Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

(Luận văn thạc sĩ) bảo hiểm y tế tự nguyện trong luật bảo hiểm y tế việt nam 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.39 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ THU HẰNG

BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN
TRONG LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ THU HẰNG

BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN
TRONG LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

Luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu


HÀ NỘI - 2014

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Bùi Thị Thu Hằng

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
1


MỞ ĐẦU

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ

TỰ NGUYỆN

6

VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN

1.1.

Khái niệm về bảo hiểm y tế tự nguyện

6

1.1.1. Quan niệm về bảo hiểm y tế tự nguyện

6

1.1.2. Đặc trưng của bảo hiểm y tế tự nguyện

15

1.1.3. Ý nghĩa của bảo hiểm y tế tự nguyện

16

1.2.


19

Pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện

1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện

19

1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện

21

1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện

23

1.2.4. Vai trò pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện

28

1.3.

30

Khái quát về pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện của một số
nước trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam

1.3.1. Pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện tại Singapore

30


1.3.2. Pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện tại Philippines

32

1.3.3. Pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện tại Cộng hòa Liên bang Đức

34

1.3.4. Pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện tại Cộng hòa Pháp

38

Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ TỰ

43

NGUYỆN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM

2.1.

Lược sử quá trình hình thành và phát triển bảo hiểm y tế tự
nguyện ở Việt Nam

4

43



2.1.1. Giai đoạn từ năm 1992 đến tháng 8/1998

43

2.1.2. Giai đoạn từ năm 8/1998 đến năm 2002

44

2.1.3. Giai đoạn từ 2003 đến tháng 07/2005

45

2.1.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay

46

2.2.

48

Thực trạng pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt Nam
hiện nay

2.2.1. Về đối tượng tham gia BHYTTN

49

2.2.2. Về phạm vi hưởng BHYTTN của người tham gia


51

2.2.3. Về Quỹ bảo hiểm y tế tự nguyện

53

2.2.4. Về trách nhiệm và quyền hạn khi tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện

55

2.2.5. Thành công

60

2.2.6. Hạn chế

66

2.2.7. Nguyên nhân

70

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO

72

HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM

3.1.


Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật bảo

72

hiểm y tế tự nguyện
3.2.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện và

74

giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
3.2.1. Về các quy định của pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện

74

3.2.2. Về nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện

79

KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83

PHỤ LỤC


86

5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASXH

: An sinh xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế

BHYTTN : Bảo hiểm y tế tự nguyện

6


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng thống kê số người tham gia BHYT theo các nhóm


61

bảng
2.1

đối tượng

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Con người là nguồn lực quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước. Việc tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện về
thể chất và tinh thần luôn là một vấn đề được tất cả các quốc gia quan tâm và
xem trọng. Có lẽ vì vậy mà giáo dục và y tế với vai trị của mình đã trở thành
quốc sách hàng đầu trong việc phát triển nguồn lực con người ở các quốc gia.
Trong lĩnh vực y tế, ban đầu, vấn đề chăm sóc sức khỏe, nhu cầu chia sẻ rủi ro
khi bệnh tật là nhu cầu tự phát. Dần dần, nhu cầu này nhận được sự điều tiết
và hỗ trợ từ Nhà nước. Qua thời gian phát triển, vấn đề chăm sóc sức khỏe trở
thành một vấn đề mang ý nghĩa cộng đồng sâu sắc, một chính sách lớn và
quan trọng của Nhà nước. Ngày này, chính sách chăm sóc sức khỏe cộng
đồng được hầu hết các quốc gia trên thế giới thực hiện và ghi nhận chủ yếu
dưới hình thức bảo hiểm y tế (BHYT).
Với nỗ lực đổi mới toàn diện, những năm qua, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có việc
đảm bảo tốt hơn vấn đề an sinh xã hội. Trên cơ sở đổi mới tồn diện, chính
sách BHYT ra đời đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân, đặc biệt là
từ khi Luật BHYT số 25/2008/QH12 được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực

từ ngày 01/7/2009 và được triển khai trên phạm vi toàn quốc từ ngày 01/01/2010.
Luật BHYT được ban hành đã đánh dấu một bước quan trọng trong hệ
thống pháp luật về BHYT, là cơ sở pháp lý cao nhất để thể chế hóa quan
điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chăm sóc sức
khỏe cho người dân theo định hướng công bằng và hiệu quả.
Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện Luật BHYT, bên cạnh những
thành quả đã đạt được vẫn cịn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc, một số

8


vấn đề mới cũng nảy sinh trong thực tiễn triển khai. Một số quy định trong
Luật và các văn bản dưới luật còn thiếu cụ thể, thiếu đồng bộ với một số luật
có liên quan; một số quy định khơng cịn phù hợp với thực tiễn, gây ra những
khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý nhà nước cũng như việc chấp
hành, thực thi pháp luật về BHYT.
Nhận thức được vai trị của chính sách pháp luật BHYT đối với xã hội
và thấy được những tồn tại, vướng mắc của Luật BHYT sau 4 năm thực hiện,
em quyết định chọn đề tài: "Bảo hiểm y tế tự nguyện trong Luật Bảo hiểm y
tế Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình. Mặc dù hiện
nay, chính sách pháp luật BHYT Việt Nam đang hướng tới mơ hình BHYT
tồn dân với mục tiêu từ 01/01/2014 sẽ khơng cịn tồn tại hình thức bảo hiểm
y tế tự nguyện (BHYTTN) nữa. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu về
BHYT của Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới, em nhận thấy hình
thức BHYT này nếu được thay đổi và hồn thiện sẽ vẫn có nhiều ưu điểm và
lợi ích đối với cộng đồng. Do đó em đã lựa chọn đề tài luận văn của mình với
mong muốn tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong quá trình triển khai hình
thức BHYTTN trong thực tiễn để đưa ra những kiến nghị góp phần hồn thiện
mơ hình BHYT ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Bảo hiểm y tế là một chính sách quan trọng trong hệ thống pháp luật
an sinh xã hội (ASXH) ở nước ta. Đây là một vấn đề tuy không mới với nhiều
nước trên thế giới nhưng là một vấn đề vẫn đang trong quá trình tiếp cận ở
nước ta khi lần đầu tiên được ghi nhận dưới hình thức văn bản quy phạm pháp
luật mới cách đây hơn 4 năm. Vấn đề BHYT hiện nay vẫn đang được giới
nghiên cứu quan tâm.
Ở cấp độ nghiên cứu tiến sĩ, có nhiều luận án đề cập đến vấn đề này,
tiêu biểu là luận án "Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam" của nghiên cứu sinh Nguyễn Hiền
Phương, năm 2008 .

9


Ở cấp độ nghiên cứu thạc sĩ, có luận văn "Pháp luật về bảo hiểm y tế,
thực trạng và giải pháp" của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương, năm 2004;
luận văn "Bảo hiểm y tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa" của tác giả Trần Quang Lâm, năm 2006; luận văn "Bảo hiểm y tế ở
Việt Nam hiện nay" của tác giả Vũ Xuân Hiển, năm 2007.
Đối với các bài viết đăng trên tạp chí, có thể kể tên một số bài viết tiêu
biểu như: "Tình hình thực hiện chính sách bảo hiểm y tế và lộ trình tiến tới
bảo hiểm y tế tồn dân" đăng trên Tạp chí Bảo hiểm xã hội, số 7/2004, của
Tiến sĩ Nguyễn Huy Ban; "Bảo hiểm y tế trong hệ thống an sinh xã hội Việt
Nam" đăng trên tạp chí Luật học, số 10/2006, và bài viết "Một số giải pháp cơ
bản hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm y tế ở Việt Nam" đăng trên Tạp chí Bảo
hiểm xã hội, số 4/2008, của Tiến sĩ Nguyễn Hiền Phương; bài viết "Nhìn lại
một số quy định mới sau khi Luật Bảo hiểm y tế đi vào cuộc sống" của tác giả
Phạm Văn Chung, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12/2009.
Nhìn chung, ở các cấp độ nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu và bài viết
về BHYT khá nhiều, tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào chun sâu về

BHYTTN. Chính vì lý do đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài "Bảo hiểm y tế tự
nguyện trong Luật Bảo hiểm y tế Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học
của mình với mong muốn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
BHYTTN nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật BHYT ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý
luận về BHYT và thực trạng pháp luật BHYTTN. Trên cơ sở thực trạng pháp
luật hiện hành ở nước ta về BHYTTN, đưa ra những giải pháp về mặt pháp lý
và tổ chức thực hiện BHYTTN nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của
BHYTTN ở nước ta. Để thực hiện được mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra cho
luận văn là:
Một là, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận cơ bản về BHYT và
BHYTTN như: khái niệm BHYT và BHYTTN, đặc trưng của BHYTTN, ý

10


nghĩa của BHYTTN; khái niệm pháp luật BHYTTN, nguyên tắc điều chỉnh,
nội dung của pháp luật BHYTTN, vai trò của pháp luật BHYTTN.
Hai là, đánh giá thực trạng pháp luật về BHYTTN ở Việt Nam như:
đối tượng tham gia BHYTTN, phạm vi hưởng BHYTTN, Quỹ BHYTTN,
trách nhiệm và quyền hạn khi tham gia BHYTTN. Từ đó, rút ra những hạn
chế, thành công của BHYTTN ở nước ta những năm qua và phân tích ngun
nhân của thực trạng đó.
Ba là, trên cơ sở thực trạng pháp luật, xác định các yêu cầu và phương
hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện BHYTTN ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm y tế nói chung và BHYTTN nói riêng là vấn đề nghiên cứu
mới tại Việt Nam. Với đề tài "Bảo hiểm y tế tự nguyện trong Luật Bảo hiểm
y tế Việt Nam", phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề

pháp lý và thực tiễn về pháp luật BHYTTN ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
đối tượng tham gia BHYTTN, phạm vi hưởng BHYTTN, Quỹ BHYTTN,
trách nhiệm và quyền hạn khi tham gia BHYTTN. Trên cơ sở đó, luận văn
đánh giá ưu điểm, hạn chế trong quy định pháp luật, những thành công và hạn
chế trong thực tiễn thi hành pháp luật về BHYTTN và đưa ra phương hướng
đề hoàn thiện pháp luật BHYTTN ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu biện chứng duy vật và duy
vật lịch sử để nghiên cứu pháp luật BHYT nói chung và pháp luật về BHYTTN
nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đặt pháp luật BHYT và
BHYTTN trong mối liên hệ biện chứng với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội và lịch sử ở Việt Nam; đồng thời có sự so sánh, đánh giá với hình thức
bảo hiểm này ở một số nước có hệ thống ASXH tiên tiến trên thế giới. Trong
trường hợp cụ thể, để làm sáng tỏ vấn đề, tác giả sử dụng phương pháp tổng
hợp, phân tích nội dung, phương pháp thống kê để đưa ra các ý kiến đánh giá,
nhận xét và rút ra kết luận khoa học.

11


6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã có những đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất, luận văn đã trình bày khoa học và có hệ thống những vấn đề
lý luận về BHYT, BHYTTN và pháp luật BHYTTN. Trong đó, luận văn đã trình
bày rõ ràng khái niệm, đặc trưng của BHYT từ nhiều góc độ quan niệm của các
tổ chức trên thế giới như: khái niệm BHYT theo Tổ chức lao động thế giới (ILO),
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế (OECD),
Cơ quan phát triển quốc tế Anh. Từ đó, luận văn đưa ra khái niệm về BHYTTN.
Đồng thời, luận văn giới thiệu tổng quan về pháp luật BHYT bao gồm khái
niệm, nguyên tắc điều chỉnh, nội dung, vai trò của pháp luật về BHYTTN.

Thứ hai, luận văn là làm rõ thực trạng pháp luật về BHYTTN ở Việt
Nam thơng qua việc trình bày, đánh giá hệ thống quy định pháp luật và thực
tiễn BHYTTN hiện nay ở nước ta.
Thứ ba, luận văn trình bày một số quy định của pháp luật về BHYTTN ở
một số quốc gia tiên tiến trên thế giới; trên cơ sở đó, xác định được các yêu
cầu khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật và đề xuất phương hướng cho việc
hoàn thiện pháp luật về BHYTTN ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bảo hiểm y tế tự nguyện và pháp luật
bảo hiểm y tế tự nguyện.
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện và thực tiễn
thực hiện ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
thực thi bảo hiểm y tế tự nguyện ở Việt Nam.

12


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN
VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN

1.1. KHÁI NIỆM VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN

1.1.1. Quan niệm về bảo hiểm y tế tự nguyện
Trong quá trình sinh tồn và trưởng thành của mỗi con người, nhằm
thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu về ăn, ở, mặc, sinh hoạt v.v... con người
phải lao động để làm ra của cải, vật chất cần thiết. Nhưng trong thực tế, không

phải lúc nào con người cũng gặp may mắn, thuận lợi. Con người có thể phải
rơi vào rất nhiều trường hợp khó khăn, trắc trở, rủi ro xảy ra do điều kiện tự
nhiên, môi trường sống hoặc điều kiện xã hội khiến họ bị giảm hoặc mất thu
nhập như ốm đau, bệnh tật, rủi ro tai nạn v.v... Khi rơi vào những trường hợp
này, các nhu cầu của cuộc sống không những giảm đi mà cịn tăng thêm, thậm
chí cịn phát sinh nhu cầu mới như thuốc men, chữa bệnh v.v... Do đó, những
người gặp rủi ro đã khó khăn về tài chính lại càng khó khăn thêm khi phải chi
trả các chi phí y tế, nhiều người cịn buộc phải chấp nhận sự chăm sóc y tế ở
mức hạn chế, tối thiểu, thậm chí là chung sống với bệnh tật. Để giúp mỗi cá
nhân vượt qua những khó khăn để tồn tại và đảm bảo sự phát triển của xã hội,
con người đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau, trong đó tham gia
BHYT được coi là cách giải quyết tốt nhất bởi đây là một loại hình hoạt động
có tính nhân văn sâu sắc nhằm chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người dân.
Bảo hiểm y tế xuất hiện lần đầu tiên dưới hình thức bảo hiểm ốm đau
và thương tật cho công nhân của các chủ doanh nghiệp. Vào thời Trung cổ, tại
Tây Âu, một số các hiệp hội đã tự nguyện hỗ trợ các thành viên của mình
trong thời gian có nhu cầu y tế dưới hình thức hỗ trợ thu nhập. Các nước châu
Âu phương Tây sau đó dần hình thành nhiều hiệp hội cung cấp BHYT, trong
đó có áp dụng quy tắc liên kết trên cơ sở của nghề nghiệp, những người khác

13


về nơi làm việc, nơi cư trú hoặc dân tộc. Đến thế kỷ 19, q trình cơng nghiệp
hóa dẫn đến sự tăng trưởng và phát triển của tổ chức người lao động đã khiến
cho giới cầm quyền phải thay đổi chính sách cho người lao động như tuần làm
việc ngắn hơn, bảo hiểm thất nghiệp, lương hưu và bảo hiểm về sức khỏe.
Năm 1850, dưới thời thủ tướng Bismark của Đức đã ban hành chính sách
BHYT bắt buộc. Đây là hình thức BHYT đầu tiên trên thế giới và nó được
hình thành trong mơ hình bảo hiểm xã hội. Ban đầu, hình thức BHYT này chỉ

được áp dụng cho những người lao động trong các trường hợp ốm đau do rủi
ro, bệnh tật. Sau đó, cùng với sự tiến bộ của mơ hình này, phạm vi đối tượng
được bảo vệ không chỉ dừng lại ở người lao động trong quan hệ lao động mà
được mở rộng đối với mọi thành viên trong xã hội. Mơ hình BHYT của Đức
cũng dần dần lan rộng ra các quốc gia khác và được coi là biện pháp bảo vệ
hữu hiệu trước những rủi ro bệnh tật. Một số quốc gia đã áp dụng mơ hình
BHYT này như Bỉ (1894), Đan Mạch (1892), Anh (1911), Thụy Sĩ (1911),
Pháp (1920), Hà Lan (1941).
Mặc dù BHYT ra đời vào thế kỷ 19 nhưng định nghĩa BHYT đã xuất
hiện từ thế kỷ 17. Định nghĩa đầu tiên về BHYT được đưa ra năm 1694 bởi
Hugh the elder Chamberlen (1630-1720): "Bảo hiểm y tế là hình thức chi trả
chi phí y tế cho người được bảo hiểm tính trên rủi ro sức khỏe đã được thỏa
thuận khi mua bảo hiểm và số tiền chi trả chi phí y tế phải cân đối với số phí
Bảo hiểm y tế mà những người tham gia bảo hiểm đóng góp" [Dẫn theo 20, tr. 3].
Đây là cách định nghĩa BHYT theo bản chất kinh tế, theo đó, BHYT được
hiểu là sự hợp nhất kinh tế của các cá nhân trước rủi ro do bệnh tật gây nên
mà trong từng trường hợp cá biệt khơng thể tính tốn trước và lo liệu được.
Sự đóng góp chung này cần phải đáp ứng được bằng nguồn tài chính dự tính
một cách thỏa đáng thơng qua hệ thống cân bằng rủi ro tương ứng do BHYT
đứng ra tổ chức thực hiện. Tổng chi phí cho khám chữa bệnh phải luôn bằng
hoặc lớn hơn tổng số tiền đóng góp của những người tham gia BHYT.

14


Sau này, định nghĩa BHYT được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tiếp
cận với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH quốc gia có
mục đích chung là bảo vệ cuộc sống của các thành viên trong xã hội. Theo
Công ước số 102 - Công ước quy định những quy chuẩn tối thiểu về ASXH
(1952) của ILO, ASXH:

Là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thơng qua hàng loạt các biện pháp cơng cộng nhằm chống lại tình
cảnh khốn khó về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngừng
hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật
trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử vong, sự cung cấp về
chăm sóc y tế và cả sự cung cấp các khoản tiền trợ giúp cho các gia
đình đơng con [26].
Như vậy, theo Cơng ước 102 của ILO thì chăm sóc y tế là nội dung
được đề cập đầu tiên trong 9 chế độ trợ cấp thuộc hệ thống ASXH. Qua các
tài liệu nghiên cứu và điều tra tình hình thực hiện ASXH trên thế giới của ILO
cho thấy chăm sóc y tế có nội dung rộng hơn BHYT. Nội dung chăm sóc y tế
khơng chỉ dừng lại ở chế độ bảo hiểm cho các thành viên trong xã hội mà cịn
bao gồm các hoạt động y tế cơng cộng khác nhằm mục đích chăm lo và bảo
vệ sức khỏe tồn dân. BHYT mang nhiều nét tương đồng nhưng không bao
quát hết được mọi nội dung của chăm sóc y tế. Trên thực tế, do điều kiện kinh
tế xã hội và nhận thức ở các quốc gia khác nhau mà khái niệm chăm sóc y tế
có thể được đồng nhất với BHYT hoặc có quốc gia coi chăm sóc y tế bao hàm
cả BHYT và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơng, thậm chí có quốc gia quy
định BHYT bao gồm cả chế độ khám chữa bệnh, chế độ ốm đau, chế độ thai
sản cho người lao động (vì có cùng phương thức hoạt động và nguyên tắc
thực hiện) v.v. Do đó, việc xác định vị trí độc lập hay không của BHYT trong
hệ thống các chế độ BHXH hay hệ thống ASXH của các quốc gia khác nhau
phụ thuộc vào đặc thù riêng của từng quốc gia.

15


Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng xác định BHYT có vai trị quan
trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Trong tuyên bố Alma-Ata năm 1978 "Sức
khỏe cho mọi người", WHO quan niệm "bảo hiểm y tế là loại hình bảo hiểm

khơng kinh doanh, khơng vì mục đích lợi nhuận và được tiếp cận chủ yếu
dưới góc độ quyền con người". Cách tiếp cận về BHYT của WHO hiện nay
được hầu hết các quốc gia thống nhất, trên cơ sở đó, tùy thuộc vào điều kiện
của mình mà các quốc gia có cách thức tổ chức thực hiện riêng.
Theo quan điểm của Tổ chức Phát triển và hợp tác kinh tế (Organíation
for Economic Development and Cooperation - OECD), thì BHYT có thể được
định nghĩa như là một cách để phân phối các rủi ro tài chính liên quan tới sự
sự thay đổi chi phí chăm sóc sức khỏe cá nhân bằng cách tổng hợp chi phí
theo thời gian thơng qua thanh tốn trước (OECD, 2004). OECD cịn phân
loại mơ hình BHYT theo bốn tiêu chí lớn là nguồn tài chính; mức độ bắt buộc
tham gia của chương trình; BHYT theo nhóm hoặc các chương trình cá nhân
và phương pháp tính phí bảo hiểm sức khỏe (tức là mức độ đóng có thể thay
đổi theo nguy cơ, tình trạng sức khỏe, tuổi v.v...).
Cơ quan phát triển quốc tế Anh (Department for International
Development - DFID) cũng đưa ra định nghĩa cho BHYT như sau:
Bảo hiểm y tế là một cách để chi trả một phần hoặc tồn bộ
chi phí y tế cho các cá nhân bởi chính phủ hoặc các tổ chức bảo
hiểm y tế vì mục đích lợi nhuận hay khơng vì mục đích lợi nhuận.
Nó hỗ trợ những người tham gia bảo hiểm chi trả chi phí khám
chữa bệnh khi gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật và hỗ trợ chi phí khám
chữa bệnh thường xuyên để đảm bảo nhu cầu của người mua bảo
hiểm [Dẫn theo 20, tr. 3].
Định nghĩa này của cơ quan phát triển quốc tế Anh không những chỉ
ra bản chất kinh tế của BHYT mà còn nêu lên bản chất xã hội của nó. Theo
đó, BHYT được hiểu là một tổ chức cộng đồng đoàn kết tương trợ lẫn nhau,

16


giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn về tài chính khi không may gặp rủi ro, đau

ốm cần phải khám, điều trị.
Bảo hiểm y tế cũng có thể được tiếp cận dưới góc độ là một cơ chế để
bảo đảm cho dân số của quốc gia chống lại các nguy cơ phát sinh chi phí y tế
hoặc như là một cơ quan đóng vai trị ASXH. Các hoạt động của hệ thống
BHYT cịn có thể được xem như một cơ chế để liên kết các lợi ích xã hội,
khuyến khích tình đồn kết, xây dựng các hiệp hội cơng dân và đảm bảo
quyền công dân. Quan điểm này đặc biệt phổ biến ở Tây Âu.
Ở Việt Nam, khái niệm BHYT được đề cập trong Luật BHYT (2008)
như sau: "Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe, khơng vì mục đích lợi nhuận, do nhà nước tổ chức thực
hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của luật này" [23].
Cuốn Thuật ngữ ASXH Việt Nam do Tổ chức GIZ và Viện Khoa học
lao động và Xã hội xuất bản năm 2001 cũng đưa ra định nghĩa sau về BHYT:
Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhằm đảm bảo chi trả một phần hoặc
toàn bộ chi phí khám, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm. Quỹ
bảo hiểm y tế được hình thành từ đóng góp của cá nhân, doanh
nghiệp, nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác. Người tham gia
bảo hiểm y tế được quỹ bảo hiểm y tế chi trả các chi phí: (a) Khám
bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức nắng, khám thai định kỳ, sinh con;
(b) Khám bệnh để sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh; và (c) Vận
chuyển người bệnh từ tuyến huyện lên tuyến trên trong trường hợp
cấp cứu hoặc khi đang điều trị nội trú phải chuyển tuyến chun
mơn kỹ thuật [17].
Như vậy, có thể thấy, BHYT có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau: kinh tế, xã hội, pháp lý, dân số v.v... Tuy nhiên, dù ở góc độ nào,
BHYT cũng có một số đặc trưng cơ bản đó là được thiết lập trên cơ sở sự

17



đóng góp của người tham gia; bao gồm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chữa
bệnh và khơng mang mục đích kinh doanh. Có thể đưa ra khái niệm về BHYT
như sau: Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm nhằm mục đích chăm sóc sức
khỏe khơng vì mục đích lợi nhuận và được hình thành trên cơ sở sự đóng góp
của người tham gia và do nhà nước tổ chức thực hiện.
Có nhiều mơ hình tổ chức thực hiện BHYT đã tồn tại trên thế giới,
trong đó phổ biến nhất là: (i) Mơ hình Otto Von Bismarch; (ii) Mơ hình
William Henry Beveridge; (iii) Mơ hình BHYT quốc gia; (iv) Mơ hình trả
tiền túi [25, tr. 2-3]. Việc vận dụng các mơ hình này ở mỗi quốc gia phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó khả năng kinh tế và khả năng tổ chức
quản lý là những yếu tố đóng vai trị quyết định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
các quốc gia không chỉ áp dụng một mơ hình mà tùy từng nhóm đối tượng
người dân được BHYT mà một quốc gia có thể áp dụng nhiều hơn một mơ
hình BHYT nêu trên.
(i) Mơ hình Otto Von Bismarck
Mơ hình này gắn liền với tên Thủ tướng Đức Otto Von Bismarck và
mơ hình BHYT đầu tiên trên thế giới. Mơ hình này gắn liền với mơ hình Nhà
nước xã hội. Theo mơ hình này, đối tượng BHYT hướng tới chủ yếu là người
lao động với phương châm tất cả người lao động phải tham gia BHYT, ngoại
trừ những người giàu có khơng cần mua nhưng phải tự trả chi phí theo u
cầu khi khám, chữa bệnh. Tồn bộ dịch vụ y tế và các hãng BHYT đều do tư
nhân đảm nhiệm với luật lệ và giá cả được quy định và quản lý chặt chẽ trên
cơ sở không vì mục tiêu lợi nhuận. Tiền trả cho BHYT do người tham gia
BHYT đóng góp theo nghĩa vụ đã được quy định trong pháp luật. Trong quan
hệ lao động, ngoài việc người lao động phải đóng BHYT để lo chi phí y tế
cho mình khi bị ốm đau, tai nạn thì người sử dụng lao động cũng phải chịu
trách nhiệm về những rủi ro xảy ra đối với người lao động mà họ thuê mướn,
sử dụng bằng cách người sử dụng lao động phải tham gia BHYT cho tất cả


18


người lao động của mình. Đối với những người nghèo, Chính phủ Đức chi trả
tồn bộ chi phí BHYT.
(ii) Mơ hình William Henry Beveridge
Mơ hình BHYT William Henry Beveridge ra đời từ năm 1942 tại
Anh, gắn với mơ hình Nhà nước phúc lợi. Mơ hình BHYT này bao phủ lên
tồn dân. Tất cả công dân Anh đăng ký một bác sỹ tổng quát như bác sĩ gia
đình. Bác sĩ này có tồn quyền quyết định xét nghiệm chẩn đốn ban đầu và
giới thiệu đến chuyên khoa. Bệnh nhân không được quyền gặp thẳng bác sĩ
chun khoa nếu như khơng có sự đồng ý của bác sỹ tổng quát. Tất cả dịch vụ
y tế và BHYT cho dân do nhà nước Anh lo thông qua cơ quan British
National Health Service. Mọi công dân Anh đi khám và chữa bệnh không
phải thanh tốn tiền hay nói cách khác, mọi chi phí BHYT của người dân đều
do Nhà nước Anh chi trả. Để thực hiện được điều này, Chính phủ Anh quốc
dùng mức đánh thuế cao thay cho lệ phí BHYT. Như vậy có thể thấy việc
đóng góp của người tham gia BHYT vào quỹ BHYT không được thực hiện
một cách trực tiếp mà gián tiếp thơng qua chính sách thuế của Nhà nước Anh.
(iii) Mơ hình BHYT quốc gia
Mơ hình BHYT quốc gia do Tommy Douglas - một nhà chính trị theo
trường phái dân chủ cấp tiến đề xuất năm 1944 cho Canada. Chính sách
BHYT trong mơ hình BHYT này khơng chỉ bao phủ lên tồn dân mà cịn đảm
bảo tất cả người dân phải bình đẳng với nhau trong việc phải được các bác sĩ
và bệnh viện khám và chữa bệnh không phân biệt giai cấp với cùng một dịch
vụ và giá thành như nhau. Toàn bộ dịch vụ và chi phí y tế trong mơ hình
BHYT này đều do tư nhân cung cấp và chi trả. Chính quyền mỗi tiểu bang
đóng vai trị điều hành các dịch vụ BHYT ln đảm bảo mục đích phi lợi
nhuận, theo đó, chính quyền liên bang liệt kê một danh sách cụ thể mọi
chương trình BHYT phải chi trả cho các dịch vụ y tế cần thiết.


19


(iv) Mơ hình trả tiền túi
Đây là mơ hình BHYT xưa cũ nhất nhân loại, hầu hết hơn 150 quốc
gia trên thế giới cịn áp dụng mơ hình này. Theo số liệu tính đến năm 2010,
cịn 3% dân số Anh, 17% dân số Mỹ, khoảng 80% dân số Việt Nam, khoảng
83% dân số Ấn Độ, 91% dân số Campuchia v.v... thuộc mơ hình trả tiền túi.
Ở mơ hình BHYT này, khơng có bất kỳ giới hạn nào khi xác định đối
tượng áp dụng, mọi người dân đều có thể tham gia mơ hình BHYT này, kể cả
những người đã tham gia BHYT ở các mơ hình khác nhưng trong trường hợp
cụ thể khơng sử dụng vẫn có thể lựa chọn mơ hình này. Người dân được hồn
tồn tự do trong việc lựa chọn dịch vụ y tế cho mình và phải trực tiếp thanh
toán cho cơ sở khám, chữa bệnh mà khơng có sự đảm bảo từ Nhà nước hay
bất kỳ tổ chức BHYT nào.
Hiện nay ít thấy một quốc gia nào chỉ áp dụng một trong số các mơ
hình trên mà nhìn chung đều có sự kết hợp giữa mơ hình trả tiền túi với một
trong các mơ hình cịn lại tùy vào từng nhóm đối tượng cụ thể và tùy vào
quan điểm của nhà cầm quyền về BHYT. Dù áp dụng mơ hình BHYT nào thì
về cơ bản chế độ BHYT tại các quốc gia trên thế giới đều tồn tại dưới hai
hình thức BHYT bắt buộc và BHYTTN.
- Bảo hiểm y tế bắt buộc: Đây là hình thức BHYT áp dụng bắt buộc
với một số đối tượng người dân hoặc với toàn dân, tham gia BHYT được xác
định là một nghĩa vụ. Ví dụ: Ở Đức, hình thức BHYT bắt buộc áp dụng đối
với hầu hết người dân, bao gồm: người làm cơng ăn lương có mức thu nhập
dưới ngưỡng quy định và người thân của họ; sinh viên của các trường trung
cấp, cao đẳng, đại học; người được đào tạo nghề; người về hưu; người khuyết
tật đang làm việc tại các cơ sở hợp pháp hoặc theo các chương trình xúc tiến
việc làm; người thất nghiệp đang nhận trợ cấp; nông dân và các thành viên gia

đình của họ; nghệ sĩ và nhà văn; những đối tượng khác. Ở Singapore, hình
thức BHYT bắt buộc áp dụng với người lao động và thân nhân của họ. Ở Việt

20


Nam cũng tồn tại hình thức BHYT bắt buộc đối với các đối tượng cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, người lao động
có tham gia quan hệ hợp đồng lao động và một số đối tượng khác gồm người
có cơng với cách mạng, trẻ em dưới 6 tuổi, thân nhân của những người trong
lực lượng vũ trang nhân dân, người già v.v... Nghiên cứu về đối tượng tham
gia, chủ thể thực hiện, nguồn kinh phí thực hiện và khả năng lựa chọn dịch vụ
y tế của người tham gia hình thức BHYT này ở Việt Nam cho thấy BHYT bắt
buộc ở nước ta khơng hồn tồn theo mơ hình Otto Von Bismarck, William
Henry Beveridge hay mơ hình BHYT quốc gia bởi tùy từng nhóm đối tượng
mà người tham gia BHYT phải đóng phí bảo hiểm (theo mơ hình Otto Von
Bismarck) hay hồn tồn do Nhà nước đài thọ (theo mơ hình William Henry
Beveridge và mơ hình BHYT quốc gia); chủ thể thực hiện BHYT bắt buộc là
nhà nước (theo mơ hình William Henry Beveridge); người tham gia BHYT
khơng hồn tồn được tự do lựa chọn dịch vụ y tế v.v.
- Bảo hiểm y tế tự nguyện: Đây là hình thức BHYT mà người dân
thường được tự do trong việc lựa chọn về việc tham gia hay khơng, mức
hưởng bảo hiểm, mức đóng, hình thức đóng v.v. Việc tự do lựa chọn của
người tham gia trong hình thức BHYT này tùy thuộc vào chính sách bảo hiểm
của quốc gia đó. Ví dụ: Theo pháp luật về BHYT của Đức, các cá nhân có
mức thu nhập ở một ngưỡng nhất định (ngưỡng này được điều chỉnh theo
từng năm, năm 2011 là 48.000 Euro/năm) mới được tham gia BHYTTN. Đối
với người lao động có mức thu nhập cao hơn ngưỡng quy định có thể tham
gia hoặc không tham gia BHYT bắt buộc hoặc tham gia BHYTTN. Theo pháp
luật Singapore công dân Singapore hay một người cư trú tại Singapore khơng

thuộc diện bắt buộc đóng BHYT có thể tự nguyện đóng quỹ theo hình thức
pháp luật quy định. Ở nước ta hiện nay BHYTTN đang áp dụng cho thân
nhân người lao động thuộc đối tượng áp dụng BHYT bắt buộc mà người lao
động có trách nhiệm ni dưỡng và sống trong cùng hộ gia đình; xã viên hợp

21


tác xã, hộ kinh doanh cá thể; các đối tượng khác không thuộc diện áp dụng
BHYT bắt buộc. Dựa trên các mơ hình BHYT trên có thể thấy khác với hình
thức BHYTTN ở nước ta thực chất gắn liền với mơ hình BHYT trả tiền túi, vì
nếu người dân khơng tự nguyện tham gia BHYT thì họ phải thanh tốn trực
tiếp tồn bộ chi phí y tế khi khám chữa bệnh.
Dựa trên khái niệm BHYT có thể hiểu BHYTTN là hình thức bảo
hiểm do Nhà nước thực hiện khơng vì mục đích lợi nhuận mà ở đó người dân
được tự nguyện lựa chọn việc tham gia để được chăm sóc sức khỏe khi đau
ốm, bệnh tật.
1.1.2. Đặc trưng của bảo hiểm y tế tự nguyện
Bảo hiểm y tế tự nguyện là một bộ phận cấu thành ASXH nên BHYT
có một số đặc trưng như sau:
- Về đối tượng tham gia:
Đối tượng tham gia của BHYTTN rất rộng, có thể là tất cả các thành
viên trong xã hội. BHYTTN là hình thức tương trợ cộng đồng với mục đích
bảo vệ sức khỏe cho nhân dân nên đối tượng tham gia BHYTTN khơng bị
giới hạn bởi bất cứ tiêu chí nào. Tất cả mọi thành viên trong xã hội, dù là
người lao động hay không phải người lao động, trẻ em hay người già v.v. đều
có thể tham gia BHYTTN.
- Về mục tiêu của BHYTTN:
Mục tiêu của BHYTTN là hướng tới việc chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe cho mọi người dân. BHYTTN có trách nhiệm chi trả các chi phí khám

chữa bệnh cho những người dân bị ốm đau, bệnh tật, rủi ro v.v... có nhu cầu
khám và điều trị bệnh. Đối tượng BHYTTN hướng đến không phải là thu
nhập hay đảm bảo thu nhập cho người bị ốm đau mà chính là sức khỏe của
người tham gia BHYT. Do đó, BHYTTN không phải là khoản trợ cấp bằng
tiền như các loại hình bảo hiểm khác mà là các dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
chữa bệnh.

22


- Về mức hưởng BHYTTN:
Thông thường với đa số các loại hình bảo hiểm thì mức hưởng bảo
hiểm được xác định trên cơ sở mức đóng góp của người tham gia bảo hiểm
(mức đóng góp, thời gian đóng góp v.v...) Tuy nhiên, đối với BHYTTN, mức
hưởng bảo hiểm lại không phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng góp
mà phụ thuộc vào rủi ro bệnh tật và cơ sở cung ứng dịch vụ y tế.
Hệ thống BHYTTN từ khi hình thành đã khơng định hướng theo mức
độ rủi ro mà theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi trả trực tiếp.
Điều này được thể hiện ở chỗ: khi bị ốm đau, người bệnh sẽ được chữa trị với
đầy đủ các dịch vụ y tế và thuốc men cần thiết cho đến khi khỏe mạnh trở lại
mà không căn cứ vào các phương thức bảo hiểm như mức lương của họ hay
trước đó họ đã đóng góp BHYTTN được bao nhiêu, trong bao lâu.
- Về thực hiện BHYTTN:
Quan hệ BHYTTN là quan hệ diễn ra giữa ba bên: bên thực hiện
BHYTTN, bên tham gia BHYTTN và cơ sở khám chữa bệnh. Do đó, khác với
các hình thức bảo hiểm khác (chỉ bao gồm bên tham gia bảo hiểm và bên thực
hiện bảo hiểm), việc thực hiện BHYTTN bao giờ cũng có sự tham gia của bên
thứ ba là cơ sở khám chữa bệnh. Đây là cơ quan tổ chức thực hiện việc khám
chữa bệnh và cung cấp các dịch vụ y tế cho người tham bệnh. Các chi phí y tế
sẽ được cơ quan BHYTTN chi trả một phần hoặc toàn bộ cho cơ sở khám

chữa bệnh. Do đó, để đảm bảo chất lượng BHYTTN địi hỏi phải có sự phối
hợp, hợp tác hài hịa giữa các chủ thể, đặc biệt là với cơ sở khám chữa bệnh.
1.1.3. Ý nghĩa của bảo hiểm y tế tự nguyện
Bảo hiểm y tế nói chung và BHYTTN nói riêng đóng vai trị quan
trọng khơng những đối với người tham gia bảo hiểm, các cơ sở y tế mà còn là
thành tố quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xã hội hóa cơng tác y tế
nhằm huy động nguồn tài chính ổn định, phát triển đa dạng các thành phần
tham gia khám chữa bệnh cho nhân dân. Vai trò của BHYTTN nói riêng được
thể hiện như sau:

23


Thứ nhất, BHYTTN là nguồn hỗ trợ tài chính giúp người tham gia
khắc phục những khó khăn về kinh tế khi bất ngờ ốm đau, bệnh tật. Bởi trong
quá trình điều trị bệnh chi phí rất tốn kém ảnh hưởng đến ngân sách gia đình,
trong khi đó thu nhập của họ bị giảm đáng kể, thậm chí mất thu nhập. Tham
gia BHYTTN là tự hình thành cho bản thân quỹ dự phịng dành riêng cho vấn
đề chăm sóc sức khỏe, đặc biệt đối với người nghèo, người có thu nhập thấp
chẳng may mắc bệnh.
Thứ hai, BHYTTN góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà
nước. Các quốc gia trên thế giới thường có các khoản chi từ ngân sách cho hệ
thống y tế. Tuy nhiên ở một số nước đặc biệt là các nước đang phát triển
khoản chi này thường chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành y. Hiện nay kinh
phí cho y tế được cấu thành từ 4 nguồn chủ yếu là: ngân sách nhà nước, quỹ
BHYT, thu một phần viện phí và dịch vụ y tế và tiền đóng góp của các tổ
chức quần chúng, các tổ chức từ thiện và viện trợ quốc tế. Trong bốn nguồn
trên khi chưa có BHYTTN thì nguồn do ngân sách nhà nước cấp là chủ yếu.
Do vậy BHYTTN ra đời thực sự giảm bớt phần nào gánh nặng cho ngân sách
nhà nước, khắc phục sự thiết hụt về tài chính, đáp ứng nhu cầu khám chữa

bệnh ngày càng tăng của người dân.
Thứ ba, BHYTTN góp phần thực hiện nâng cao chất lượng và thực
hiện mục tiêu công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, thể hiện
rõ nét tính nhân đạo, cộng đồng xã hội sâu sắc. Những người tham gia
BHYTTN dù ở địa vị, hoàn cảnh nào nhưng khi ốm đau đều nhận được sự
chăm sóc y tế như nhau, và điều trị theo bệnh - đây là một đặc trưng ưu việt
của BHYTTN. Loại hình bảo hiểm này mang tính chất nhân đạo cao cả và
được xã hội hóa theo ngun tắc "số đơng bù số ít". Số đơng người tham gia
để hình thành quỹ và quỹ này được dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh
cho một số ít người khơng may gặp phải rủi ro bệnh tật. Tham gia BHYTTN
vừa có lợi cho bản thân vừa có lợi cho xã hội. Do vậy sự đóng góp của cộng

24


đồng xã hội để hình thành nên quỹ BHYT là tối cần thiết, theo phương châm
"mình vì mọi người, mọi người vì mình".
Thứ tư, BHYTTN góp phần làm tăng chất lượng khám chữa bệnh và
quản lý y tế thông qua hoạt động quỹ BHYTTN đầu tư. Lúc đó trang thiết bị
về y tế sẽ hiện đại hơn, có kinh phí để sản xuất các loại thuốc đặc trị chữa
bệnh hiểm nghèo, có điều kiện nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh một cách
có hệ thống và hồn thiện hơn, giúp người dân đi khám chữa bệnh được thuận
lợi hơn. Đồng thời đội ngũ cán bộ y tế sẽ được đào tạo tốt hơn, được nâng cao
tay nghề, tích lũy kinh nghiệm, có trách nhiệm đối với cơng việc hơn, dẫn đến
sự quản lý dễ dàng và chặt chẽ hơn trong khám chữa bệnh.
Thứ năm, BHYTTN góp phần đổi mới cơ chế quản lý y tế, cụ thể: Để
có lực lượng lao động trong xã hội có thể lực và trí lực khơng thể khơng chăm
sóc bà mẹ và trẻ em, không thể để người lao động làm việc trong điều kiện vệ
sinh không đảm bảo, môi trường ô nhiễm v.v... Vì thế việc chăm lo bảo vệ
sức khỏe là nhiệm vụ của mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp và cũng

là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Đồng thời để đảm bảo cho mọi người lao
động khi ốm đau được khám chữa bệnh một cách thuận tiện, an tồn, chất
lượng thì cần có mạng lưới y tế đa dạng, rộng khắp với đội ngũ thầy thuốc
giỏi và có hệ thống cơ sở vật chất y tế đầy đủ, tiện nghi v.v. Thông qua
BHYTTN, mạng lưới khám chữa bệnh sẽ đảm bảo được theo yêu cầu của
người bệnh, tạo điều kiện cho họ được điều trị tốt nhất.
Sự ra đời BHYTTN đòi hỏi người được sử dụng dịch vụ y tế và người
cung cấp dịch vụ này phải biết rõ chi phí của mỗi lần khám chữa bệnh đã hợp
lý chưa, chi phí cho q trình vận hành bộ máy của khu vực khám chữa bệnh
đã đảm bảo chưa, những chi phí đó phải được hạch tốn và được quỹ bảo
hiểm trang trải. Thơng qua tình hình đó đòi hỏi cơ chế quản lý của ngành y tế
phải đổi mới để tạo ra chất lượng mới trong dịch vụ y tế.
Thứ sáu, chỉ tiêu phúc lợi xã hội trong mỗi nước cũng biểu hiện trình
độ phát triển của nước đó. Do vậy, BHYTTN là một cơng cụ vĩ mô của nhà

25


×