Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHUYÊN NGÀNH CÔNG BẰNG xã hội TRONG GIÁO dục đào tạo ở TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.54 KB, 93 trang )

3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Công bằng xã hội là mục tiêu đã được Đảng và nhân dân ta xác định
ngay từ những ngày đầu bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng
thời cũng là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Công bằng xã hội được thể hiện trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội. Đặc biệt, trong quá trình phát triển đất nước hiện nay, vấn đề
công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo luôn được nhấn mạnh. Bởi vì, thực
hiện tốt CBXH trong GD - ĐT sẽ góp phần to lớn đối với việc bồi dưỡng
năng lực cá nhân, làm cho mọi tiềm năng về năng lực cá nhân đều trở nên có
những cơ hội như nhau hoặc tương đương nhau. Công bằng trong GD - ĐT
chính là cái gốc để giảm bớt bất công về năng lực, tạo ra những năng lực lao
động mới, không để uổng phí các mầm mống tài năng và sẽ tạo được cơ hội
không quá chênh lệch để mọi người cùng tự do phát triển.
Trong những năm qua, nền giáo dục Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn. Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách
nhằm đẩy mạnh thực hiện CBXH trong GD - ĐT. Mọi công dân không phân
biệt thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính…đều được tạo cơ hội,
điều kiện thuận lợi để học tập; giảm dần sự chênh lệch về giáo dục giữa thành
thị với nông thôn, đồng bằng với miền núi. Tuy nhiên, thực trạng GD - ĐT ở
các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa hiện nay cũng như vấn
đề thực hiện CBXH trong GD - ĐT vẫn còn nhiều bất cập. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã khẳng định:
Chưa thực hiện tốt CBXH trong giáo dục. Con em gia đình nghèo gặp nhiều
khó khăn khi muốn học lên cao. Ở các trường đại học tỉ lệ sinh viên là con em
gia đình nghèo, con em xuất thân công nông, nhất là nông dân ở vùng sâu,


4


vùng xa, vùng dân tộc thiểu số giảm dần…Đại hội lần thứ XI của Đảng đã
nhấn mạnh một trong ba khâu cần đột phá hiện nay là tập trung đào tạo nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực bậc cao. Điều đó đặt ra đối với tổ chức đảng và
chính quyền ở các địa phương cần phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề này.
Nam Định là vùng đất có bề dày truyền thống hiếu học và khoa bảng.
Trong GD - ĐT, các tổ chức, ban ngành, đoàn thể và nhân dân đã tạo những
điều kiện cơ bản về vật chất, tinh thần để mọi công dân có thể học tập, phát
huy tài năng, trí tuệ, góp phần xây dựng quê hương. Với những chủ trương,
chính sách đúng đắn, những năm gần đây, ngành giáo dục Nam Định luôn
giành được vị trí hàng đầu trong nền giáo dục quốc dân. Bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, việc thực hiện CBXH trong GD - ĐT vẫn còn một số
hạn chế như: chưa thực sự tạo đủ cơ hội, điều kiện và môi trường tốt nhất
cho mọi công dân có thể học tập theo nhu cầu của mình, nhất là con em
những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, gia đình chính sách. Việc đầu
tư cơ sở vật chất, sự phân bố giáo viên chưa thực sự đồng đều giữa các địa
phương trong tỉnh; trong đánh giá chất lượng GD - ĐT ở các cấp học vẫn
còn có biểu hiện thiếu khách quan; việc sử dụng nguồn nhân lực đã qua đào
tạo ở các cấp học chưa thực sự phù hợp...Những hạn chế đó đã ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng GD - ĐT và phát huy nguồn lực con người ở các
địa phương trong toàn tỉnh.
Bên cạnh đó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nam Định hiện
nay đang rất cần nguồn nhân lực có chất lượng cao. Thực hiện CBXH trong
GD - ĐT sẽ góp phần đào tạo ra những con người mới có phẩm chất đạo đức
tốt, chuyên môn tay nghề cao...đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp đổi mới nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.
Từ những lý do đã trình bày, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Công bằng xã
hội trong giáo dục - đào tạo ở tỉnh Nam Định hiện nay” làm đề tài luận
văn cao học chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.



5
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề CBXH đã từng thu hút được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo,
quản lý, của giới khoa học trong và ngoài nước. Hiện nay, nhiều bài viết,
công trình khoa học, từ góc độ nghiên cứu khác nhau đã đề cập tương đối
toàn diện về vấn đề này. Tiêu biểu có các bài viết, công trình khoa học như:
* Các sách tham khảo, chuyên khảo
Phạm Như Cương, Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988. Công trình khoa học này đã đi sâu vào
bàn về các chính sách xã hội, trong đó có đề cập đến thực hiện các chính sách
xã hội chính là góp phần hiện thực hoá mục tiêu CBXH ở nước ta hiện nay.
Nguyễn thị Nga (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - Vấn đề và giải pháp, Nxb Lý luận
Chính trị, Hà Nội. Trong cuốn sách này, tác giả đi vào làm rõ khái niệm về
tăng trưởng kinh tế và CBXH, chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa tăng
trưởng kinh tế với việc thực hiện CBXH. Theo tác giả, tăng trưởng kinh tế là
cơ sở để thực hiện CBXH. Và ngược lại, thực hiện CBXH sẽ là động lực thúc
đẩy kinh tế phát triển. Từ đó, đánh giá thực trạng việc giải quyết mối quan
giữa tăng trưởng kinh tế với CBXH ở Việt Nam hiện nay, đưa ra một số giải
pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn nữa vấn đề này. Có thể nói, công trình
khoa học này đã góp phần làm rõ thêm quan niệm về CBXH cũng như vị trí,
vai trò của việc thực hiện CBXH ở nước ta.
Nguyễn Minh Hoàn (2009), Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, . Trong cuốn sách này, tác giả
Nguyễn Minh Hoàn đã trình bày khá rõ quan niệm về CBXH trên cơ sở đưa
ra các quan niệm khác nhau trong lịch sử về CBXH (quan điểm trước Mác
như Platon, Aritxtot, Môrenly...; một số quan điểm hiện đại về CBXH của các


6

học giả phương Tây; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH. Từ đó, tác giả đi vào khái quát
CBXH qua các chế độ xã hội khác nhau: từ cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản chủ nghĩa. Đặc biệt làm rõ những điểm
cơ bản về CBXH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở làm rõ
quan niệm về CBXH, tác giả đi vào đánh giá việc thực hiện CBXH ở Việt
Nam trước và sau khi đổi mới, tập trung làm rõ những chủ trương thực hiện
CBXH của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, giáo dục, y tế...
* Các đề tài khoa học có liên quan đến vấn đề CBXH
Đinh Thế Định (2000), Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và việc giải
quyết các vấn đề xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung Bộ trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa
phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, đồng thời làm rõ sự kết hợp
phát triển kinh tế và việc giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình xây
dựng nông thôn mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Qua khảo
sát 6 tỉnh Bắc Trung Bộ là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, tác giả đã làm rõ thực trạng kết hợp phát triển
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng nông thôn Bắc Trung Bộ trong
quá trình đổi mới hiện nay cũng như đề cập đến những vấn đề xã hội đặt ra
trong quá trình đổi mới kinh tế nông thôn ở đó. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra
một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp giữa phát triển kinh
tế và việc giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung
Bộ. Mục đích của luận án chính là nhằm giải quyết các vấn đề xã hội ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay, từ đó tiến đến
mục tiêu công bằng xã hội.


7

“Quan điểm, giải pháp bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta” - đề tài do Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Đức
Thân, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân làm chủ nhiệm. Đây là một trong 32
đề tài thuộc Chương trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn
2006-2010. Mục tiêu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
phương pháp luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, CBXH;
đưa ra khái niệm và giới thiệu những thước đo thông dụng nhất đối với tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ, CBXH; phân tích và rút ra bài học kinh nghiệm từ
thực tiễn xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, CBXH ở một
số nước trên thế giới. Đề tài đã kiến nghị quan điểm tổng quát: Phát triển kinh
tế gắn kết hợp lý với thực hiện tiến bộ và CBXH ngay trong từng giai đoạn
phát triển và trong suốt quá trình phát triển; phát triển kinh tế nhanh và bền
vững gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, giảm bất bình đẳng;
bảo đảm thống nhất chính sách phát triển kinh tế và chính sách xã hội.
* Các bài viết, bài báo khoa học có liên quan đến vấn đề công bằng xã
hội
Lê Hữu Tầng, “Tư tưởng của C.Mác về công bằng và bình đẳng trong
chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Triết học, số 2, 1993, tr.27-31; Nguyễn Tấn Hùng,
“Vấn đề công bằng và bình đẳng xã hội”, tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 7,
1996, tr.15; Bùi Đình Thanh, “Công bằng xã hội và sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”, tạp chí Cộng sản, số 18, 1996, tr.6-12; Lương Việt Hải,
“Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”,
Tạp chí Triết học, số 4, 2004. tr.5.
Hầu hết, các công trình và bài viết này bàn đến vấn đề CBXH trên cơ sở
đưa ra các quan niệm khác nhau, các tiêu chí để đánh giá về CBXH. Từ đó
đưa ra quan niệm về CBXH, thực trạng việc thực hiện CBXH trong điều kiện


8
phát triển nền kinh tế hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện

CBXH ở Việt Nam hiện nay.
Một số tác giả đi vào tập trung nghiên cứu CBXH, CBXH trong giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và qua lăng kính CBXH để nhìn nhận sự
phân hoá giàu nghèo trong xã hội: Giáo sư, phó tiến sĩ Lê Hữu Tầng, Về
Công bằng xã hội, Tạp chí Cộng sản số 19/1996; “Phân hoá giàu nghèo xét
từ góc độ công bằng và bình đẳng xã hội”, Tạp chí Triết học số 4/1993; Trịnh
Duy Luân và Bùi Thế Cường “Về phân tầng xã hội và công bằng xã hội ở
nước ta hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 2001; Giáo sư, tiến sĩ Trần Văn
Thọ (Đại học Obirin, Tokyo) và Thạc sĩ Hitomi Asano (Đại học Ngoại ngữ
Hà Nội) với “Phát triển kinh tế và công bằng xã hội, đánh giá thành quả đổi
mới và suy nghĩ về chiến lược phát triển của Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý
luận số 1/1999; Giáo sư, tiến sĩ Bùi Đình Thanh “Công bằng xã hội và sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Cộng sản, số 19/1996;
Nguyễn Tấn Hùng “Giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện tốt việc kết hợp
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta”, Tạp chí Triết học, số
5/1999.
Như vậy, vấn đề CBXH đã được đề cập đến trong một số công trình
khoa học, bài viết dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau song đến nay vẫn
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống
dưới góc độ chính trị - xã hội về vấn đề CBXH trong GD - ĐT, đặc biệt là
việc thực hiện CBXH trong GD - ĐT ở tỉnh Nam Định hiện nay. Vì vậy, tác
giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với mong muốn được góp phần nhỏ bé
vào việc luận giải làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện
CBXH trong GD - ĐT ở tỉnh Nam Định hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích của luận văn


9
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công bằng xã

hội trong giáo dục - đào tạo ở tỉnh Nam Định thời gian qua, luận văn đề xuất
yêu cầu và một số giải pháp cơ bản để thực hiện tốt hơn công bằng xã hội
trong giáo dục - đào tạo ở tỉnh Nam Định hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ khái niệm công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo, những
nhân tố chi phối đến công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo và vai trò của
thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo.
- Đánh giá thực trạng về công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo ở
tỉnh Nam Định thời gian qua, chỉ rõ nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra cần
giải quyết.
- Đề xuất yêu cầu, một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn công
bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo ở tỉnh Nam Định hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công bằng xã hội trong giáo dục
- đào tạo ở tỉnh Nam Định.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Dưới góc độ chính trị - xã hội, luận văn tập trung nghiên cứu về việc
thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo ở tỉnh Nam Định, thời
gian khảo sát từ năm 2006 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết
lãnh đạo của Tỉnh uỷ Nam Định về giáo dục - đào tạo và công bằng xã hội
trong giáo dục - đào tạo.
* Cơ sở thực tiễn


10
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở đánh giá thực trạng công bằng

xã hội trong giáo dục - đào tạo ở tỉnh Nam Định trong thời gian qua (từ năm
2006 đến nay) qua các số liệu báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ
quan chức năng Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, Sở Giáo
dục - đào tạo tỉnh Nam Định cùng kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả
về việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo ở tỉnh Nam Định.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp
với phương pháp phân tích, tổng hợp, lôgíc và lịch sử, hệ thống, so sánh, điều
tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở
khoa học cả về lý luận và thực tiễn cho lãnh đạo, chính quyền tỉnh Nam Định
nghiên cứu, vận dụng vào thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo
ở tỉnh Nam Định hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học.
6. Kết cấu của luận văn
Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG BẰNG XÃ
HỘI TRONG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY
1. 1. Công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo và vai trò của thực
hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo
1.1.1. Quan niệm về công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo và
những yếu tố chi phối đến công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo
* Quan niệm về công bằng xã hội trong giáo trong giáo dục - đào tạo

Công bằng xã hội
Công bằng xã hội là vấn đề được đặt ra từ lâu trong lịch sử loài người,
ngay từ khi con người ý thức được những bất công trong xã hội. Trải qua các
thời đại khác nhau, con người đã có cách nhận thức, đánh giá và giải quyết
khác nhau về vấn đề này. Ph.Ăngghen từng nhận xét: Công bằng của người
Hy Lạp và người La Mã là công bằng của chế độ nô lệ, công bằng của giai
cấp tư sản những năm 1789 là đã xóa bỏ chế độ phong kiến mà nó cho là bất
công. Nhận thức của con người về bất công ở mức độ nào sẽ hướng con người
vươn tới sự công bằng mở mức độ tương ứng. Việc đặt ra và giải quyết vấn đề
này không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể mà còn phụ thuộc
rất nhiều vào trình độ nhận thức, đặc biệt sự chi phối lợi ích giai cấp, các
nhóm chủ thể xã hội. CBXH trong từng giai đoạn lịch sử, với những thể chế
chính trị khác nhau có những tiêu chí khác nhau.
Tiếp thu quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về CBXH, đồng thời
trực tiếp chứng kiến tất cả những gì xảy ra trong đời sống kinh tế - xã hội của
các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam vào giai đoạn trước cách mạng,
Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: trong chế độ xã hội thực dân, phong kiến
hoàn toàn không có CBXH và trong xã hội đó: “…nhân dân chỉ có nghĩa vụ,
như nộp sưu đóng thuế, đi lính đi phu mà không có quyền lợi” [17, tr.219].
Từ việc đánh giá đó, Hồ Chí Minh đưa ra kết luận rằng, CBXH chỉ có
được trong chế độ xã hội mới, đó là dưới chế độ dân chủ cộng hoà. Người


12
khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng” [18, tr.181]. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, CBXH không chỉ biểu hiện như là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Người căn dặn rằng: “Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều
quan trọng phải luôn nhớ: - Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; - Không

sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” [19, tr.187].
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, thực hiện CBXH với nguyên tắc ngang
bằng nhau giữa người và người trong mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi,
giữa cống hiến và hưởng thụ,…trong hoàn cảnh nước nhà còn nhiều khó khăn
về kinh tế không có nghĩa là có thể làm cho đời sống nhân dân có ngay được
sự no đủ. Vì vậy, không được coi CBXH như là một sự cào bằng trong nghèo
khổ. Người cho rằng: “Không phải chúng ta ham chuộng khổ hạnh và bần
cùng. Trái lại, chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây dựng một xã
hội ai cũng ấm no, sung sướng” [17, tr.568].
Nói về việc thực hiện CBXH với tư cách là một yếu tố quan trọng của
sự phát triển bền vững, không thể không nhắc đến chính sách nhân đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lo toan và bảo đảm những điều kiện sống cho mọi
người trong xã hội, bất kể thành phần, vị trí, hoàn cảnh. Đối với người nghèo,
lo cơm ăn áo mặc, học hành. Đối với những người hữu sản, lo làm sao giúp
đỡ họ có thể đem tài năng và những phương tiện để phát triển sản xuất, góp
phần kiến quốc” [25, tr.278].
Kế thừa quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
CBXH, Đảng ta luôn xác định: CBXH là mục tiêu cao nhất cần phải hướng
tới trong sự nghiệp cách mạng. Trải qua các giai đoạn lịch sử, Đảng ta luôn
bổ sung, phát triển các chủ trương, chính sách nhằm thực hiện tốt vấn đề tiến
bộ và CBXH. Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh: “Thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là một
chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện bản chất tốt đẹp


13
của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tập trung giải quyết tốt chính sách lao động,
việc làm và thu nhập; khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền công,
trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước…” [7,
tr.77].

Như vậy, CBXH là vấn đề đã được các nhà kinh điển mác xít đề cập
đến từ lâu. Sau này, những tư tưởng đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam tiếp thu, vận dụng sáng tạo trong suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam. Khi đất nước đang đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vấn đề
CBXH đã, đang và sẽ là vấn đề thời sự cần quan tâm giải quyết từng bước.
Trên thực tế, có nhiều học giả đã nghiên cứu nhằm đưa ra một quan
niệm thống nhất về CBXH. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận khác nhau, có
nhiều quan điểm về CBXH. Trong một nghiên cứu, tác giả Dương Xuân Ngọc
có đưa ra quan niệm:
Công bằng xã hội là một phạm trù xã hội dùng để chỉ trình độ phát triển
về phương diện xã hội của con người (cá nhân và cộng đồng), được
thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như:
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tinh thần, mà trước hết là lĩnh vực xã
hội. Nó phản ánh mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi, giữa xã hội và
cá nhân, nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà của con người, của xã hội
phù hợp với xu thế và tiến bộ xã hội. Công bằng xã hội vừa là khát
vọng của con người, vừa là động lực, là mục tiêu của sự phát triển xã
hội, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [24, tr.37].
Từ điển bách khoa Triết học có định nghĩa:
Công bằng là khái niệm đạo đức - pháp quyền, đồng thời là khái niệm
chính trị - xã hội. Khái niệm công bằng bao hàm trong nó yêu cầu về sự
phối hợp giữa vai trò thực tiễn của cá nhân (nhóm xã hội) với địa vị của
họ trong đời sống xã hội, giữa những quyền và nghĩa vụ của họ, giữa


14
làm và hưởng, giữa lao động và sự trả công, giữa tội phạm và sự trừng
phạt, giữa công lao và sự thừa nhận của xã hội. Sự không phối hợp

trong những quan hệ đó được đánh giá là sự bất công [34, tr.630].
Như vậy, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về CBXH. Trên cơ sở
những quan niệm đã trình bày ở trên, theo tác giả có thể hiểu một cách chung
nhất về công bằng xã hội như sau: Công bằng xã hội là giá trị định hướng và
là phương thức tối ưu để con người thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về đời
sống vật chất và tinh thần trong mối quan hệ tương đối hợp lý giữa các cá
nhân và nhóm xã hội, phù hợp với khả năng hiện thực của những điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định.
Xét về thực chất, CBXH chính là một giá trị nhân văn, thông qua hệ
thống chính sách để điều tiết mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân, các nhóm
xã hội, các vùng, miền…trong quá trình giải quyết hài hòa lợi ích trên cơ sở
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo
Giáo dục - đào tạo là một lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, góp
phần đắc lực xây dựng nên những con người mới xã hội chủ nghĩa. GD - ĐT
chính là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố có vai trò quyết
định đến phát triển kinh tế nhanh và bền vững. GD - ĐT còn là cơ sở để nâng
cao dân trí, đào tạo ra những con người có tài năng, có trí tuệ, có nhân cách
phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Sự lạc hậu và kém phát triển
của một dân tộc, một quốc gia biểu hiện trước hết ở sự lạc hậu và kém phát
triển của nền giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu” [20, tr.8].
Muốn thắng được nghèo nàn, lạc hậu để phát triển kinh tế - xã hội và
thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, một điều kiện bắt buộc có ý nghĩa quyết
định với mỗi quốc gia dân tộc là phải đầu tư phát triển giáo dục, nâng cao
trình độ dân trí. Để phát triển GD - ĐT cho đồng bào các dân tộc, thực hiện


15

CBXH trong GD - ĐT giữa các dân tộc trước hết phải tạo cho đồng bào có cơ
hội được học tập, được tiếp cận các hình thức giáo dục phù hợp để xoá mù
chữ và nâng cao trình độ dân trí. Đây chính là điều kiện quan trọng để thực
hiện quyền bình đẳng thật sự giữa các dân tộc ở nước ta hiện nay.
Ngay từ những ngày đầu tiến hành cách mạng, mặc dù bận rất nhiều
công việc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục và
tư tưởng “ai cũng được học hành” là nội dung quan trọng trong hệ thống tư
tưởng của Người về giáo dục. Tư tưởng đó được phát triển mạnh mẽ và liên
tục từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Hồ Chí Minh luôn có một
ham muốn: “…ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành” [21, tr.161].
Theo Người, trong xã hội phong kiến thực dân, nhân dân ta không
được đi học theo đúng nguyện vọng của mình. Thực dân Pháp thực hiện chủ
trương “ngu dân dễ trị”. Vì thế, chúng không cho mở mang trường học, hạn
chế việc đến trường của nhân dân ta. Hậu quả là, sau khi cách mạng tháng
Tám năm 1945 thành công, trên 90% dân số mù chữ. Đó là một lực cản lớn
đối với sự nghiệp cách mạng. Nhận thức được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm mục đích “Diệt giặc dốt”.
Phong trào đó đã được nhân dân ta hưởng ứng một cách nhiệt tình và tư tưởng
“ai cũng được học hành” đã thể hiện mong ước của toàn dân ta là: không phân
biệt trai - gái, giàu - nghèo, già - trẻ…đều được học hành theo nguyện vọng
chính đáng của mình. Trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phấn đấu thực
hiện mục tiêu đó. Người đã nêu: hết thảy con cái các nhà lao động được học
cho tới 16 tuổi; trẻ em đến 7 tuổi đều được đến trường…Việc tạo mọi cơ hội
đến trường cho mọi tầng lớp nhân dân chính là tư tưởng cốt lõi nhất của việc
thực hiện CBXH trong GD - ĐT.


16

Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH trong GD - ĐT,
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định đó là một vấn
đề hết sức quan trọng. Bởi lẽ, chỉ có trên cơ sở tạo ra được sự công bằng mới
khơi dậy và phát huy được nguồn nhân lực vốn rất dồi dào. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người
nghèo có cơ hội học tập, tiếp tục phát triển các trường phổ thông nội trú
dành cho con em các dân tộc thiểu số, chú trọng quyền được học tập
của nhân dân ở trên 2.000 xã nghèo nhất. Có chính sách hỗ trợ đặc biệt
những học sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học
ở bậc học cao. Có quy hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc
biệt chú ý trong con em công nhân và nông dân để đào tạo ở các bậc
đại học và sau đại học [3, tr.54].
Giáo dục ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và đảm
bảo cho nước ta phát triển bền vững, nhất là trong xu thế quốc tế hoá và toàn
cầu hoá hiện nay. Trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị lần thức 6 Ban Chấp hành
Trung ương khoá IX đã nhấn mạnh:
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, Nhà nước có chính sách
điều tiết, tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn ở mọi cấp học và trình độ
đào tạo cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tạo cơ hội học tập ở đại
học, cao đẳng cho con em nông dân, các gia đình chính sách, đồng bào
dân tộc thiểu số và các vùng còn nhiều khó khăn. Giảm sự cách biệt về
cơ hội học tập giữa các tầng lớp dân cư, về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý giáo dục giữa các vùng, miền [4, tr.50].
Như vậy, CBXH trong GD - ĐT là một nội dung của CBXH ở nước ta
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu của sự nghiệp GD - ĐT của nước ta hiện nay là: nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Thực hiện mục tiêu đó đáp ứng các yêu
cầu về phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm phúc lợi xã hội (vai trò của Nhà



17
nước tạo cơ hội bình đẳng học tập cho mỗi người dân) và thực hiện dịch vụ xã
hội. Do đó, thực hiện CBXH trong GD - ĐT có sự tác động trực tiếp nhằm
đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu giáo dục nói riêng và phát triển kinh
tế - xã hội nói chung.
Xung quanh vấn đề CBXH trong GD - ĐT có nhiều quan niệm khác nhau.
Dưới góc độ chính trị - xã hội, có thể hiểu CBXH trong GD - ĐT như sau:
Công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo là quá trình tạo được nhiều
cơ hội, điều kiện, môi trường học tập phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội,
với mọi nhu cầu, nguyện vọng cũng như khả năng của mỗi người dân trong
xã hội để ai cũng được tham gia học tập nâng cao trình độ kiến thức, phát
triển nghề nghiệp, tài năng, hiểu biết đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ quan niệm trên cho thấy, CBXH trong GD - ĐT là một vấn đề lớn
và phức tạp. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả bước đầu nghiên
cứu một số nội dung cơ bản của CBXH trong GD - ĐT như sau:
Thứ nhất, công bằng về cơ hội học tập
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu của CBXH trong GD - ĐT. Nó là
cơ sở để mọi người, mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên, học tập suốt
đời. Đảng ta đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội
và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời” [7, tr.77].
Công bằng về cơ hội không nên hiểu theo nghĩa là tạo điều kiện như
nhau cho mọi người mà quan trọng hơn là cơ hội đó phải phù hợp với mỗi
chủ thể. Nói cách khác, công bằng về cơ hội học tập phải được hiểu là tạo ra
cơ hội học tập phù hợp với mỗi cá nhân, mỗi chủ thể. Điều đó sẽ hạn chế
được cái gọi là cơ hội như nhau nhưng chỉ với những cá nhân này thì phát
huy được lợi thế, còn đối với những cá nhân khác lại là sự bất lợi. Chỉ có
được công bằng về cơ hội học tập thực sự khi cơ hội đó phù hợp với mỗi chủ
thể, tức là tạo điều kiện kinh tế - xã hội phù hợp cho mỗi chủ thể phát huy

khả năng vốn có của mình để học tập, cống hiến cho gia đình và xã hội.


18
Công bằng về cơ hội học tập tạo ra động lực để phát huy được mọi tiềm
năng sẵn có trong mỗi con người.
Thực hiện CBXH trong GD - ĐT trước hết cần tạo cơ hội nhiều nhất
cho mọi công dân được học tập theo nhu cầu, nguyện vọng của bản thân.
Nghĩa là, mọi công dân Việt Nam, không phân biệt thành phần giai cấp, dân
tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính…đều có quyền được học tập bằng nhiều hình
thức khác nhau, có thể là đến trường hoặc không đến trường. Nhà nước tạo
đầy đủ cơ hội để mọi tầng lớp nhân dân học tập, phát triển tài năng. Điều này
đã được thể hiện rất rõ trong Điều 9 của Luật Giáo dục nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá X thông qua tháng 12 năm 1998:
Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt
dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội hoặc
hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Nhà nước tạo điều kiện để
ai cũng được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được
học tập, bảo đảm điều kiện để những người học giỏi phát triển tài năng. Nhà
nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng hưởng chính
sách ưu đãi, người tàn tật và đối tượng hưởng chính sách xã hội khác thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Theo đó, việc tạo cơ hội cho công dân được học tập trước hết là tạo điều
kiện xây dựng cơ sở vật chất cho GD - ĐT, nhất là hệ thống trường lớp cần
được quan tâm. Ở đây, việc xây dựng hệ thống trường lớp cần tiến hành ở các
bậc học, từ mầm non, tiều học, THCS, THPT đến hệ thống các trường cao
đẳng, đại học. Hệ thống trường lớp khang trang sẽ thu hút và tạo điều kiện cho
nhu cầu học tập của nhân dân. Trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá XI khẳng định: “Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở

vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả
xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế” [7, tr.216].
Bên cạnh đó, đội ngũ các nhà giáo dục cũng cần được quan tâm thích
đáng bởi họ có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng GD - ĐT.


19
Đảng và Nhà nước cần có sự phân công, điều động phù hợp đối với đội ngũ
các nhà giáo để giảm thiểu chênh lệch giữa các vùng miền. Việc ban hành và
thực hiện những chính sách ưu đãi thích đáng đối với đội ngũ nhà giáo sẽ là
động lực để họ tích cực, say mê, nhiệt huyết trong sự nghiệp trồng người. Cần
thực hiện tốt mục tiêu “Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng
yêu cầu về chất lượng” [7, tr.216].
Nói đến công bằng giáo dục, không thể không nói đến sự công bằng
về giới trong giáo dục. Vì vậy, cần mở rộng cơ hội học tập cho phụ nữ và trẻ
em gái, nhất là những người có khả năng vượt trội, mở ra những con đường
để phụ nữ có những đóng góp giá trị vào sự phát triển bền vững của xã hội.
Cùng với đó, cần tạo cơ hội cho những người có hoàn cảnh kinh tế khó
khăn, những người tàn tật, người dân tộc thiểu số để họ có cơ hội học tập
theo nguyện vọng và khả năng. Đảng và Nhà nước “Quan tâm hơn tới phát
triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bảo đảm công
bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với
người và gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh
nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có
nhiều khó khăn” [7, tr.217].
Như vậy, CBXH trong GD - ĐT trước hết là tạo ra sự công bằng về cơ
hội học tập cho mọi công dân. Đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi nhất nhằm mục
tiêu nâng cao dân trí, hiện thực hoá tư tưởng Hồ Chí Minh “ai cũng được học
hành”. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ tạo nên một phong trào học tập rộng lớn
cho toàn xã hội.

Thứ hai, công bằng về điều kiện, môi trường để mọi công dân được học
tập, nâng cao trình độ tri thức
Đây là nội dung rất quan trọng của CBXH trong GD - ĐT. Đó chính là
sự cụ thể hóa của công bằng về cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhân dân.
CBXH trong GD - ĐT luôn đòi hỏi sự công bằng về điều kiện, môi
trường học tập. Thông thường, một phường trong thành phố lớn có ít nhất một


20
trường tiểu học; một xã vùng cao hiện nay cũng có trường tiểu học. Nếu nhìn
vào con số thống kê này, người ta có thể cho rằng, giữa miền núi với vùng đô
thị đã có sự công bằng về giáo dục tiểu học. Thực ra vẫn không có sự công
bằng khi trường tiểu học ở thành phố được xây dựng kiên cố, có đủ điện chiếu
sáng trong từng lớp học, có bàn ghế học sinh đóng đúng quy cách, có máy
tính cho học sinh sử dụng ngay khi vào lớp 1. Trong khi đó, trường học ở
vùng cao được bao bọc bằng những tấm phên đan bằng tre hoặc nứa, ghế học
sinh ghép bằng những cây tre, mùa đông đến gió rừng làm cho lũ trẻ co ro
trong lớp học, trời mưa hoặc lúc chiều tà, lớp học tối om. Cũng là học tiểu
học, nhưng chất lượng trường lớp như thế làm sao mà bảo đảm việc học tập ở
hai nơi là công bằng.
Bên cạnh đó, nhu cầu học tập và khả năng học tập của các đối tượng rất
khác nhau: có người học để có việc làm tốt, thu nhập cao; có người học vì sự
say mê khoa học, vì sự sáng tạo; có người học chỉ để tăng thêm sự hiểu biết,
để được giao tiếp nhiều hơn với cộng đồng…Hơn nữa, điều kiện về kinh tế,
về học lực của mỗi đối tượng cũng rất khác nhau: có đối tượng học lực tốt
nhưng nhà nghèo (do điều kiện kinh tế gia đình hoặc sống ở nông thôn, vùng
sâu, vùng xa). Ngược lại, có đối tượng vừa học giỏi lại vừa có điều kiện kinh
tế…đã tạo ra nhu cầu và nguyện vọng hết sức khác nhau. Vấn đề đặt ra ở đây
là làm gì để tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho mọi công dân được học
tập và nâng cao trình độ kiến thức.

Hiện nay, những trường công lập do Nhà nước đầu tư xây dựng không
thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu học tập của mọi tầng lớp dân cư. Điều đó dẫn đến
nhu cầu phát triển giáo dục ngoài công lập. Trong đó, mô hình giáo dục công
lập giữ vai trò chủ đạo, đảm bảo định hướng về quy mô và chất lượng (với
yêu cầu chặt về đầu vào), cùng với thực hiện đan xen phát triển hệ thống
trường dân lập, tư thục (với yêu cầu chặt đầu ra) đã tạo nên sự công bằng về
điều kiện và môi trường cho mọi công dân được học tập để nâng cao trình độ
kiến thức, kỹ năng tay nghề. Nó đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng và khả


21
năng học tập của nhiều đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, nhà nước cần có sự
thống nhất quản lý từ nội dung chương trình đến quy chế học, thi cử, vǎn
bằng, tiêu chuẩn giáo viên, tạo điều kiện cho mọi người có thể lựa chọn cách
học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình. Phát triển các trường bán
công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở
một số bậc học như: mầm non, THPT, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại
học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước
hiện đại hoá hình thức giáo dục. Đó chính là quá trình tạo ra những điều kiện
mới để mọi người có thể học tập nâng cao trình độ kiến thức, góp phần đào
tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao cho xã hội.
Mặt khác, học tập còn là nhu cầu cần thiết của mỗi cá nhân để nâng cao
trình độ kiến thức, trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội. Vì
thế, ai cũng muốn có điều kiện được học tập ở những bậc học cao. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời…Không ai
có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày đổi mới, nhân
dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến
bộ…” [22, tr.215].
Đối với các hộ nghèo, dân tộc thiểu số, nông thôn, miền núi thường ít
có điều kiện được tiếp tục tham gia bậc học cao hơn, nhất là bậc học cao

đẳng, đại học và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Có rất nhiều lý do,
trong đó vấn đề chi phí tài chính của gia đình tác động nhiều đến việc học tập
ở bậc cao. Bởi lẽ, ở các bậc học càng cao, chi phí cho việc học tập càng lớn.
Do đó, đi học đồng nghĩa với việc gia đình phải tiếp tục chi phí, trong khi đó
những người đi học lại có khả năng lao động, góp phần tăng thêm thu nhập
cho gia đình. Ngoài ra, các yếu tố như: đi học xa, khó khăn trong phương tiện
đi lại, nhà trọ…cũng là rào cản đối lớn đối với việc tiếp tục học tập ở những
bậc học cao hơn của những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Việc được học tập ở những bậc học cao hơn có sự khác biệt giữa các
vùng miền cũng như điều kiện kinh tế của các gia đình. Trong một nghiên


22
cứu về sự bất bình đẳng giáo dục ở Việt Nam hiện nay của Tiến sĩ Đỗ Thiên
Kính, tác giả đã dựa trên cơ sở chi phí cho GD - ĐT giữa những gia đình
giàu và gia đình nghèo để đưa ra kết luận khoảng cách ngày càng tăng về chi
phí cho giáo dục: “Hệ số chi tiêu giáo dục đào tạo từ 0,564 năm 1993 lên
0,570 năm 1998. Như vậy, bất bình đẳng về giáo dục ở Việt Nam đã tăng
lên. Nói cách khác, hệ số sau 5 năm trên đây chứng tỏ sự bất bình đẳng về
giáo dục ở Việt Nam là không giảm, có thể thấy khuynh hướng ngày càng
tăng theo thời gian” [16, tr.50]. Chính sự khác biệt ngày càng tăng về việc
chi phí đầu tư cho giáo dục trên giữa những gia đình có điều kiện kinh tế
khác nhau đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc đến trường học tập cũng như học
ở những bậc học cao hơn của công dân. Vì vậy, thực hiện CBXH trong GD ĐT gắn chặt với công bằng về điều kiện, môi trường cho công dân được
tham gia học tập ở những bậc học cao hơn.
Thứ ba, công bằng trong đánh giá, tuyển dụng
Đây cũng là nội dung quan trọng của CBXH trong GD - ĐT. Nếu việc
đánh giá con người được thực hiện một cách nghiêm túc, đảm bảo công bằng
sẽ tạo động lực cho những người có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên
môn giỏi phát huy được khả năng của bản thân, cố gắng vươn lên trong học

tập, công tác; còn những người yếu kém sẽ thấy được khả năng của bản thân
để có sự cố gắng vươn lên hơn nữa. Ngược lại, việc đánh giá thiếu công bằng
sẽ làm xuất hiện tư tưởng “trung bình chủ nghĩa”, kìm hãm khả năng của mỗi
cá nhân, làm “thui chột” nhiều người tài năng. Đánh giá phẩm chất và năng
lực của mỗi cá nhân một cách công bằng trong quá trình GD - ĐT sẽ tạo ra
một môi trường dân chủ, phát huy được khả năng của mỗi người trong quá
trình học tập, rèn luyện. Đối với lĩnh vực GD - ĐT, việc đánh giá ở đây thể
hiện trên nhiều mặt như: đánh giá trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản
lý giáo dục và đội ngũ giáo viên; đánh giá năng lực học tập của học sinh, đặc
biệt là đánh giá về kết quả học tập. Hiện nay, GD - ĐT vẫn còn những biểu
hiện của sự thiếu công bằng và khách quan trong đánh giá kết quả học tập của


23
người học. “Bệnh thành tích” trong GD - ĐT đã trở thành vấn đề nhức nhối
của nền giáo dục Việt Nam. Do đó, cần phải có sự công bằng trong đánh giá
phẩm chất và năng lực của mỗi chủ thể, nhất là đánh giá đúng kết quả học tập,
công tác của mỗi cá nhân sẽ tạo điều kiện tốt để những người tài phát huy hết
khả năng về trí tuệ .
Thêm vào đó, công tác tuyển dụng cũng cần có sự công bằng. Chúng ta
cần có những tiêu chí cụ thể với mỗi ngành, mỗi vị trí và được công khai hóa
để mọi người cùng biết và thực hiện. Trong thi tuyển công chức, đảm bảo tính
khách quan, đánh giá đúng trình độ chuyên môn và phẩm chất năng lực, từ đó
có kế hoạch sử dụng đúng người, đúng việc; tránh tình trạng tuyển dụng thiếu
khách quan, có sự ưu ái đặc biệt với “con ông cháu cha”; hoặc tuyển người
không đúng chuyên môn. Điều đó dẫn đến tình trạng có người thực sự có
trình độ kiến thức và phẩm chất đạo đức không được trọng dụng nên chưa
khơi dậy và phát huy được nguồn nhân lực chất lượng cao, thậm chí còn có sự
bồi dưỡng nhầm đối tượng. Những hình thức bè phái, lợi ích cá nhân kiểu này
suy cho cùng chỉ làm mất lòng tin của nhân dân, làm suy giảm nhiệt huyết

cống hiến của mọi người.
Thứ tư, công bằng trong phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng
Với quan điểm “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, việc phát hiện,
bồi dưỡng và phát triển tài năng, nhất là những tài năng trẻ là một nội dung
quan trọng của CBXH trong GD - ĐT. Đảng ta đã xác định: “Hoàn thiện hệ
thống cơ chế, chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [2; tr.45] và “... tạo bước
chuyển căn bản trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và
đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia giỏi; xây dựng Chiến lược quốc gia về
nhân tài; coi đó là giải pháp rất quan trọng trong việc thực hiện chiến lược
cán bộ” [6; tr.246].
Nhân tài là người có những phẩm chất, năng lực vượt trội để có thể
đảm nhiệm một công việc hay một lĩnh vực hoạt động khó khăn, phức tạp và


24
đạt kết quả, hiệu quả, chất lượng rất cao, có khi cao nhất trong một phạm vi
nào đó; là người có trí tuệ cao, tri thức rộng, kỹ năng nghề nghiệp điêu luyện,
có lý tưởng chính trị, mục đích sống phù hợp với xu thế phát triển của xã hội
và có động cơ sống trong sáng vì xã hội. Nhân tài không dùng tài năng để
mưu cầu hạnh phúc riêng mà thường đem tài năng ấy đóng góp cho sự tiến bộ
và phát triển của cộng đồng, đất nước cũng như của cả nhân loại, được xã hội
thừa nhận, trọng dụng và tôn vinh. Vì vậy, trong phát hiện, bồi dưỡng và phát
triển tài năng phải thực sự công bằng, tức là không được dựa vào ý kiến cá
nhân chủ quan hoặc nể nang trong các mối quan hệ; cần phải có những hệ tiêu
chí cụ thể để đánh giá đúng tài năng của họ, bất kể thành phần giai cấp, dân
tộc, tôn giáo, giới tính…Nếu họ đáp ứng được đầy đủ những tiêu chí quy định
thì cần có sự lựa chọn, lên kế hoạch để bồi dưỡng và phát triển tài năng của
những người này. Qua đó, chúng ta sẽ đào tạo ra được những người thực sự
tài năng để đáp ứng với yêu cầu phát triển đất nước. Sự công bằng không chỉ

dừng lại ở việc lựa chọn đúng người có phẩm chất, năng lực mà cần phải có
những chế độ, chính sách ưu đãi thỏa đáng đối với những người đó. Do vậy,
sẽ tạo ra động lực thôi thúc họ học tập, rèn luyện phát triển tài năng để xây
dựng gia đình và xã hội. Chúng ta cần tạo ra môi trường thuận lợi nhất để
những tài năng của các cá nhân đó phát triển; đồng thời có hướng sử dụng
đúng người sau quá trình đào tạo.
* Những yếu tố chi phối đến công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo
Một là, công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo chịu sự chi phối có ý
nghĩa quyết định bởi trình độ phát triển kinh tế và bản chất xã hội
Cũng như các lĩnh vực khác: chính trị, y tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật,
…GD - ĐT phụ thuộc rất chặt chẽ vào trình độ phát triển kinh tế. Không thể nói
một quốc gia yếu kém về kinh tế lại có một nền giáo dục phát triển. Bởi vì, kinh
tế có phát triển mới tạo ra ngân sách dồi dào để chi phí cho hoạt động GD - ĐT
nói chung và việc thực hiện công bằng xã hội trong GD - ĐT nói riêng. Nó biểu
hiện rất rõ ở việc đầu cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị dạy học, tiền lương


25
chi trả cho hoạt động quản lý và giảng dạy; việc hỗ trợ kinh phí học tập cho các
đối tượng chính sách, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…Nếu
kinh tế phát triển mạnh, thu nhập của người dân cao là điều kiện tốt để đầu tư
cho GD - ĐT và thực hiện CBXH trong GD - ĐT. Theo đó, mạng lưới trường
lớp ở các địa phương, từ nông thôn đến thành thị, từ vùng đồng bằng ven biển
đến trung du, miền núi…sẽ được phát triển mạnh với việc đầu tư thích đáng.
Ngược lại, kinh tế chậm phát triển, ngân sách chi cho lĩnh vực giáo dục không
nhiều nên việc thực hiện CBXH trong GD - ĐT cũng bị hạn chế.
Trong khi xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, có ý nghĩa
quyết định đến việc thực hiện CBXH trong GD - ĐT, cần thấy được sự tác
động trở lại của nó đối với sự phát triển kinh tế. CBXH trong GD - ĐT sẽ góp
phần khơi dậy và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, trở thành động

lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Bên cạnh đó, bản chất của chế độ xã hội cũng tác động rất lớn đến
CBXH trong GD - ĐT. Dưới chế độ xã hội cũ, nhất là chế độ phong kiến, việc
học tập của nhân dân rất hạn chế, chủ yếu là con em tầng lớp địa chủ, quý tộc
mới có cơ hội, điều kiện để học tập. Đến chế độ tư bản, mặc dù vấn đề GD ĐT được quan tâm và mở rộng hơn song con em tầng lớp nhân dân lao động,
những người nghèo vẫn chưa thực sự có được cơ hội, điều kiện tốt nhất để
học tập và phát huy khả năng của bản thân. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa,
CBXH trong GD - ĐT được quan tâm đúng mức. Chính bản chất tốt đẹp của
chế độ xã hội đã tạo ra những cơ hội, điều kiện tốt nhất để mọi công dân phát
huy tài năng, trí tuệ xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.
Trình độ phát triển kinh tế và bản chất chế độ xã hội là những yếu tố
quyết định đến CBXH trong GD - ĐT; đồng thời thực hiện tốt CBXH trong
GD - ĐT tạo ra động lực to lớn thúc đẩy kinh tế phát triển, thể hiện được bản
chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo bị chi phối bởi trình
độ dân trí, phong tục, tập quán trong nhân dân


26
Trình độ dân trí là trình độ văn hoá, trình độ nhận thức và hiểu biết của
nhân dân về các lĩnh vực đời sống xã hội. Đây là yếu tố tác động rất lớn đến
việc hiện thực hoá các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Nếu trình độ dân trí cao sẽ là cơ sở để nhân dân hiểu biết,
nhận thức đúng đắn về tự nhiên, xã hội và sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động
thực tiễn của con người. Ngược lại, trình độ dân trí thấp, hoạt động thực tiễn
sẽ kém hiệu quả, chất lượng đời sống của nhân dân chậm được cải thiện, bộ
mặt xã hội chậm đổi mới.
Đối với lĩnh vực GD - ĐT, trình độ dân trí và thực hiện CBXH trong
GD - ĐT có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu trình độ dân trí thấp, nhân dân sẽ
không hiểu đúng về CBXH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước

ta nói chung và lĩnh vực GD - ĐT nói riêng. Vì vậy, quá trình hiện thực hoá
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về CBXH trong GD - ĐT sẽ
khó khăn hơn. Thậm chí, người dân còn có nhận thức không đúng dẫn tới
không thực hiện hoặc vi phạm các chính sách đó. Cho nên, trong khi thực
hiện CBXH trong GD - ĐT cần phải chú ý đến nâng cao trình độ dân trí của
nhân dân, coi đó là thước đo của chất lượng GD - ĐT. Mặt khác, thực hiện
CBXH trong GD - ĐT sẽ tác động lớn đến nâng cao trình độ dân trí. Bởi lẽ,
thông qua đó, mọi tầng lớp nhân dân có được cơ hội học tập nâng cao trình độ
kiến thức cũng như kỹ năng tay nghề.
Các phong tục, tập quán cũng tác động không nhỏ đến CBXH trong GD
- ĐT. Nó có thể tác động theo hai chiều hướng cơ bản, đó là tích cực và tiêu
cực. Những truyền thống “tôn sư trọng đạo”, “lá lành đùm lá rách”, “nhất tự
vi sư, bán tự vi sư”,…có tác động tích cực đến hoạt động giáo dục và CBXH
trong GD - ĐT. Bên cạnh đó, một số phong tục, tập quán lạc hậu như: trọng
nam, khinh nữ; văn hay chữ tốt không bằng thằng dốt lắm tiền; hoặc tư tưởng
kỳ thị các dân tộc thiểu số…là những lực cản đối với quá trình thực hiện
CBXH trong GD - ĐT. Do đó, cần khơi dậy và phát huy những phong tục, tập


27
quán tốt và hạn chế ảnh hưởng của các phong tục, tập quán lạc hậu trong quá
trình thực hiện CBXH trong GD - ĐT.
Ba là, công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo phụ thuộc vào các
chủ trương, chính sách về giáo dục - đào tạo và khả năng tổ chức thực
hiện trên thực tế
CBXH trong GD - ĐT chịu sự chi phối lớn bởi các chủ trương, chính
sách GD - ĐT của Đảng và Nhà nước. Đảng ta luôn có sự quan tâm đặc biệt
đối với nền giáo dục, coi đó là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Chúng ta sẽ không thể có chủ nghĩa xã hội với một nền giáo dục thấp kém và
trình độ dân trí thấp. Bởi GD - ĐT chính là động lực to lớn cho sự phát triển

kinh tế - xã hội. GD - ĐT công bằng sẽ giải phóng được nguồn lực con người,
khơi dậy và phát huy được những tiềm năng sẵn có của con người Việt Nam.
Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và
thường xuyên ban hành những chính sách cụ thể đối với GD - ĐT. Nhất là các
chính sách CBXH trong GD - ĐT cho mọi tầng lớp nhân dân. Đảng ta đã xác
định: “Phát triển GD - ĐT cùng với phát triển khoa học công nghệ là quốc
sách hàng đầu” [7, tr.77].
Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách
nhằm thực hiện CBXH trong GD - ĐT. Đặc biệt, đối với những vùng sâu,
vùng xa, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ đặc biệt để mọi
người được học tập. Chính sách phổ cập tiểu học, xoá mù chữ ở các địa
phương trong cả nước được tổ chức triển khai có hiệu quả trên thực tế; chính
sách đầu tư về cơ sở vật chất, phân bố giáo viên về vùng sâu, vùng xa cũng
được hiện thực hoá. Việc miễn giảm học phí, cho vay vốn để những học sinh,
sinh viên nghèo, có điều kiện hoàn cảnh khó khăn đã tạo cơ hội cho mọi công
dân có điều kiện được học ở những bậc học cao hơn. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng
lại ở việc ban hành các chủ trương, chính sách đối với lĩnh vực GD - ĐT sẽ
không thể có được sự công bằng thực sự trong lĩnh vực này. Điều quan trọng


×