1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại
của dân tộc ta. Nó đập tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xóa bỏ chế độ
phong kiến lỗi thời đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân
chủ là một nội dung quan trọng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là
mục tiêu, vừa là động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng
lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, vừa là bản chất và đặc trưng của chế độ mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định:
"Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền nếp hàng ngày của xã hội
mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình".
Trong quá trình xây dựng đất nước, quyền dân chủ của nhân dân ngày
càng được mở rộng, nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước trước hết và
chủ yếu thông qua các cơ quan dân cử. Trong những năm 80 - 90 của thế kỷ
XX tình hình vi phạm quyền dân chủ, tệ quan liêu tham nhũng diễn ra trầm
trọng dẫn đến tình trạng khiếu kiện tập thể, sự phản ứng mạnh mẽ của nhân
dân, làm giảm mạnh lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền.
Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hóa một bước chỉ thị này, ngày
15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/NĐ-CP ban hành kèm theo Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã và đã được sửa đổi, bổ sung thay thế bằng Nghị định
số 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003 (quy chế này áp dụng cho cả phường và thị trấn,
sau đây gọi là Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở). Đây là những văn bản
2
quan trọng do Đảng và Nhà nước ban hành nhằm tiếp tục phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng,
chuyên quyền độc đoán, hống hách, xa rời quần chúng, tạo động lực mạnh mẽ
trong nhân dân, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ngoài
những mặt tích cực đạt được đã bộc lộ những điểm chưa hoàn chỉnh như:
Tính dân chủ hóa, công khai hóa trong việc cung cấp những thông tin có liên
quan trực tiếp đến đời sống hằng ngày của nhân dân ở cơ sở còn hạn chế.
Việc thực hiện chế độ lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành chủ trương
chính sách của chính quyền còn mang tính hình thức, kém hiệu quả, chưa quy
định rõ ràng trách nhiệm của chính quyền trong việc thực hiện Quy chế dân
chủ. Còn thiếu các phương thức cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một nội dung quan trọng của việc thực hiện
quyền dân chủ ở cơ sở. Nhiều địa phương và người dân còn xem nhẹ nghĩa vụ
phải thực hiện các nội dung của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở; chưa có
những chế tài cụ thể đối với những hành vi cản trở hoặc không thực hiện các
nội dung của quy chế.
Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Việc triển
khai nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở
Việt Nam hiện nay" là việc làm cần thiết có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận
và thực tiễn đáp ứng yêu cầu bức xúc hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ nói chung được rất nhiều nhà khoa
học và các tác giả khác quan tâm nghiên cứu, điển hình như: VI. Lênin: Bàn
về dân chủ trong quản lý xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Thái
Ninh - Hoàng Chí Bảo: Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự
3
thật, Hà Nội, 1991; Hoàng Chí Bảo: Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp
nghiên cứu, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9/1992; Nguyễn Đăng Quang: Một
cách tiếp cận khái niệm dân chủ, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9/1992;
PGS.TS Vũ Minh Giang: Thiết chế làng xã cổ truyền và quá trình dân chủ
hóa hiện nay ở nước ta, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9/1992; Lê Văn Tuấn:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ, Tạp chí Thông tin lý luận, số
9/1992; TS. Đỗ Trung Hiếu: Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt
Nam hiện nay (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Đào
Trí Úc: Củng cố các hình thức dân chủ và sự vững mạnh của nhà nước ta,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/1998; Nguyễn Đăng Dung: "Dân chủ"
làng xã - Những vấn đề cần phải đặt ra nghiên cứu, Tạp chí Cộng sản, số
6/1998; Lê Minh Thông: Tăng cường cơ sở pháp luật về dân chủ trực tiếp ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2000;
Lê Hồng Hạnh: Bàn về các đảm bảo pháp lý của dân chủ, Tạp chí Quản lý
nhà nước, số 4(51), 2000; Trần Thị Băng Thanh: Vai trò của Nhà nước đối
với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học bảo vệ năm 2002 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
Nghiên cứu về Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, các bài viết, công
trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở chỗ: Tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Đánh
giá, tổng kết những thành tựu và những khó khăn sau hơn 6 năm thực hiện
Quy chế dân chủ ở cấp xã như: Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã một số
vấn đề lý luận và thực tiễn (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000 do PGS. TS. Dương Xuân Ngọc chủ biên; sách chuyên khảo của tác giả
TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông (đồng chủ biên): Thực hiện quy
chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003; cuốn: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong
4
tình hình hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn do PGS.TS Nguyễn Cúc
(chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; cuốn: Các đoàn thể nhân
dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay do TSKH. Phan Xuân Sơn
(chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh: Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; PGS.TS. Vũ Văn Hiền (chủ
biên): Phát huy dân chủ ở xã, phường và cuốn: Dân chủ ở cơ sở qua kinh
nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện
nay (Đề tài cấp bộ năm 2002 - 2003) do Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì).
Ngoài ra, còn có rất nhiều các bài viết đăng trên các báo, tạp chí về
tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của các địa phương trong cả nước
như: Trương Quang Được: Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 12/2002; Phạm Gia Khiêm:
Thực hiện Quy chế dân chủ với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, Tạp chí
Cộng sản, số 9/2000; Lê Khả Phiêu: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 4/1998;
Đỗ Mười: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản,
số 20/1998; Trần Quang Nhiếp: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở sau hai
năm nhìn lại, Tạp chí Cộng sản, số 11/2000...; Phạm Quang Nghị: Thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở ở Hà Nam, Tạp chí Cộng sản, số 5/2000; Nhật Tân:
Hà Nội sau 5 năm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí
Cộng sản, số 32/2003; Nguyễn Đại Khởn: Kết quả và kinh nghiệm bước đầu
sau 5 năm triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Nam Định, Tạp
chí Tổ chức Nhà nước, số 7/2004; Lê Kim Việt: Qua ba năm thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở ở nông thôn, Tạp chí cộng sản, số 18/2002...
5
Nhìn chung, các bài viết đã lý giải về tính tất yếu phải xây dựng và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, qua thực tiễn khảo sát việc thực hiện quy
chế ở các địa phương, vùng miền trong cả nước để đưa ra những thành tựu đã
đạt được của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã cũng như rút ra những
bất cập, hạn chế, vướng mắc của Quy chế, mà chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách có hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã và hoàn
thiện pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện
nay. Tuy nhiên, những tài liệu nêu trên có giá trị tham khảo tốt cho tác giả
trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật về thực hiện dân chủ hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương
đối rộng, bao gồm nhiều loại như: Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở (xã,
phường, thị trấn), quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp... Luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở (được ban
hành kèm theo Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ, đã
được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003). Trong đó, tập
trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở,
thực trạng quy chế và thi hành Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở từ năm
1998 đến nay. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và các giải pháp cơ bản
nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở trong điều kiện mới.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân chủ và Quy chế
thực hiện dân chủ ở cơ sở, từ thực trạng Quy chế và thi hành Quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số phương
6
hướng và các giải pháp pháp lý cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện
dân chủ ở cơ sở trong thời kỳ mới.
Nhiệm vụ
Từ mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Đưa ra khái niệm, phạm vi điều chỉnh và vai trò của Quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở; xác định các tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân
chủ ở cơ sở.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng Quy chế và thi hành Quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
+ Đối chiếu, liên hệ với những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới
của đất nước, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, bước đầu
đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện
dân chủ ở cơ sở.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
xây dựng nền dân chủ XHCN, về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói
chung và về lý luận xây dựng pháp luật nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp nghiên cứu
của chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Lịch sử - cụ thể; phân tích - tổng hợp, kết hợp với các phương pháp nghiên
cứu khác: Thống kê, so sánh...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu xác định khái niệm quyền dân chủ, khái niệm
thực hiện quyền dân chủ, tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở.
7
- Phân tích, đánh giá một cách tương đối có hệ thống toàn diện thực
trạng và những nguyên nhân tồn tại của Quy chế và thực thi Quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp pháp lý cơ bản nhằm
hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay và hoàn
thiện các quy định của pháp luật có liên quan trong điều kiện mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện
nay đang đặt ra đối với hoạt động thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở xã, phường,
thị trấn.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy trong các trường chính trị, pháp lý cũng như nghiên cứu hoàn thiện
pháp luật thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ HOÀN THIỆN QUY CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ DÂN CHỦ VÀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA
1.1.1. Dân chủ và quyền dân chủ trong học thuyết Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Quan điểm chung về khái niệm dân chủ
Dân chủ là một thuật ngữ đã xuất hiện trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại.
Theo tiếng Hy Lạp thì "dân chủ" là một từ ghép của hai từ Demos (người bình
dân) và Kratos (quyền lực). Như vậy, với nguyên nghĩa của từ dân chủ có
nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực của nhân dân. Từ điển Bách
khoa Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của
xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa
nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ
chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định" [61, tr.
653].
Như vậy, với nghĩa chung nhất, dân chủ được sử dụng như một tiêu
chí để đánh giá mức độ và tính chất của các nhà nước trong việc tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước hoặc tính chất của những xã hội. Dân chủ còn
là tiêu chí để chỉ cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực. Cho đến nay, khái
niệm dân chủ đã có sự mở rộng và phát triển. Theo đó, dân chủ được hiểu là
cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước; nguyên tắc tổ chức và
9
quản lý xã hội; là những giá trị đánh giá tính chất nhà nước, xã hội và nó cũng
là tư tưởng, học thuyết...
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ XHCN
"Dân chủ" theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hiện tượng
lịch sử gắn liền với xã hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức
khác nhau trong điều kiện của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong xã hội
XHCN, "dân chủ" có một chất lượng mới, nội dung "quyền lực thuộc về nhân
dân" được phát triển đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, giải
phóng sức sản xuất, vượt qua lợi ích ích kỷ của giai cấp thống trị. Nhờ vậy,
dân chủ là yếu tố bảo đảm cho quá trình giải phóng và phát triển toàn diện
con người, đem lại cho họ quyền làm chủ cuộc sống, quyền sáng tạo và sản
xuất của cải vật chất, tinh thần cho xã hội, trong đó, "sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [34, tr.
569].
"Dân chủ", theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết là một
hình thức nhà nước. Nhà nước đó, một mặt thực hiện dân chủ và mặt khác thực
hiện trấn áp đối với giai cấp khác trong xã hội, V.I. Lênin viết: "Chế độ dân chủ,
đó là một nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức
bảo đảm cho một giai cấp thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại
một giai cấp khác" [30, tr. 101]. Vì vậy, trong lịch sử xã hội loài người, dân
chủ luôn mang tính giai cấp, nó tồn tại dưới những hình thức cụ thể, biến đổi
cùng với sự thay đổi của phương thức sản xuất và kết cấu giai cấp của xã hội.
Dân chủ là một quá trình phát triển, là kết quả của các cuộc đấu tranh
của nhân dân. Do vậy, dân chủ XHCN là một hiện tượng hợp quy luật, là
bước phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ trong lịch sử mà bản
chất của nó là nhằm giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột và tạo điều kiện
để con người được phát triển toàn diện. Theo C.Mác, chế độ dân chủ XHCN
10
thực chất là chế độ "do nhân dân tự quy định nhà nước", từ việc nhân dân tổ
chức bầu cử để hình thành bộ máy nhà nước đến tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước dựa trên nguyên tắc do dân và vì dân cũng như việc kiểm tra,
giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong chế độ dân chủ, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà
nước. Điều đó được thể hiện ở chỗ: nhân dân tự tổ chức (bầu cử) quyền lực
nhà nước; nhân dân có quyền tham gia quản lý và quyết định những vấn đề
quan trọng của nhà nước (trưng cầu dân ý); nhân dân có quyền kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tư tưởng này của Mác về sau được
Lênin tiếp thu và phát triển trong một điều kiện mới với tư tưởng "chủ nghĩa
xã hội sẽ không chiến thắng nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ".
Lênin đã khái quát quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị của nhân dân thành
ba nội dung lớn đó là: Quyền bầu cử; quyền tham gia quản lý các công việc
của nhà nước và quyền bãi miễn.
Như vậy, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì dân chủ XHCN sẽ có những
đặc điểm cơ bản sau:
+ Dân chủ cho nhân dân lao động (số đông).
+ Dân chủ thực sự. Tức là biến "dân chủ" từ khẩu hiệu trở thành hành
động thực tế thông qua vai trò của nhà nước.
+ Dân chủ XHCN là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực, chính trị,
kinh tế, tư tưởng, văn hóa... Thực chất của dân chủ XHCN là sự tham gia một
cách thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào
quản lý công việc của nhà nước và xã hội. Thống nhất được quyền và nghĩa
vụ của công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Vì vậy, nó trở thành mục
tiêu và động lực của sự phát triển xã hội.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
11
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về "dân chủ" của nhân loại, Hồ Chí
Minh đã tiếp cận và lý giải khái niệm "dân chủ" một cách đơn giản, nhưng hết
sức cô đọng và điều quan trọng là mọi người (đặc biệt là người dân) dễ hiểu,
dễ thực hiện, dễ kiểm soát. Người nói: "Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là
dân làm chủ" [42, tr. 251].
Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" [38, tr.
515]. Hoặc có lúc Người viết:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [37, tr. 698].
Như vậy, "dân là chủ" và "dân làm chủ" là cốt lõi trong khái niệm
"dân chủ" mà Hồ Chí Minh giải thích.
Quan niệm trên đây của Hồ Chí Minh cho thấy nội dung của dân chủ
đã thể hiện được nội dung căn bản nhất của loài người về khái niệm dân chủ quyền lực thuộc về nhân dân. Quan điểm "dân là chủ", "dân làm chủ" là quan
điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một chế độ xã hội
mới, một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, mà trong đó địa vị của người dân từ
một người dân mất nước (nô lệ) trở thành chủ nhân ông của xã hội với tư cách
là một "công dân" và nhà nước đó đã bảo đảm quyền "là chủ" đó của công
dân để họ trở thành người "làm chủ" trong việc xây dựng nhà nước và xã hội.
12
Do vậy, thực hành dân chủ (biến dân chủ trở thành hiện thực) được Hồ Chí
Minh xem như là chiếc "chìa khóa vạn năng" để đi đến thành công.
1.1.1.2. Quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Khái niệm quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nếu hiểu dân chủ là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân
làm chủ xã hội và tham gia vào việc quản lý xã hội, thì quyền dân chủ là tất cả
những quyền năng nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước của người dân
được luật pháp ghi nhận. Đó là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định
quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và các chủ thể khác
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nó bao gồm các quyền về dân sự,
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Như vậy, khi nói tới quyền dân chủ hay các giá trị dân chủ được thể
chế hóa, trước hết phải xác định nguồn gốc của nó là do pháp luật thừa nhận
và quy định phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị của xã hội trong từng thời
kỳ. Sau đó Nhà nước bảo đảm cho các giá trị đó được thực hiện trên thực tế.
Quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật
do Nhà nước XHCN ban hành và bảo đảm thực hiện, bao gồm các quy định
về quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và các chủ thể khác
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… bảo đảm cho nhân dân
là chủ thể của quyền lực nhà nước.
- Quyền dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
+ Quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị:
Đây là nhóm quyền quan trọng và trước hết đối với người dân của bất kỳ
một quốc gia nào. Nó xác định tư cách hay địa vị của công dân trong xã hội.
Dân chủ trong lĩnh vực chính trị, theo Lênin:
13
Áp dụng chế độ dân chủ Xô viết, tức là chế độ dân chủ vô
sản một cách cụ thể nhất… trước hết các cử tri đều phải là quần
chúng cần lao và bị bóc lột… Hai là: Mọi thủ tục và những hạn chế
có tính quan liêu đều bị xóa bỏ, quần chúng tự quy định lấy thể thức
và thời hạn bầu cử, hoàn toàn có quyền tự do bãi miễn những người
mà họ bầu ra [28, tr. 343].
Ở Việt Nam, nhân dân là chủ thể chân chính và duy nhất của quyền lực
xã hội; Nhà nước, pháp luật và các thiết chế công quyền chỉ là đại diện thừa
hành, hay công cụ tiện dụng của nhân dân, nhằm thực hiện quyền lực ấy một
cách có tổ chức và hiệu quả. Quyền chính trị là các quyền xác định khả năng của
công dân vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, bao gồm: Quyền có quốc
tịch, quyền được sống trong một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; các quyền bầu cử là quyền được lựa chọn hay bãi nhiệm những
đại biểu đại diện cho mình để thiết lập nên các cơ quan đại diện (cơ quan quyền
lực nhà nước), hay tự mình ứng cử để tham gia vào các cơ quan quyền lực
nhà nước. Quyền khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật,
tham nhũng, xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích chính đáng của
công dân; các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, lập hội, hội họp, biểu
tình.
+ Quyền dân chủ trong lĩnh vực dân sự, kinh tế:
Trong lĩnh vực dân sự: Là các quyền tự nhiên, gắn liền với mỗi con
người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ bao gồm: Các quyền nhân thân
(quyền đối với họ, tên, hình ảnh, quyền đối với quốc tịch, nơi cư trú, quyền
được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bí mật đời tư, quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, đi lại…); các quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản;
quyền tham gia quan hệ pháp luật dân sự… Quyền dân sự cho phép con người
bảo vệ được cá tính là chính mình trong quan hệ với nhà nước và người khác.
Các quyền dân sự là tiền đề để xây dựng một chế độ Nhà nước dân chủ.
14
Trong lĩnh vực kinh tế: Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính
sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần với các hình thức, tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa
trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
Các quyền trong lĩnh vực kinh tế gắn liền với việc bảo đảm cho cá
nhân tự do sử dụng các đồ dùng và các yếu tố cơ bản của hoạt động sản xuất các điều kiện sản xuất và sức lao động là một trong các điều kiện quan trọng
nhất cho sự tồn tại của xã hội công dân với tư cách là cơ sở xã hội của chế độ
dân chủ và cho sự bảo đảm tự do của cá nhân.
Các quyền kinh tế ngày càng được mở rộng cho cá nhân, đó là việc
nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, các cá
nhân có quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh trong cơ chế bình đẳng,
công bằng, công khai giữa các thành phần kinh tế.
+ Các quyền dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội:
Nhóm các quyền này quy định nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho
người dân những điều kiện sinh tồn xứng đáng, những phúc lợi và dịch vụ vật
chất tối thiểu để duy trì cuộc sống của con người, phát triển tinh thần trong
một môi trường bao quanh lành mạnh. Khi đó, các quyền xã hội sẽ bao gồm
quyền được bảo hiểm xã hội, có nơi ở, hưởng an toàn lao động, bảo vệ sức
khỏe... Các quyền văn hóa có nhiệm vụ bảo đảm sự phát triển tinh thần của cá
nhân, đó là quyền học tập, tự do sáng tạo, tận hưởng các giá trị văn hóa…;
các quyền sinh thái là quyền có một môi trường bao quanh tốt lành, có thông
tin đáng tin cậy về thực trạng của nó.
15
Trên đây là những quyền dân chủ cơ bản của cá nhân cần được bảo
đảm và thực hiện trong một chế độ nhà nước dân chủ. Mức độ thực hiện
chúng trên thực tế là thước đo tính dân chủ của mỗi nhà nước.
Mở rộng và thực hiện các quyền dân chủ chính là mục đích mà Nhà
nước XHCN đang cố gắng đạt tới nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân.
1.1.2. Thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1.2.1. Khái niệm thực hiện quyền dân chủ
Pháp luật ghi nhận các quyền dân chủ của công dân trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, song dù ghi nhận đầy đủ đến đâu cũng trở nên không có
ý nghĩa nếu như các quyền đó không được thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy,
thực hiện quyền dân chủ là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp luật ghi
nhận quyền dân chủ của công dân. Thực hiện quyền dân chủ là một trong
những hình thức thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước XHCN. Thực hiện
quyền dân chủ là một hình thức thực hiện pháp luật, là một hoạt động có mục
đích nhằm đưa những quy định của pháp luật vào thực tế cuộc sống. Thực
hiện quyền dân chủ là hoạt động do nhiều chủ thể tiến hành (Nhà nước, tổ
chức, công dân...), vì vậy, việc thực hiện quyền dân chủ sẽ phụ thuộc vào ý
chí của mỗi chủ thể, song trong đó ý chí của Nhà nước vẫn giữ vai trò quyết
định.
Từ những căn cứ trên, theo chúng tôi, khái niệm thực hiện quyền dân
chủ có thể được hiểu như sau:
Thực hiện quyền dân chủ là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực
hóa các quy định của pháp luật về dân chủ, làm cho chúng đi vào cuộc sống,
trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Thực
hiện quyền dân chủ là quá trình cụ thể hóa phương châm: "Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra".
16
1.1.2.2. Các phương thức thực hiện quyền dân chủ
Dân chủ đại diện
Dân chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ chủ thể
quyền lực mà thông qua đại diện có thẩm quyền do chủ thể bầu ra. Chủ thể
quyền lực (tức nhân dân) vẫn giữ cho mình quyền và chức năng tác động,
giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan đại diện. Dân chủ đại diện là
một hình thức thực hiện dân chủ quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong quy trình
thực hiện quyền lực của nhân dân và đã được thực tiễn hoạt động Nhà nước
trong các quốc gia dân chủ ghi nhận. Hình thức đầu tiên của chế độ dân chủ
đại diện là chế độ đại nghị tư sản, ra đời trong lòng chế độ quân chủ phong
kiến chuyên chế, trở thành công cụ của giai cấp tư sản trong quá trình đang
lên. Ở Việt Nam, dân chủ đại diện với các quan điểm của chế độ "dân ủy" đã
được khẳng định ngay trong Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp 1946) và tiếp tục
khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp sau này. Điều 6 Hiến pháp 1992
quy định: "Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân". Như vậy, hình
thức chủ yếu của dân chủ đại diện ở nước ta là thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân (HĐND) các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn làm chủ thông qua
các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp của nhân dân được lập nên
theo nguyên tắc tự nguyện.
Tuy nhiên, dân chủ đại diện dù có ý nghĩa quan trọng đến mấy vẫn
không thể khắc phục được những hạn chế của chế độ nhà nước với tính cách
là chủ thể quyền lực được ủy quyền nhưng lại trực tiếp thực hiện quyền năng
của người ủy quyền là nhân dân. Do vậy, trong một phạm vi, mức độ đáng kể
nhân dân vẫn bị tách khỏi quyền lực nhà nước và không phải lúc nào những
ủy quyền của nhân dân cũng được thực thi đúng. Vẫn có nguy cơ về căn bệnh
tha hóa quyền lực, quan liêu hóa bộ máy nhà nước, sự cồng kềnh, kém hiệu
17
quả của các thiết chế quyền lực, sự xuất hiện một bộ phận cán bộ đặc quyền,
đặc lợi trong bộ máy nhà nước sẽ khó khắc phục nổi nến thiếu các nỗ lực của
các lực lượng quần chúng nhân dân. Để khắc phục tình trạng đó cần phải có
sự tham gia tích cực và chủ động của nhân dân với tư cách là chủ thể duy nhất
và tối cao của quyền lực nhà nước - Đó chính là chế độ dân chủ trực tiếp.
Dân chủ trực tiếp
Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể
quyền lực về những vấn đề cơ bản, chính yếu của một tập thể, một cộng đồng.
Cơ quan quản lý có trách nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảo đảm đưa nó vào
thực thi trong cuộc sống.
Dưới góc độ pháp lý, dân chủ trực tiếp được thể hiện ở ba nhóm
quyền năng cơ bản của nhân dân là: Các quyền năng thể hiện, xác lập ý chí
trực tiếp của nhân dân đối với các vấn đề quốc gia, dân tộc (đưa ra các sáng
kiến, thỉnh nguyện, trưng cầu ý dân…); các quyền năng đối với tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước trong khuôn khổ phạm vi được ủy quyền theo
luật định (quyền lập ra bộ máy nhà nước; quyền giám sát các hoạt động của
bộ máy nhà nước; quyền bãi miễn các đại biểu do nhân dân bầu vào cơ quan
đại diện và quyền lực nhà nước…); các quyền năng của nhân dân trực tiếp
giải quyết các công việc của cộng đồng mà không cần có sự can thiệp trực tiếp
của công quyền.
Dân chủ trực tiếp có vị trí, vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với
toàn bộ đời sống dân chủ của đất nước được thể hiện trên những điểm chính
sau đây:
- Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là phát huy cao độ mọi tiềm
năng, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước và xã hội, giải
quyết những vấn đề lớn từ quốc kế dân sinh đến những việc của đời sống
cộng đồng, dân cư. Thông qua hình thức dân chủ trực tiếp, nhân dân có điều
18
kiện tham gia ý kiến, có điều kiện để tập dượt, trưởng thành, trở thành người
chủ đích thực. Một Nhà nước biết lắng nghe và học hỏi dân, biết bồi dưỡng và
nâng cao đời sống của dân thì nhân dân không chỉ nói lên điều mình mong
muốn mà còn gợi ý, kiến nghị và chỉ ra rằng Nhà nước cần phải hành động
như thế nào, bằng phương pháp và công cụ nào để giải quyết các vấn đề kinh
tế - xã hội. Thực tiễn của những năm đổi mới vừa qua đã chứng tỏ rằng,
những sáng kiến đầy tâm huyết của nhân dân là một nguồn trí tuệ vô cùng quý
giá góp phần to lớn hoàn thiện những chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, tạo ra những bước phát triển vững chắc của đất nước trên
con đường phát triển và hội nhập.
- Dân chủ trực tiếp tạo nên cơ chế đối trọng, kiểm tra, giám sát đối với
hình thức dân chủ đại diện, với bộ máy nhà nước, giảm bớt sự tùy tiện, lạm
quyền, phát huy được tính tự giác, tích cực của mỗi thành viên trong một tập
thể, một cộng đồng. Khắc phục thói quen trì trệ, ỷ lại, trông chờ người khác;
phát huy truyền thống tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, tăng cường sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh".
Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất, những thông
tin phản hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu quả của các đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm
lại đường lối, chính sách của mình một cách nhanh nhất, kịp thời sửa chữa, bổ
sung, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, xa với thực tế, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Tăng cường và hoàn thiện các chế độ thực hiện dân chủ của nhân dân
là việc làm lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước để bảo đảm mỗi
bước phát triển của dân chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp
luật có tính chất mở đường định hướng cho sự phát triển của mỗi quốc gia,
dân tộc. Nhưng việc phát huy và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ
19
phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, truyền thống văn hóa, phong tục,
tập quán của mỗi quốc gia, dân chủ đi đôi với kỷ cương, quyền hạn gắn với
trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUY CHẾ VÀ HOÀN THIỆN QUY
CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.2.1. Khái niệm Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Quyền dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp, luật
và các văn bản dưới luật khác. Để thực hiện quyền dân chủ của công dân đòi
hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các nhân viên nhà nước, các cán bộ,
công chức và mọi công dân phải triệt để tuân thủ pháp luật. Nói cách khác,
thực hiện quyền dân chủ là tất cả các quyền dân chủ do pháp luật quy định
được tôn trọng và thực hiện trên thực tế. Thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở là
việc chính quyền (HĐND, Ủy ban nhân dân (UBND)) và các đoàn thể ở xã,
phường, thị trấn phải thực hiện một số hành vi nhất định để công dân thực
hiện được các quyền dân chủ của mình. Việc thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở
được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành. Hiện nay, văn
bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở là Quy chế thực hiện
dân chủ ở cơ sở (ban hành kèm theo Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày
7/7/2003 của Chính phủ).
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là văn bản quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa chính
quyền cơ sở với công dân trong việc phải thông tin kịp thời và công khai
những việc để dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những
việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định; những việc
dân giám sát kiểm tra và việc xây dựng cộng đồng dân cư thôn.
1.2.2. Phạm vi điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
20
Phạm vi điều chỉnh của pháp luật (nói chung) là giới hạn điều chỉnh
của hệ thống pháp luật nhưng không phải là giới hạn chung cho tất cả các chế
định pháp luật và các ngành luật. Mỗi chế định pháp luật, mỗi ngành luật đều
có phạm vi điều chỉnh riêng, đó là những quan hệ xã hội cùng loại thuộc một
lĩnh vực của đời sống xã hội cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Ví dụ: Luật
dân sự có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản; luật hành chính có đối tượng
điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện
chức năng quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước…
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là một chế định pháp luật do vậy
nó cũng có đối tượng điều chỉnh riêng. Đối tượng điều chỉnh của Quy chế
thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng được xác định trên cơ sở lý luận về đối tượng
điều chỉnh của pháp luật nói chung, nghĩa là Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ
sở chỉ điều chỉnh trong giới hạn xác định hoạt động của chính quyền cấp xã,
phường, thị trấn liên quan đến quyền dân chủ của công dân.
Hiện nay Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ban hành kèm theo Nghị
định 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ có phạm vi điều chỉnh gồm:
Thứ nhất: Những việc cần thông báo để nhân dân biết
Đây là những nội dung rất quan trọng đối với nhân dân nó liên quan
đến các quyền và lợi ích thiết thân của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Chính quyền cấp xã có trách nhiệm phối hợp với ủy ban Mặt trận Tổ quốc
(MTTQ) Việt Nam, các thành viên của MTTQ Việt Nam cùng cấp và Trưởng
thôn để thông báo cho nhân dân biết những nội dung này bằng nhiều hình thức.
Thứ hai: Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp
Đây là những nội dung liên quan đến quyền lợi trực tiếp của nhân dân,
nhân dân có quyền quyết định trực tiếp những công việc này, phù hợp với
21
pháp luật. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm xây dựng phương án, chương
trình, kế hoạch để nhân dân xem xét, bàn bạc và quyết định. UBND cấp xã
phối hợp với MTTQ Việt Nam cùng cấp chỉ đạo Trưởng thôn và Trưởng ban
công tác mặt trận tổ chức thực hiện những vấn đề do nhân dân tự quyết định
đã được UBND xã công nhận.
Thứ ba: Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, chính quyền xã
quyết định
Đây là những công việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền
cấp xã hoặc của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng có liên quan đến việc phát
triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương. Nhân dân được bàn bạc,
tham gia ý kiến. Chính quyền cấp xã tổ chức lấy ý kiến nhân dân công khai để
dựa vào đó mà ban hành quyết định hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Thứ tư: Những việc nhân dân giám sát kiểm tra
Đây là những nội dung liên quan đến hoạt động quản lý, điều hành
của chính quyền cấp xã, nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra đối với các
hoạt động ấy bằng nhiều hình thức khác nhau. Chính quyền cấp xã có trách
nhiệm giải quyết và trả lời những nội dung mà nhân dân quan tâm theo thẩm
quyền.
Thứ năm: Xây dựng cộng đồng dân cư thôn
Nhằm thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi để phát huy
các hình thức hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư và là nơi tổ chức cho
nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao. Tổ chức thôn được thành lập, Trưởng
thôn là người đại diện cho nhân dân trong thôn do nhân dân bầu và được Chủ
tịch UBND xã công nhận. Thôn xây dựng hương ước, quy ước về công việc
nội bộ cộng đồng dân cư, kế thừa và phát huy thuần phong, mỹ tục của cộng
đồng, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành nhằm bài trừ hủ tục, mê
22
tín dị đoan, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh
môi trường, xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, văn minh.
Xác định phạm vi điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
có ý nghĩa hết sức quan trọng, một mặt giúp cho chính quyền thấy được
những nội dung công việc cụ thể phải thực hiện, mặt khác để người dân thực
hiện quyền dân chủ trong khuôn khổ của pháp luật tránh việc lợi dụng dân
chủ để gây mất đoàn kết nội bộ, phá rối trật tự công cộng hoặc có những hành
vi chống phá chính quyền nhân dân.
1.2.3. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.2.3.1. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở với việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
Hệ thống pháp luật XHCN Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, được quy định thành các chế định pháp luật,
các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định [24, tr. 173].
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở được ban hành kèm theo Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 được sửa đổi thay thế bằng Quy chế thực hiện
dân chủ ở cơ sở ban hành kèm theo Nghị định 79/1998/NĐ-CP ngày 7/7/2003
là một chế định pháp luật hợp thành của hệ thống pháp luật Việt Nam. Sự ra
đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước trong thời kỳ mới. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN là những quan
hệ xã hội quan trọng phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Đồng thời, Quy
chế thực hiện dân chủ đã thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng là: Quyền
làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan
liêu, mệnh lệnh cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn
đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được.
23
Phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể
hóa và thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống… phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan
liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng (Chỉ thị 30/CT-TW ngày 18/2/1998).
Trong phạm vi điều chỉnh của mình, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
góp phần nâng cao hiệu quả tác động của các ngành luật khác như: "Luật tổ chức
Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân, Luật khiếu nại, tố cáo; Luật bầu cử Quốc
hội; Luật bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp". Có thể xem Quy chế thực hiện
dân chủ ở cơ sở như một văn bản "tố tụng" về dân chủ, nó đã thúc đẩy các cơ
quan nhà nước, các nhà chức trách thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ pháp
lý để bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân theo quy định của pháp
luật.
Như vậy, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam, "nó" không chỉ là công cụ thể chế hóa một số
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phục vụ sự nghiệp phát
triển đất nước mà còn đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả tác động
của các ngành luật khác.
1.2.3.2. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở trong đời
sống xã hội
Với các quan điểm chỉ đạo trong quá trình xây dựng Quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở là:
Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong
cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ", coi trọng cả ba mặt nói trên, không vì
nhấn một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp các mặt khác. Vừa phát huy tốt
chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động
24
của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
các cấp vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để
nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan
trọng thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình. Phát huy dân chủ
phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí, tạo
điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả [14, tr. 2].
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ra đời đã có vai trò hết sức quan
trọng trong đời sống xã hội thể hiện trên các lĩnh vực.
* Trong lĩnh vực chính trị
Nhân dân có nhu cầu ổn định chính trị, an ninh, trật tự ở nơi mình sinh
sống làm điều kiện tiên quyết để an tâm sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh
tế, đời sống mọi mặt. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, khi dân được cung cấp đầy đủ
thông tin, hiểu đúng đắn và đầy đủ chính sách pháp luật của Nhà nước và các
quyền cơ bản của mình, thì khi đó nhân dân giác ngộ và quyền dân chủ mới
được phát huy một cách lành mạnh và đúng hướng.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở đã cho nhân dân thấy được vai trò
làm chủ thực sự của mình, họ thực sự là chủ thể của quyền lực nhà nước, là
đối tượng kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước. Được tham gia tổ chức
và tự giác trong bầu cử trực tiếp ra các cơ quan nhà nước của mình (bầu Quốc
hội, HĐND các cấp). Được nâng cao dân trí, hiểu biết cơ bản về đường lối,
chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước để có
hiểu biết, có ý thức pháp luật, hiểu rõ quyền hạn, quyền lợi, trách nhiệm,
nghĩa vụ của công dân… một cách ngày càng rõ ràng đúng đắn. Được tham
gia bảo vệ Đảng, chính quyền bằng việc giám sát, kiểm tra, góp ý xây dựng,
phê bình… đối với đảng viên, cán bộ nhà nước và đoàn thể các cấp. Phát
hiện, ngăn chặn các biểu biểu hiện sai trái, tiêu cực. Được tham gia quản lý
25
nhà nước trực tiếp ở cấp cơ sở theo phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra:
* Trong lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ra đời phù hợp với ý Đảng, lòng
dân, nâng cao hơn quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, nhân dân được bàn
bạc và quyết định những công việc trong sản xuất, lưu thông, phân phối, xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; nhân dân phấn khởi, tự giác và tích cực
xây dựng nếp sống văn minh, giữ gìn an ninh trật tự xã hội, bài trừ các hủ tục
lạc hậu. Thực tế cho thấy, trong những năm qua trên phạm vi cả nước nhân
dân đã dốc công, dốc của để xây dựng các công trình phúc lợi công cộng "Điện,
đường, trường, trạm", tham gia các phong trào đền ơn, đáp nghĩa, quỹ vì
người nghèo, hiến tặng đất đai, tài sản cho các công trình quan trọng của quốc
gia. Được quyền làm chủ trên lĩnh vực kinh tế nhân dân tự giác hơn trong việc
thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước, nhất là nghĩa vụ thuế.
Như vậy, nhiều vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội trước đây giải quyết rất
khó khăn, phức tạp, nhưng nhờ Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở đã phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, mọi người được biết, được bàn dân chủ,
chính quyền các cấp nâng cao trách nhiệm và công khai hóa nên đã giải quyết
các vấn đề kinh tế một cách thuận lợi, không phát sinh khiếu kiện đông người,
kéo dài. Không nảy sinh mâu thuẫn lớn; nhiều công trình kinh tế, văn hóa, xã
hội đòi hỏi sự đóng góp sức dân rất lớn, nhờ vận dụng phương châm "Nhà
nước và nhân dân cùng làm", nên đã đem lại những thành tựu rất lớn cho nền
kinh tế, xã hội của đất nước.
* Trong lĩnh vực quản lý nhà nước
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thực sự là công cụ cho hoạt động
quản lý, điều hành của chính quyền cơ sở. Quy chế đã xác định rõ những
nhiệm vụ và phương thức thực hiện các nhiệm vụ của chính quyền cơ sở một