quá trình giao lưu hội nhập cùng với việc
xây dựng nền kinh tế thị trường cũng là mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối sống
ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang từng
ngày, từng giờ tác động đến đời sống tinh thần phá vỡ nhiều nét đẹp của văn
hóa truyền thống. Mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra một bộ phận không
nhỏ lớp người trong xã hội nói chung, một bộ phận thanh niên, sinh viên nói
riêng có lối sống chạy theo đồng tiền, buông thả, quay lưng với văn hóa, với
truyền thống dân tộc.
Trước những thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội, thang giá trị đạo đức
của con người cũng có nhiều biến đổi theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.
Bên cạnh việc đổi mới nội dung, phương pháp, chương trình của một số môn
học, hình thức dạy và học cũng từng bước được cải tiến, hình thức đào tạo
ngày một đa dạng và phong phú hơn thì việc nâng cao công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cần được quan tâm một cách đúng mức
như nó cần phải có.
Hiện nay, hầu hết sinh viên vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp của cha ông
ta như yêu nước, đoàn kết, tôn sư trọng đạo, hiếu học, kính thầy, yêu bạn, lối
sống giản dị, chăm chỉ. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên
chỉ quan tâm đến bản thân và nhu cầu trước mắt, sống thực dụng, kém ý chí
vươn lên, học đòi lối sống xa hoa, hưởng thụ, thiếu trung thực trong học tập,
tha hóa nhân cách, sa vào tệ nạn xã hội. Thực tế này đòi hỏi cần phải tăng
cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên, tạo môi trường và
khích lệ sinh viên tham gia xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, phòng
chống các tệ nạn, định hướng để sinh viên phấn đấu rèn luyện theo chuẩn mực
đạo đức xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Giáo dục giá trị đạo đức



3

truyền thống cho sinh viên ở Quảng Nam hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ.
Với mục đích nghiên cứu một cách tổng thể và đề xuất những giải pháp cơ
bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Quảng Nam trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và từ thực trạng giáo dục đạo đức truyền
thống cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng ở Quảng Nam, đề tài xây
dựng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho sinh viên Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu vấn đề lý luận chung về đạo đức và giáo dục đạo
đức.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng nhận thức và công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên ở Quảng Nam.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho sinh viên Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lý luận chung về đạo đức và giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống cho sinh viên Quảng Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên
ở Quảng Nam từ nay đến năm 2020 (dự kiến khảo sát sinh viên từ 3 trường Đại
học Quảng Nam, Trường Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật Quảng Nam và Trường
Cao đẳng Y tế Quảng Nam)
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Triết học duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã



4

hội và ý thức xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin; Các quan điểm chỉ đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của phép biện
chứng duy vật, luận văn sử dụng các phương pháp: lịch sử và lôgíc, phân tích,
tổng hợp, khái quát hóa, điều tra xã hội học … nhằm thực hiện mục đích và
nhiệm vụ đặt ra.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 3 chương, 7 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Đạo đức và giáo dục đạo đức là vấn đề từ lâu luôn được sự quan tâm của
các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý, nhà nghiên cứu và của toàn xã hội. Đã có
nhiều công trình, bài viết của nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về
đạo đức và giáo dục đạo đức.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về đạo đức và giá trị truyền thống
đạo đức đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Trong đó có các tác phẩm
tiêu biểu sau:
“Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của Trần Văn
Giàu (chủ biên), (1980), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác giả đã phân tích
các giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước,
cái làm nên cốt cách, tinh thần Việt Nam.
Tác giả Phạm Minh Hạc (1996), với công trình “Phát triển giáo dục,
phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội. Đã làm rõ vai trò quan trọng của giáo dục – đào tạo trong việc
phát triển con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây
dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Việt Nam để



5

phục vụ hiệu quả việc phát triển con người.
“Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá” của
Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), (2002), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã làm rõ nhiều vấn đề về giá trị truyền thống
dân tộc và những vấn đề đặt ra trong xu thế toàn cầu hóa; việc gìn giữ và phát
huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
“Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” của TS. Trịnh Duy Huy (2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đã phân tích tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức, nêu lên
được thực trạng của đạo đức xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta. Qua đó, tác giả đã đưa ra các giải pháp mang tính định
hướng đối với việc xây đựng đạo đức mới trong điều kiện hiện nay.
“Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”
của TS. Lê Thị Tuyết Ba (2010), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác giả đã
phân tích rõ quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về ý thức đạo đức và vai
trò của ý thức đạo đức; đặc biệt tác giả đã làm rõ những biến đổi của ý thức
đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường và đưa ra các giải pháp mang tính
định hướng nhằm xây dựng ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường
ở nước ta.
“Mấy vấn đề về đạo đức học Mácxít và xây dựng đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS. Nguyễn Thế Kiệt
(2012), Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Tác giả đã khẳng định vai
trò to lớn của đạo đức mới trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; làm rõ sự
biến đổi thang giá trị đạo đức dưới tác động của kinh tế thị trường ở Việt
Nam, sự cần thiết phải có những giải pháp mang tính định hướng nhằm xây
dựng đạo đức mới gắn liền với việc đấu tranh chống lại sự thoái hóa biến chất
về đạo đức, lối sống hiện nay.



6

Ngoài ra, còn có các công trình “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Nguyễn Trọng Chuẩn,
Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Qúy (Đồng chủ biên) (2001), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội; Nguyễn Duy Qúy (2006), “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay, vấn
đề và giải pháp”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Lý (2013),
“Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật,
Hà Nội … đã đề cập đến vấn đề tiếp thu, kế thừa và phát triển các giá trị đạo
đức truyền thống trong điều kiện mới.
Các đề tài luận văn, luận án viết về đạo đức sinh viên như: Luận văn thạc
sĩ triết học của Vũ Thanh Hương (2004),“Đạo đức sinh viên trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp (qua khảo
sát một số trường Đại học và Cao đẳng ở Hà Nội); Luận án tiến sĩ của Võ
Minh Tuấn (2004), “Ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay”, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn; Đề tài cấp bộ của Huỳnh Văn Sơn (2009), “Sự
lựa chọn các giá trị đạo đức và nhân văn trong định hướng lối sống của sinh
viên”. Luận án tiến sĩ của Phạm Huy Thành (2014),“Giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu
vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”. Các đề tài trên đã
phân tích làm rõ thực trạng của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống hiện nay.
Qua đó, đề xuất các quan điểm định hướng và một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay.
Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức
truyền thống cho thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay đăng trên các Tạp chí
Triết học, Kỷ yếu hội thảo khoa học như: “Bảo vệ giá trị truyền thống dân
tộc” (1994) của Nguyễn Tài Thư, Tạp chí Triết học, số 6; Tạp chí triết học, số
5; Nguyễn Văn Huyên (1998), “Giá trị truyền thống, nhân lõi và sức sống



7

bên trong của sự phát triển đât nước, dân tộc”, Tạp chí Triết học, số 4; “Vấn
đề bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống trong nền kinh tế thị trường Việt
Nam”(1999) của TS. Lê Thị Tuyết Ba, Tạp chí Triết học, số 1; “Thực trạng
giáo dục giá trị truyền thống cho học sinh THPT qua hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp”(2003) của Đặng Thúy Anh, Tạp chí Triết học, số 3;
“Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay” của TS. Lê Thị Tuyết Ba (2003), Tạp chí Triết học, số 10; “Giá trị
đạo đức truyền thống - Động lực tinh thần cho phát triển kinh tế” (2004) của
TS. Lê Thị Tuyết Ba, Kỉ yếu hội thảo Khoa học; “Giáo dục đạo đức cho sinh
viên - yếu tố quan trọng tạo ra sự phát triển bền vững cho xã hội” (2004) của
TS. Trần Hồng Lưu, Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học; “Tác động toàn cầu hoá
đến đạo đức sinh viên hiện nay”(2004) của Võ Minh Tuấn; “Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục thanh niên hiện nay”của PGS.TS. Lê
Hữu Ái, TS. Ngô Văn Hà, TS. Lê Thị Tuyết Ba (2008); “Đạo đức sinh viên
trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay” của Phạm Huy Thành (2010), Tạp chí
Giáo dục lý luận …
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên, từ nhiều góc độ khác
nhau, đã làm sáng tỏ tác động hai mặt của bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế tới sự biến đổi của đạo đức xã hội ở nước ta trong quá trình
đổi mới, đề ra một số phương hướng và giải pháp nâng cao giáo dục giá trị
đạo đức trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu
một cách hệ thống về giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên ở
tỉnh Quảng Nam, đó là lý do tôi chọn đề tài “Giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho sinh viên ở Quảng Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp của
mình.



8

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
1.1. ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
1.1.1. Quan niệm về đạo đức
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề thói (moralis
nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lý” được xem như đồng
nghĩa với đạo đức có gốc từ Hy Lạp là ethisos - lề thói, tập tục. Khi nói đến đạo
đức là nói đến lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với
người trong sự giao tiếp với nhau hằng ngày. Gắn với sự ra đời của Triết học
(philosophia) là sự hình thành Đạo đức học (tiếng Hy Lạp: ethikos, tiếng
latin: ethicus hay ethica) với tư cách là lý luận về đạo đức ra đời từ thời Hy
Lạp cổ đại, khoảng thế kỷ thứ VIII (TrCN).
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
đã xuất hiện từ thời cổ đại ở Ấn Độ, Trung Hoa và đặc biệt là ở Hy Lạp. Từ
trước đến nay khi nghiên cứu về lĩnh vực đạo đức có nhiều cách tiếp cận đạo đức
theo những khuynh hướng khác nhau.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
xuất hiện sớm, được thể hiện trong quan niệm về đạo đức của họ. Đạo đức là
một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại.
“Đạo” có nghĩa là con đường, đường đi. Về sau khái niệm này được vận dụng
trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên, tính quy luật của tự nhiện. “Đức”
dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức tính là biểu hiện của đạo,
là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Có thể nói, đạo đức theo quan niệm của
người Trung Hoa cổ đại chính là những yêu cầu, nguyên tắc do cuộc sống đặt ra



9

mà mỗi người phải tuân theo.
Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
tư tưởng. Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrát là người đặt nền móng đầu tiên
cho khoa học đạo đức. Tuy nhiên, các nhà triết học phương Tây khi nghiên cứu
về đạo đức lại có cách tiếp cận khác nhau như: Aristốt và Platôn khi nghiên cứu
về đạo đức đã quy đạo đức của con người vào “ý niệm siêu cảm giác” hay “ý
niệm của điều thiện”. Hêghen thì cho rằng đạo đức là biểu hiện của “ý niệm
tuyệt đối” hay quy đạo đức vào tình yêu phổ biến như Phoiơbăc. Đuyrinh cho
rằng đạo đức là cái gì đó bất biến, tồn tại vĩnh cửu …
Các nhà triết học trước Mác kể cả triết học phương Đông và phương Tây
khi bàn về đạo đức đã có những đóng góp nhất định, nhưng nhìn chung đều rơi
vào quan điểm duy tâm. Họ không nhìn thấy đạo đức được hình thành trong mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, đó chính là lao động, chính trong lao động
con người có nhu cầu gắn bó với nhau và chính trong mối quan hệ này con
người ý thức đước rằng cần phải làm gì và không làm gì để phù hợp với những
chuẩn mực của cộng đồng, của xã hội. Hạn chế lớn nhất của các nhà triết học
trước Mác là không nhìn thấy được mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội, vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội,
không thấy được cơ sở kinh tế trong các quan hệ đạo đức xã hội.
Khác với tất cả các quan niệm trước đó, C. Mác và Ph. Ăngghen dựa trên
quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã xây dựng một học thuyết
đạo đức có tính cách mạng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định, đạo đức
nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng: trước khi sáng lập các lý luận và
nguyên tắc, bao gồm cả triết học và lý luận học, con người đã hoạt động, tức là
sản xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Xuất phát từ vai trò của
lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người. C. Mác đi



10

đến quan niệm về tính quy định của phương thức sản xuất đối với toàn bộ hoạt
động của con người, của xã hội loài người. Trong lời tựa viết cho tác phẩm “Góp
phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, C. Mác viết: “Phương thức sản xuất đời
sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại tồn tại
của họ quyết định ý thức của họ” [46, tr.15].
Tính lịch sử của đạo đức thể hiện ở chỗ: trong các học thuyết về đạo đức,
có học thuyết chỉ có giá trị thúc đẩy tiến bộ xã hội ở một thời điểm nhất định
nào đó, nhưng cũng có những học thuyết đạo đức có thể có giá trị lâu dài đối
với sự phát triển xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều
có đạo đức riêng, phản ánh những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí
giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế mà trong đó, người ta tiến
hành sản xuất và trao đổi.
Tuy nhiên, thông qua tính lịch sử và tính giai cấp của đạo đức, người ta
tìm thấy những giá trị đạo đức tương đối bền vững có tính phổ biến cho một
dân tộc, thậm chí cho cả nhân loại trong mọi thời kỳ lịch sử.
Như vậy, các hiện tượng đạo đức ở các thời đại khác nhau có tính chất
khác nhau, trong xã hội có giai cấp thì đạo đức có tính giai cấp. Cho nên,
không thể coi đạo đức là nhất thành, bất biến, vĩnh viễn như lý thuyết của một
số nhà đạo đức trước kia đề ra. Như vậy, sự phát sinh và phát triển của đạo
đức xét đến cùng là một quá trình do sự phát triển của phương thức sản xuất
quyết định.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, phán ánh tồn tại xã hội, phán ánh hiện thực đời sống xã hội.
Ngày nay, đạo đức được hiểu là một trong những phương thức cơ bản



11

điều tiết chuẩn mực hoạt động của con người, là một hình thái ý thức xã hội,
là một dạng của quan hệ xã hội (quan hệ đạo đức) là đối tượng nghiên cứu
của đạo đức học.
Đến nay, các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm khác nhau về đạo
đức. Trong Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin của tập thể các nhà khoa học
ở Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng:
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên
tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ửng
xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng
được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội” [25, tr.8].
Theo định nghĩa này thì đạo đức có các đặc trưng sau:
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài
người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người: phong
tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức … Đối với đạo đức, sự đánh giá
hành vi con người theo khuôn khép chuẩn mực và qui tắc đạo đức biểu hiện
thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa.
Bất kỳ trong thời đại lịch sử nào, người ta cũng đều được đánh giá như vậy.
Các khái niệm thiện ác, khuôn khép và qui tắc hành vi của con người thay đổi
từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác. Và trong xã
hội có giai cấp thì bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định.
Những khuôn khép (chuẩn mực) và qui tắc đạo đức là yêu cầu của xã hội
hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi mỗi cá nhân. Những chuẩn
mực và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay một giai
cấp, dân tộc thừa nhận. Do vậy, sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện
và xét về bản chất, đạo đức là sự lựa chọn của con người.



12

Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Đạo đức là một hiện tượng xã hội,
mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt. Sự hình thành phát triển và
hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện
của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức
phù hợp với sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy có tính tích cực, mang tính
nhân đạo. Ngược lại, thì hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, phản
nhân đạo.
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, một trong những giá trị
tinh thần mà xã hội loài người đã sáng tạo ra. Đó là một hệ thống chuẩn mực,
quan niệm, giá trị và nguyên tắc được hình thành trong đời sống xã hội nhằm
điều chỉnh hành vi của con người, qua đó điều chỉnh mối quan hệ giữa người
này với người khác, giữa cá nhân với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, truyền thống, tập quán và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức là một
giá trị bền vững, là chuẩn mực cơ bản và là thành phần nền tảng của sự phát
triển và hoàn thiện nhân cách. Vai trò của đạo đức với sự phát triển nhân cách
con người đã khách quan hóa tầm quan trọng của giáo dục đạo đức đối với sự
phát triển nhân cách của sinh viên.
1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống
Giá trị theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu nó là cái làm cho một
khách thể nào đó có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ thể, được mọi người
thừa nhận. Người ta có thể phân chia giá trị thành: giá trị vật chất, giá trị tinh
thần, giá trị riêng, giá trị chung, giá trị xã hội.
Giá trị đạo đức với tư cách là một yếu tố cấu thành của hệ thống các giá
trị tinh thần của đời sống xã hội xác định là những chuẩn mực xã hội, những
khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa
hành vi của con người. Là một trong những phương thức điều chỉnh hành vi

con người trên cơ sở tự nguyện, tự giác. Giá trị đạo đức gắn với nhu cầu điều


13

chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài
hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Theo giáo sư Huỳnh Khải Vinh “giá
trị đạo đức biểu hiện ở những chuẩn mực quy định mối quan hệ giữa người –
người với tự nhiên và xã hội (gia đình cộng đồng…) trên tinh thần yêu thương
hay thù hận, tôn trọng hay không tôn trọng, sự phát triển hay kìm hãm tài
năng, tự do và hạnh phúc” [66, tr. 60].
Bản thân giá trị đạo đức xét theo chiều dài thời gian có thể phân thành
giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Mỗi dân tộc đều có truyền thống của
mình do lịch sử để lại. Truyền thống là điều kiện để duy trì và phát triển cuộc
sống của cộng đồng. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển của mỗi dân tộc.
Từng dân tộc khác nhau có truyền thống khác nhau. Truyền thống dân tộc là
những đức tính, thói quen, những phong tục tập quán được đông đảo thừa
nhận đã trở nên ổn định và ăn sâu vào tâm lý, tập quán xã hội từ thế hệ này
nối tiếp thế hệ khác của dân tộc.
Truyền thống vừa mang tính cộng đồng vừa mang tính giai cấp. Trong xã
hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều góp phần mình tạo dựng truyền thống của
dân tộc, quốc gia. Trong truyền thống của mỗi dân tộc có những truyền thống
tốt và cũng có những truyền thống xấu mà tiêu chuẩn đánh giá là nó có đóng
góp vào sự tiến bộ xã hội, có phù hợp với quy luật khách quan hay không.
Nói cách khác, giá trị truyền thống là những truyền thống nào đó đã có sự
đánh giá, đã được thẩm định nghiêm ngặt của thời gian, đã có sự chọn lọc, sự
phân định và sự khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng đồng
trong những giai đoạn nhất định.
Giá trị đạo đức truyền thống là toàn bộ những tư tưởng, tình cảm,
những chuẩn mực, quy tắc, phong tục, tập quán đạo đức được truyền từ đời

này sang đời khác và được mọi người hay một cộng đồng người nhất định tự
nguyện noi theo.


14

Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị tinh
thần của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc.
Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân
tộc được xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những
quy tắc giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên.
Nói đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù
của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đã hình thành và
bảo lưu cho đến thời điểm hiện tại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng
đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành
vi giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. Xét trong tương quan với
thế giới và khu vực, đặc biệt là với các dân tộc phương Đông, giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc ta có những nét chung với nhiều dân tộc khác vì các
dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển của mình đều phải giải quyết
những vấn đề chung như: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ổn định và phát triển
đời sống xã hội … Mặt khác, sự giao lưu quốc tế diễn ra thường xuyên ở mức
độ này hay mức độ khác nhất là với các nước gần nhau đã ảnh hưởng đến
nhau khá rõ rệt. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là do cộng đồng
người Việt Nam tạo dựng trong lịch sử phát triển lâu dài trên đất nước Việt
Nam với tất cả các điều kiện lịch sử đặc thù tạo nên bản sắc độc đáo của nó.
Trong suốt lịch sử phát triển của dân tộc, giá trị truyền thống đã có
những lần đối mặt với thách thức của những hệ giá trị khác. Trong thời kỳ
Bắc thuộc, phong kiến phương Bắc đã thực hiện chính sách áp đặt hệ giá trị
nhằm đồng hoá văn hoá, nô dịch nhân dân ta. Khi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ

xâm lược nước ta, hệ giá trị truyền thống lại bị thách thức bởi hệ giá trị của
nền văn minh kỹ thuật phương Tây. Do yêu cầu đấu tranh giành lại và bảo vệ
độc lập dân tộc, các giá trị truyền thống đã có sự biến đổi sâu sắc. Tuy vậy,


15

vẫn có những giá trị tiếp tục được thừa nhận và phát huy, kết hợp với những
giá trị mới phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội. Thực tiễn lịch sử cho thấy
dân tộc nào dung hòa được các giá trị truyền thống và các giá trị hiện đại, hay
nói cách khác, tìm được phương thức biểu hiện mới của giá trị truyền thống
trong thời hiện đại thì sẽ phát triển. Các giá trị truyền thống phải biến đổi phù
hợp với tinh thần thời đại. Trong quá trình biến đổi đó, các giá trị đạo đức
truyền thống được chắt lọc, được kết hợp với các giá trị hiện đại tạo nên một
hệ giá trị mới mang tinh thần thời đại nhưng lại có những đặc điểm riêng của
dân tộc. Từ khi lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hoá dân tộc,
đại chúng, hiện đại, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Việc xác định các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam đã được nhiều
người, nhất là các nhà khoa học quan tâm. Giáo sư Trần Văn Giàu nhấn mạnh
bảy nội dung: “yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người,
vì nghĩa” [24, tr.94].
Giáo sư Nguyễn Hồng Phong cho rằng: "tính cách dân tộc gần như là tất
cả nội dung của giá trị đạo đức truyền thống bao gồm: tính tập thể - cộng
đồng, trọng đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất
khuất và lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, lạc quan” [59, tr.453-454].
Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên công trình Đạo đức mới cho rằng: “trong
những truyền thống quý báu của dân tộc nổi bật lên nhất là truyền thống đạo
đức và khẳng định truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc ta gồm: lòng yêu
nước, truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù, sáng tạo; tinh thần nhân đạo,

lòng yêu thương quý trong con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao
nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc” [34, tr.74-86].
Các giá trị đạo đức tinh thần truyền thống của dân tộc cũng đã được đề
cập đến trong một số văn kiện của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết 9 của Bộ


16

Chính trị “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng” khẳng định:
"Những giá trị văn hóa tinh thần bền vững của dân tộc Việt Nam là lòng yêu
nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể
thương thân", đức tính cần cù vượt khó, sáng tạo trong lao động … Đó là nền
tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát
triển tiến bộ công bằng, nhân ái [19, tr.19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” khẳng định:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình - làng xã - tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính
giản dị trong đời sống [18, tr.56].
Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, Đảng ta ra Nghị quyết số 33NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước. Trong Nghị quyết, khi đề ra những nhiệm
vụ “xây dựng con người phát triển toàn diện”, Đảng ta khẳng định “trọng tâm
là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và
nhân cách”. Điều này cho thấy, “tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc”
được Đảng ta rất coi trọng khi xây dựng con người.
Từ những quan điểm của Đảng và của các nhà khoa học chúng ta có thể

rút ra một số nhận xét:
Một là, trong hệ thống các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta,
giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi bật. Khi đề cập đến các giá trị văn hóa, giá trị
tinh thần truyền thống, hầu hết các ý kiến đều nhấn mạnh giá trị đạo đức.


17

Hai là, trong các giá trị đạo đức truyền thống, chủ nghĩa yêu nước được
khẳng định là cốt lõi, là giá trị định hướng cho các giá trị khác.
Ba là, một số phẩm chất đạo đức như tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái,
đức tính cần cù, tinh thần lạc quan … cũng thường được đề cập và coi đó là
những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc ta.
Dựa vào tiêu chí xác định giá trị, giá trị đạo đức và từ quan điểm của
Đảng ta cũng như của các nhà khoa học có thể khẳng định, các giá trị đạo đức
truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm: chủ nghĩa yêu nước; tinh thần
đoàn kết và ý thức cộng động sâu sắc; lòng thương người sâu sắc; đức tính
cần kiệm; lòng dũng cảm, tinh thần bất khuất, tính khiêm tốn, giản dị, trung
thực, thủy chung, lạc quan, tinh thần hiếu học ...
Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hình thành gắn với điều kiện
lịch sử cụ thể của Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là kết quả và
động lực to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước.
Đồng thời là kết quả của quá trình tiếp thu sáng tạo tinh hoa của nhiều trào
lưu tư tưởng, văn hóa lớn của thế giới để bồi đắp thêm cho những giá trị đạo
đức – văn hóa vốn có của mình.
Trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống dân tộc chủ nghĩa yêu nước
là “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị giá trị” [24, tr.94], là đạo
đức cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, chuẩn mực đạo đức đứng đầu trong
thang bậc giá trị truyền thống.
Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với

Tổ quốc biểu hiện ở khát vọng và hành động tích cực để phục vụ lợi ích của
Tổ quốc và nhân dân. Tình yêu là tình cảm phổ biến của nhân dân các dân tộc
trên thế giới. V.I. Lênin đã từng khẳng định: “chủ nghĩa yêu nước là một trong
những tình cảm sâu sắc nhất đã được củng cố qua hàng năm, hàng nghìn năm


18

tồn tại của các tổ quốc biệt lập” [38, tr.226]. Song sự hình thành sớm hay
muộn, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện của nó tùy thuộc vào
điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc.
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân ta từ xưa đến nay. Lòng
yêu nước có nguồn gốc sâu xa từ ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình
- làng xã - Tổ quốc. Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên
trên hết, là chăm lo xây dựng quê hương, đất nước, sẵn sàng chống đô hộ và
xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc.
Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự
nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử đau
thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lịch sử mấy nghìn năm của dân
tộc Việt Nan là lịch sử đấu tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập tử tay kẻ thù
xâm lược. Chính vì vậy, tinh thần yêu nước đã ngầm sâu vào tình cảm, vào tư
tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức
mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác
cho dù chúng có hùng mạnh đến đây. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh tổng kết: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh
thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước” [52, tr.171].

Lịch sử là một minh chứng hùng hồn nhất cho những khẳng định trên.
Từ thế kỷ thứ III tr.CN, dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lược đầu tiên của bọn
phong kiến phương Bắc do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 tr.CN đến năm
938, nước ta tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc (tổng cộng 1117
năm). Đây là thời kỳ đầy máu và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện


19

sức mạnh quật cường, sự vươn lên thần kỳ của dân tộc ta và kết thúc với
chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các chiến
thắng vang dội khác: Lê Hoàn đánh tan quân Tống, nhà Trần ba lần đánh bại
quân Nguyên - Mông, Lê Lợi đánh bại quân Minh, Nguyễn Huệ đánh bại
quân Thanh ... Rồi đến những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ. Trong những cuộc chiến tranh tàn khốc đó, lòng yêu
nước ở mỗi người dân Việt Nam đã được thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì
nước, sẵn sàng đặt lợi ích cúa quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của
bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất
nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
Hình thành từ sớm, lại được thử thách, khẳng định qua bao nhiêu thăng
trầm của lịch sử, được bổ sung, phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát
triển của dân tộc và thời đại, tinh thần yêu nước đó trở thành chủ nghĩa yêu
nước, trở thành một trong những giá trị truyền thống cao quý nhất, bền vững
nhất của dân tộc ta. Yêu nước đã thực sự trở thành một thứ vũ khí tinh thần.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của
quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy.
Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của
chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày.
Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức lãnh đạo, làm cho tinh
thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu

nước, công việc kháng chiến” [ 52, tr.38-39].
Theo Giáo sư Trần Văn Giàu,“tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình
cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam" và “chủ
nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại
đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu độ đầy đủ và tập trung nhất, hơn
bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của


20

người Việt Nam.” [24, tr.100-101].
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, thử thách và
khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung và phát triển
qua từng thời kỳ là một trong những giá trị truyền thống cao quý và bền vững
nhất của dân tộc ta.
Truyền thống yêu nước của dân tộc ta bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với
lòng thương yêu, quý trọng con người nhất là người lao động. Điều dễ nhận
thấy về biểu hiện lòng nhân ái của dân tộc ta được bắt nguồn từ một chữ
“tình” - Trong gia đình đó là tình cảm đối với đấng sinh thành “Công cha như
núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, tình anh em “như
thể tay chân”, tình nghĩa vợ chồng “đầu gối, tay ấp”; rộng hơn là tình làng
xóm láng giềng và bao trùm hơn cả là tình yêu thương đồng loại “Nhiễu điều
phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng” … Lòng
yêu thương và sống có nghĩa tình còn được biểu hiện trong sự tương trợ, giúp
đỡ nhau; sự khoan dung, vị tha dành cho cả những người đã từng lầm đường
lạc lối biết lấy công chuộc tội. Không chỉ biểu hiện trong đời sống hàng ngày,
tình yêu thương, sự khoan dung, độ lượng với con người của dân tộc Việt
Nam còn được nâng lên thành những chuẩn tắc trong các bộ luật của Nhà
nước; đồng thời là cơ sở của tinh thần yêu chuộng hoà bình và tình hữu nghị
với các dân tộc trên thế giới. Trong lịch sử, nhân dân ta luôn đề cao và coi

trọng việc giữ tình hoà hiếu với các nước, tận dụng mọi cơ hội có thể để giải
quyết hoà bình các xung đột, cho dù nguyên nhân từ phía kẻ thù ...
Lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam được kết tinh rõ nét trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, Người là hiện thân của lòng nhân ái. Tình yêu thương con
người của Hồ Chí Minh là một tình cảm rộng lớn, trước hết là dành cho người
cùng khổ, cho nhân dân bị áp bức, bóc lột. Tình yêu thương đó đã thôi thúc và
trở thành một ham muốn tột bậc ở Người là làm cho nước nhà hoàn toàn độc


21

lập, nhân dân được tự do, ai cũng có cơm an, áo mặc, ai cũng được học hành.
Người đã hi sinh tất cả vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh còn được thể hiện trong mối
quan hệ với bạn bè, đồng chí, với tất cả mọi người. Lòng yêu thương con
người của Hồ Chí Minh là vô hạn không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà
còn đối với nhân dân lao động trên thế giới.
Ngày nay, truyền thống nhân nghĩa đó không bị mai một hay mất đi,
ngược lại tiếp tục được khẳng định và củng cố khi Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta thực hiện đường lối nhất quán “Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Lấy tình thương yêu làm cơ sở cho cách ứng xử ở đời là triết lý sống của
người Việt Nam.
Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng sâu sắc, là một giá trị được tạo nên
từ trong chiều sâu văn hóa dân tộc, là nhân tố tinh thần hợp thành động lực
thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Ý thức đầu tiên về sự cố kết cộng đồng của người Việt Nam đã được dân
gian thần thánh hóa bằng thiên truyền thuyết đẹp với hình ảnh “bọc trăm
trứng” để lý giải cùng chung nguồn cội con cháu Rồng Tiên - Truyền thuyết
Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trải qua thực tiễn trong cuộc sống lao động cũng

như chiến đấu, tinh thần đoàn kết dân tộc bền chặt càng được đề cao và đã trở
thành một triết lý nhân sinh sâu sắc.
Tinh thần đoàn kết bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước và là biểu hiện của
chủ nghĩa yêu nước. Nhờ đoàn kết cha ông ta đã tạo nên sức mạnh tổng hợp
của cả cộng đồng dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết là điều
kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc, nhất là khi đất nước có giặc ngoại xâm. Đoàn
kết đã giúp cho nhân dân ta vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thiên
nhiên, phát triển sản xuất để phục vụ cuốc sống. Cha ông ta đã nhận thức sâu


22

sắc rằng “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”; “một cây làm chẳng nên non, ba
cay chụm lại thang hòn núi cao”. Tinh thần đoàn kết toàn dân là nguồn sức
mạnh to lớn để nhân dân ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Ý thức công đồng, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta là một điểm tựa
tinh thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc cũng như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công,
thành công, đại thành công” [56, tr.607].
Trong 87 năm qua kể từ khi có Đảng lãnh đạo, thực tiễn cách mạng Việt
Nam thêm một lần nữa đã thể hiện sức sống kỳ diệu và chứng minh chân lý
đúng đắn về sức mạnh vĩ đại của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh đó
chính là mạch nguồn thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.
Tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm là một giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc ta, được hình thành do điều kiện sản xuất và đấu tranh xã hội
trong lịch sử dân tộc. Cần cù là biểu hiện thái độ của con người trong hoạt
động sáng tạo ra của cải vật chất, tinh thần và các mặt hoạt động khác của con
người. Nó là kết quả và điều kiện không thể thiếu được trong quá trình tồn tại
và phát triển của xã hội loài người. Đối với mỗi người Việt Nam, cần cù,

siêng năng, sáng tạo, tiết kiệm trong lao động là điều phải làm vì có như vậy
mới có của cải vật chất.
Trong lịch sử, nhân dân ta đã tận dụng nhiều yếu tố tự nhiên thuận lợi để
sản xuất và sinh sống. Chính hoàn cảnh sản xuất và đấu tranh xã hội qua bao
đời đã hình thành trong con người Việt Nam đức tính cần cù, tiết kiệm. Trong
điều kiện thiên nhiên Việt Nam vừa hào phóng vừa rất khắc nghiệt, lao động
của con người chủ yếu dựa vào cơ bắp, nếu không cần cù, tiết kiệm thì khó có
thể tồn tại, lại càng không thể nói đến sự phát triển. Sự hình thành một nền
văn minh nông nghiệp trên đất nước ta chính là kết quả của cuộc đấu tranh


23

gay go, quyết liệt của nhân dân ta nhằm khắc phục mặt trái của thiên nhiên để
sản xuất của cải vật chất, bảo đảm sự sống của mình.
Cùng với thiên nhiên khắc nghiệt, các cuộc chiến tranh xâm lược và sự
thống trị của các thế lực bên ngoài đã làm cho nền kinh tế và đời sống của
nhân dân ta bị kéo lùi mà thời gian tính bằng thể kỷ so với sự phát triển bình
thường. Trong lịch sử, các cuộc chiến tranh xâm lược của quân nhà Hán,
Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các thế
lực bành trướng khác đã gây ra vô số tổn thất về tính mạng và tài sản của
nhân dân ta. Dù vậy, trong suốt hành trình lịch sử nhân dân ta vẫn kiên cường
bám đất, bám làng, nhờ đức tính cần cù và tiết kiệm mà nhân dân ta đã vượt
qua mọi khó khăn, trở ngại để từng bước tự khẳng định mình trên con đường
tiến hóa của dân tộc.
Ý thức đề cao lao động chống thói lười biếng đã ăn sâu vào tiềm thức
của người Việt Nam. Thấu hiểu giá trị của sự kết hợp sức lao động và đất đai,
người Việt Nam chú trọng giáo dục, động viên giúp đỡ nhau trong sản xuất,
làm cho “tất đất” trở thành “tấc vàng”. Lao động cần cù là nguồn gốc của mọi
của cải và hạnh phúc.

Cần cù và tiết kiệm là một giá trị đạo đức truyền thống có từ bao đời của
nhân dân ta, nó vừa là điều kiện đảm bảo nhu cầu sống của con người, vừa là
sự thể hiện ý thức trách nhiệm của người Việt Nam trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của mình. Với đức tính cần cù và tiết kiệm, dân tộc Việt
Nam đã không chỉ đứng vững mà còn từng bước khẳng định vai trò, vị thế của
mình trong khu vực và trên thế giới.
Truyền thống hiếu học của người Việt Nam được hình thành từ nhiều thế
hệ là một trong những giá trị truyền thống dân tộc, nó luôn được kế thừa phát
huy. Đảng ta luôn ý thức sâu sắc rằng “giáo dục là quốc sách hàng đầu” là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,


24

hiện đại hóa.
Hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ
xưa tới nay. Ngay từ rất sớm con người đã nhận thức được học hành không
chỉ là quyền lợi mà còn nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Người xưa từng nói:
“Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học, bất tri đạo” (ngọc không mài dũa
thì không thành đồ dùng được, người không học thì không biết đạo).
Lịch sử khoa bảng của dân tộc còn lưu danh những tấm gương sáng ngời
về ý chí và tinh thần ham học: Nguyễn Hiền mồ côi cha từ nhỏ, theo học nơi
cửa chùa, đã trở thành Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử nước ta khi
mới 13 tuổi. Mạc Đĩnh Chi vì nhà nghèo không thể đến lớp, chỉ đứng ngoài
nghe thầy giảng, đêm đến phải học dưới ánh sáng của con đom đóm trong vỏ
trứng, đã đỗ trạng nguyên và trở thành Lưỡng quốc Trạng nguyên (Trung Hoa
và Đại Việt). Đó còn là những tấm gương hiếu học của các bậc hiền tài đáng
kính: Nhà giáo Chu Văn An, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lương Thế
Vinh, nhà bác học Lê Quý Đôn …; là tinh thần của nghị lực phi thường vươn
lên trở thành nhà giáo ưu tú - Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký … Sự hiếu học,

tinh thần ham học hỏi của dân tộc Việt Nam còn được biểu hiện ở thái độ coi
trọng việc học và người có học, tôn trọng thầy cô, kính trọng họ như cha mẹ
của mình “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “Không thày đố mày làm nên”.
Cùng với tiến trình lịch sử dân tộc, dòng chảy của truyền thống hiếu học
ấy với tinh thần “Học! Học nữa! Học mãi!” đã được các thế hệ người Việt
Nam hôm nay tiếp tục phát huy và tỏa sáng. Đó là những tấm gương vượt
khó, học giỏi trên khắp mọi miền của đất nước; từ những nếp nhà trong gia
đình tất cả con cháu đều chăm học và thành đạt như giáo sư Đặng Thai Mai,
giáo sư Đào Duy Anh, giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân … đến những
vận động viên khổ luyện thành tài như kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên, xạ thủ
Hoàng Xuân Vinh, nữ tiến sĩ trẻ tuổi nhất Nguyễn Kiều Liên … Họ đã thực sự


25

là niềm tự hào làm rạng danh đất Việt và tô thắm thêm tinh thần hiếu học của
cha ông.
Tính trung thực là một trong những chuẩn mực đạo đức nằm trong bảng
giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta có truyền thống trung
thực và tổ tiên ta cũng rất coi trọng trung thực và xem nó là một trong những
đức tính đáng quý mà mọi người cần phải có.
Bên cạnh đó, dân tộc Việt Nam còn có nhiều giá trị đạo đức khác tạo nên
cốt cách, tâm hồn con người Việt Nam như: đức tính khiêm tốn, lòng thuỷ
chung, khát vọng và yêu chuộng hòa bình … Những đức tính này không tồn
tại riêng lẻ mà liên quan đến nhau, đức tính này là điều kiện, là biểu hiện của
đức tính kia.
Như vậy, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam là một hệ giá
trị đa dạng và phong phú. Trong đó sợi chỉ xuyên suốt, xâu nối và liên kết các
giá trị đó thành một chỉnh thể đa diện là tinh thần dân tộc, là lòng yêu nước
hết sức đặc trưng của Việt Nam.

1.2. VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG HIỆN NAY
1.2.1. Quan niệm về giáo dục đạo đức
Giáo dục là khái niệm cơ bản quan trọng trong các khoa học nghiên cứu
về con người. Theo Từ điển Tiếng Việt (Trang 345 NXB Đà Nẵng - Viện
Ngôn ngữ học) thì: Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ
thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho
đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất, năng lực theo yêu cầu.
Giáo dục đạo đức là một bộ phận của giáo dục, là quá trình chuyển hóa
những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức
nhân cách cho mỗi người, hình thành ở mỗi người thái độ đúng đắn trong giao
tiếp, ý thức tự giác thực hiện các chuẩn mực của xã hội, thói quen chấp hành


×