Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

(Luận văn thạc sĩ) bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.61 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƢƠNG XN TRƢỜNG

B¶O VƯ QUYềN CON NGƯờI BằNG
CáC CHế ĐịNH Về CHấP HàNH HìNH PHạT
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƢƠNG XN TRƢỜNG

B¶O VƯ QUYềN CON NGƯờI BằNG
CáC CHế ĐịNH Về CHấP HàNH HìNH PHạT
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH LÊ VĂN CẢM

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lƣơng Xuân Trƣờng


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƢỜI BẰNG CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................8
1.1.

Khái niệm, đặc điểm cơ bản của quyền con ngƣời ........................ 8


1.1.1.

Khái niệm quyền con người ................................................................ 8

1.1.2.

Các đặc điểm cơ bản của quyền con người ....................................... 16

1.2.

Nội dung bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp
hành hình phạt ................................................................................... 20

1.2.1.

Bảo vệ quyền con người bằng chế định miễn chấp hành hình phạt ....... 20

1.2.2.

Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm mức hình phạt đã tuyên ..... 22

1.2.3.

Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm thời hạn chấp hành
hình phạt trong trường hợp đặc biệt .................................................. 26

1.2.4.

Bảo vệ quyền con người bằng chế định hỗn chấp hành hình
phạt tù ................................................................................................ 29


1.2.5.

Bảo vệ quyền con người bằng chế định tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù ........................................................................................ 32

1.2.6.

Bảo vệ quyền con người bằng chế định tha tù trước thời hạn có
điều kiện ............................................................................................ 34

1.3.

Vai trị của các chế định về chấp hành hình phạt đối với việc
bảo vệ các quyền con ngƣời ............................................................ 39

Kết luận chƣơng 1 .......................................................................................... 42


Chƣơng 2: CÁC VĂN BẢN QUỐC TẾ VỀ NHÂN QUYỀN VÀ
THỰC TRẠNG CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP
HÀNH HÌNH PHẠT ........................................................................ 43
2.1.

Các văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tƣ pháp
hình sự .............................................................................................. 43

2.1.1.


Khái quát các văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tư
pháp hình sự ...................................................................................... 43

2.1.2.

Phân tích một số văn bản quốc tế cơ bản về quyền con người
trong lĩnh vực tư pháp hình sự .......................................................... 46

2.2.

Thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam liên
quan đến các chế định về chấp hành hình phạt ........................... 54

2.2.1.

Các chế định về chấp hành hình phạt trong Bộ Luật hình sự 1985........ 55

2.2.2.

Các chế định về chấp hành hình phạt trong Bộ Luật hình sự 1999........ 56

2.2.3.

Các chế định về chấp hành hình phạt trong Bộ luật hình sự
năm 2015 ........................................................................................... 62

Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 70
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY
PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP
HÀNH HÌNH PHẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM THEO HƢỚNG TĂNG CƢỜNG HƠN NỮA
VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI ........................................ 71
3.1.

Sự cần thiết hoàn thiện các quy phạm liên quan đến các chế
định về chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt
Nam theo hƣớng tăng cƣờng việc bảo vệ quyền con ngƣời ......... 72

3.1.1.

Về mặt chính trị - xã hội.................................................................... 72

3.1.2.

Về mặt thực tiễn ................................................................................ 75


3.1.3.

Về mặt lý luận và lập pháp hình sự ................................................... 77

3.2.

Nội dung hoàn thiện ........................................................................ 78

3.2.1.

Chế định miễn chấp hành hình phạt .................................................. 78

3.2.2.


Chế định giảm mức hình phạt đã tuyên ............................................ 82

3.2.3.

Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp
đặc biệt .............................................................................................. 85

Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Một nhà nước tiến bộ là nhà nước tồn tại trên cơ sở hướng tới việc bảo
đảm các quyền và lợi ích của con người, hạnh phúc của con người là thước đo
mọi giá trị của cuộc sống. Một nhà nước dân chủ, tiến bộ ln là cái đích mà
tất cả các nhà nước trên thế giới đều mong muốn có được.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã xác
định rõ và quy định ngay tại Điều 3 về Nhà nước có trách nhiệm “cơng nhận,
tơn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” và đưa “Quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành một chương, đặt
ngay sau Chương I về chế độ chính trị. Nội dung của các quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong các điều khác
của Hiến pháp năm 2013 phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người
mà Việt Nam là thành viên, nhất là Cơng ước quyền con người về chính trị, dân
sự và Công ước quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của
Liên hợp quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định

của Nhà nước ta trước Nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt
Nam, điều đó thể hiện vị trí của con người ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay cùng với sự phát triển của xã hội, tình
hình tội phạm ngày càng gia tăng với mức độ ngày càng tinh vi, diễn biến
phức tạp, nguy hiểm cho xã hội. Ngoài việc thực hiện đồng loạt các giải pháp
phịng ngừa, ngăn chặn thì pháp luật là cơng cụ hữu hiệu để hạn chế sự phát
triển của tội phạm. Việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật vừa góp
phần bảo đảm u cầu của cơng tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, vừa tạo
lòng tin của nhân dân vào pháp luật.

1


Bên cạnh việc nghiêm trị đối với người phạm tội, pháp luật hình sự cịn
thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng, được thể hiện thông qua nguyên tắc nhân
đạo của chính sách hình sự nói chung và Bộ luật hình sự, Luật thi hành án hình
sự Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên trên thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự, vấn đề tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người có
nơi, có lúc cịn chưa được đề cao. Xuất phát từ những trăn trở, băn khoăn đó đã
thơi thúc tơi bắt tay vào nghiên cứu đề tài “Bảo vệ quyền con người bằng các
chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về vấn đề quyền con người không phải là mới nhưng ln có
tính thời sự. Gần 70 năm trước đây đã có Tun ngơn Tồn thế giới về quyền
con người năm 1948 (Tuyên ngôn) của Liên hợp quốc nhưng không phải quốc
gia nào cũng tham gia, công nhận và thực hiện. Việt Nam là một trong những
quốc gia đã ghi nhận và từng bước thực hiện có hiệu quả Tuyên ngôn trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư pháp hình sự.
Việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định bảo vệ quyền con người đã

được nhiều tác giả trong nước cũng như nước ngồi nghiên cứu dưới nhiều
hình thức, cụ thể như sau:
Một là, sách chuyên khảo về quyền con ngƣời nói chung
1) GS. TS. Nguyễn Đăng Dung, TS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh
Tùng (đồng chủ biên), Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Chính
trị quốc gia Hà Nội 2009; 2) PGS. TS. Nguyễn Văn Động, Quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp, NXB Khoa học xã hội Hà Nội 2005; 3) GS.
TS. Trần Ngọc Đường, Bàn về quyền con người, quyền cơng dân, NXB Chính
trị quốc gia Hà Nội 2004; 4) Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trung
tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Luật Nhân quyền quốc
tế những vấn đề liên quan, NXB Lao động xã hội Hà Nội 2011; 5) GS. TS.

2


Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo dục quyền con người -Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội Hà Nội 2010;....
Hai là, sách chuyên khảo về quyền con ngƣời trong lĩnh vực tƣ
pháp hình sự:
1) GS. TSKH. Lê Cảm, Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây
dựng nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2009; 2) PGS.TS
Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên), Sách chuyên khảo: Quyền con người trong lĩnh
vực tư pháp hình sự, NXB Hồng Đức 2015; 3) Tịa án nhân dân tối cao - Vụ
hợp tác Quốc tế, Quyền con người trong thi hành công lý, NXB Lao động -Xã
hội Hà Nội 2010; 4) Trần Quang Tiệp, Bảo vệ quyền con người trong Luật
hình sự, Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 2004; ...
Ba là, các bài báo khoa học về lĩnh vực bảo vệ quyền con ngƣời
1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm
hình sự - Một yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong việc bảo vệ con người
bằng pháp luật hình sự, Tạp chí Toà án nhân dân, số 2/1990; 2) GS. TSKH.

Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Tạp chí Tịa án nhân dân (Số 12/2006, tr.7-13;
Số 13/2006, tr.8-17; Số 14/2006, tr.4-12); 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Bảo
vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, số 23/2007, tr.64-80; 4) TS. Nguyễn Quang Hiền, Bảo
vệ quyền con người của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí
Tịa án nhân dân, số 13/2011, tr.4-11; 5) TS. Nguyễn Quang Hiền, Bảo vệ
quyền con người của người bị buộc tội, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện
Nhà nước và Pháp luật, Số 1/2010, tr.75-81; 6) Nguyễn Hữu Hậu, Bảo đảm
quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội
của Viện kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát số 12/2015, tr.40-48; 7) Trần Văn Hội,
Kháng nghị của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự với vai trị bảo đảm
quyền con người, Tạp chí Kiểm sát số 19/2015, tr.24-30; …
3


Bốn là, nghiên cứu dƣới hình thức luận văn:
1) Giáp Mạnh Huy, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ các
quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội 2014; 2) Nguyễn Văn Luận, Việt Nam và vấn đề bảo vệ quyền con
người, Trường Đại học Luật Hà Nội 2001; 3) Phùng Thanh Mai, Bảo vệ
quyền con người bằng các quy định về biện pháp tha miễn trong pháp luật
hình sự, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 2014; 4) Tống Đức Thảo, Hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ quyền con người ở nước ta hiện nay, Trường đại
học Luật Hà Nội 2001; ...
Thực tế cho thấy, các kết quả nghiên cứu về quyền con người dưới các
hình thức nêu trên, chủ yếu tập trung vào những vấn đề chung về quyền con
người (quyền dân sự, chính trị, văn hóa xã hội…) hoặc nghiên cứu trong một
lĩnh vực rộng (quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự, trong đấu
tranh chống tội phạm…). Trên thực tế dưới góc độ luận văn thạc sỹ luật học

cho tới thời điểm hiện tại chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu về Bảo vệ
quyền con ngƣời bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu làm
luận văn thạc sĩ luật học.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ khái niệm, các đặc điểm quyền cơ bản của con người được bảo
vệ thông qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự. Đồng
thời, đi sâu phân tích bản chất nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam được
thể hiện thơng qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam cũng như việc bảo vệ quyền con người thông qua các chế định sau:
1) Miễn chấp hành hình phạt; 2) Giảm mức hình phạt đã tuyên; 3) Giảm thời
hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt; 4) Hỗn chấp hành hình
phạt tù; 5) Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; 6) Tha tù trước thời hạn có
điều kiện. Qua đó, căn cứ vào Hiến pháp Việt Nam năm 2013, xu thế hội

4


nhập quốc tế và thực tiễn bảo vệ pháp luật ở nước ta để đưa ra những đề xuất,
giải pháp bảo đảm thực hiện, góp phần hồn thiện các chế định về chấp hành
hình phạt trong luật hình sự Việt Nam theo hướng tăng cường hơn nữa việc
bảo vệ quyền con người.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn xoay quanh vấn đề bảo vệ các
quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình
sự Việt Nam, cụ thể là: 1) Chế định miễn chấp hành hình phạt; 2) Chế định
giảm mức hình phạt đã tuyên; 3) Chế định giảm thời hạn chấp hành hình
phạt trong trường hợp đặc biệt; 4) Chế định hoãn chấp hành hình phạt tù;
5) Chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; 6) Chế định tha tù trước

thời hạn có điều kiện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ quyền con
người trong pháp luật hình sự nói chung và các quy phạm của pháp luật hình sự
Việt Nam qua 06 chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam,
bao gồm: 1) Chế định miễn chấp hành hình phạt; 2) Chế định giảm mức hình
phạt đã tuyên; 3) Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp
đặc biệt; 4) Chế định hỗn chấp hành hình phạt tù; 5) Chế định tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù; 6) Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện. Luận văn
đi sâu nghiên cứu sự bảo vệ quyền con người thể hiện qua các chế định về chấp
hành hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Riêng đối với chế
định án treo, do mức độ rộng lớn, đa dạng và phức tạp của chế định này, nên
trong khuôn khổ của Đề tài này tác giả xin phép không đề cập đến.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được

5


tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc
xây dựng Bộ luật hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, đối
chiếu, so sánh, ... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn

6.1. Ý nghĩa khoa học
Việc nghiên cứu, làm sáng tổ các vấn đề về bảo vệ quyền con người nói
chung và bảo vệ quyền con người thơng qua các chế định về chấp hành hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam nói riêng là một vấn đề hết sức cần thiết,
qua đó bổ sung vào kho tàng lý luận về bảo vệ quyền con bằng các chế định
về chấp hành hình phạt, góp phần cụ thể hóa nội dung bảo vệ và bảo đảm
quyền con người quy định tại Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo về mặt lý luận cho việc
nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền con bằng các chế định về chấp hành hình
phạt. Ngồi ra, luận văn cịn là cơ sở để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các chế định về chấp hành hình
phạt, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ và bảo đảm quyền
con người trong quá trình thi hành án hình sự.
7. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người thông
qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, đi sâu

6


nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người thông qua chế định: miễn chấp hành
hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên; giảm thời hạn chấp hành hình phạt
trong trường hợp đặc biệt; hỗn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù; và chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện, trong pháp luật
hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn như sau:
- Trên cơ sở kế thừa, phát huy kết quả nghiên cứu của các học giả, tác
giả đã đưa ra được các khái niệm về: Miễn chấp hành hình phạt; giảm mức
hình phạt đã tuyên; giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc
biệt; hỗn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; tha tù

trước thời hạn có điều kiện.
- Phân tích, làm rõ được một số nội dung bảo vệ quyền con người bằng
các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam liên quan đến các chế định về chấp hành hình phạt.
- Đưa ra được một số kiến nghị nhằm hồn thiện quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam liên quan đến chế định về chấp hành hình phạt.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn được bố cục như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng các
chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các văn bản quốc tế về nhân quyền và thực trạng các quy
phạm pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các chế định về chấp hành
hình phạt.
Chương 3: Định hướng tiếp tục hồn thiện các quy phạm liên quan đến
một số chế định về chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam
theo hướng tăng cường hơn nữa việc bảo vệ quyền con người.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
BẰNG CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của quyền con ngƣời
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Trên thế giới, vấn đề quyền con người đã được đề cập đến từ rất sớm,
trong Lời nói đầu của bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Liên

hợp quốc đã khẳng định: "điều cốt yếu là các quyền con người phải được bảo
vệ bằng pháp luật" [40, tr.62], cũng theo Lời nói đầu trong bản Tun ngơn
thế giới về nhân quyền năm 1948, thì quyền con người đối với các quốc gia
thành viên Liên hợp quốc phải [40, tr.63]: 1) Là mục tiêu chung cho tất cả các
dân tộc và các quốc gia phấn đấu đạt tới; 2) Tôn trọng các quyền và tự do cơ
bản của con người, đồng thời tôn trọng và bảo đảm việc tuân thủ một cách
nghiêm chỉnh và hữu hiệu chúng.
Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định giá trị quyền con người:
Mọi thành viên trong gia đình, nhân loại đều có quyền bình đẳng và đó là
những quyền khơng ai có thể xâm phạm được. Các quyền này được thực hiện
không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ hay giới tính, đồng thời được
ghi nhận chính thức trong Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người năm
1948. Tun ngơn này đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận,
tuy nhiên việc thực thi Tuyên ngôn này cũng như các công ước về quyền con
người tại các quốc gia khác nhau là hết sức linh hoạt, phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh thực tế của mỗi quốc gia.
Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người năm 1948 là văn kiện
pháp lý xác lập các tiêu chuẩn quốc tế cho việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con

8


người trên tồn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Thơng qua việc
thừa nhận Cơng ước, các quốc gia chấp nhận và tự cam kết đảm bảo thực hiện
quyền con người tại quốc gia mình.
Tiếp đó năm 1968, Tuyên bố Tê-hê-ran tại Hội nghị thế giới về quyền
con người được tổ chức tại Iran đã khẳng định:
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã xác nhận một
nhận thức chung của các dân tộc trên thế giới về các quyền bất di,
bất dịch và không thể bị xâm phạm của mọi thành viên trong gia

đình, nhân loại và thiết lập một nghĩa vụ cho các thành viên của
cộng đồng quốc tế.
Hội nghị cũng khẳng định sự tin tưởng với các nguyên tắc được đề cập
trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và kêu gọi các dân tộc và các
Chính phủ: "phấn đấu cho những nguyên tắc ghi nhận trong Tuyên ngôn và
tăng cường hơn nữa những nỗ lực nhằm bảo đảm cho mọi người có một cuộc
sống phù hợp với tự do và nhân phẩm cũng như sự hạnh phúc về thể chất, tinh
thần, xã hội và văn hóa".
Việt Nam là một quốc gia tích cực trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, ngồi việc gia nhập Cơng ước quốc tế Giơ-ne-vơ về bảo hộ nạn
nhân chiến tranh, đối xử nhân đạo với tù nhân chiến tranh (năm 1957), từ năm
1977, sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc, Việt Nam đã từng bước
tham gia hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người, như: Cơng ước
quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc (tham gia năm 1981);
Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức về phân biệt đối xử với phụ nữ (tham gia
năm 1982); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (tham gia năm
1982); Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (tham gia
năm 1982); Công ước quốc tế về quyền trẻ em (tham gia năm 1990); Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (tham gia năm 2007); Công ước

9


quốc tế về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ nhục con người (tham gia năm 2014).
Ngoài các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người trên, Việt Nam
cịn tham gia các cơng ước quốc tế khác có liên quan đến lĩnh vực bảo vệ
quyền con người và luật nhân đạo quốc tế như Nghị định thư bổ sung Công
ước Giơ-ne-vơ về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế (tham gia
năm 1981), Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội ác diệt chủng và Công ước

về ngăn chặn và trừng trị tội ác A-pác-thai (tham gia năm 1981).
Sau khi trở thành thành viên Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năm
1994, Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước của tổ chức này như Công ước số
5 về tuổi tối thiểu của trẻ em được tham gia lao động công nghiệp, Công ước
số 6 về làm việc ban đêm của trẻ em trong công nghiệp, Công ước số 14 về
quy định nghỉ hằng tuần cho lao động cơng nghiệp…
Việt Nam cũng tích cực tham gia Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc,
hợp tác nhân quyền trong khuôn khổ Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp. Bên
cạnh đó, với tư cách là thành viên ASEAN, Việt Nam cũng tích cực tham gia
vào các khuôn khổ hợp tác khu vực về nhân quyền, trong đó có Ủy ban Liên
Chính phủ về nhân quyền ASEAN. Ngồi ra, Việt Nam cịn thường xun tham
gia đối thoại nhân quyền với các nước như: Mỹ, Australia, Thụy Sỹ và EU.
Để thực hiện tốt các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền con người,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991 đã khẳng định: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định
các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách
nhiệm” [19, tr.422]. Trên tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước năm
1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW ngày
12/7/1992, Chỉ thị này đã ghi nhận những quan điểm quan trọng về vấn đề
quyền con người và bảo vệ quyền con người:

10


Quyền tự do, dân chủ của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa
vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương,
pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.... [59, tr.484].
Tiếp theo, vào tháng 1/2011, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI đã

chính thức đưa ra luận điểm mang tính chỉ đạo về sửa đổi Hiến pháp năm
1992, trong đó Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết của các nguyên tắc tiến bộ
và dân chủ, cụ thể như: Chủ quyền của nhân dân cao hơn chủ quyền của Nhà
nước, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền
lực nhà nước trong hoạt động của bộ máy công quyền [20, tr.247].
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong
việc bảo đảm quyền con người trong tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một
nước độc lập có chủ quyền, có quyền dân tộc tự quyết, quyền lựa chọn quyết
định thể chế chính trị của mình. Người dân có quyền tham gia vào việc xây
dựng và quyết định các quyết sách của đất nước. Quyền bầu cử, ứng cử, ngày
càng được phát huy.
Ngồi tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam, cịn có các tổ chức
chính trị - xã hội và nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp theo lứa tuổi, giới
tính, lĩnh vực nghề nghiệp hoạt động thu hút hàng chục triệu hội viên tham
gia. Mọi tư tưởng và chính kiến khác nhau được tự do đề đạt có tổ chức.
Quyền tự do báo chí, tự do hội họp theo quy định của pháp luật được
tôn trọng. Với số đầu báo, tạp chí tăng nhanh, thơng tin đa dạng, phong phú
đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân. Hệ thống phát thanh,
truyền hình phát triển nhanh, tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

11


có đài phát thanh, truyền hình, người dân dễ dàng tiếp nhận thông tin thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và tự do khơng tín ngưỡng, tơn giáo
được đảm bảo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo theo quy định của
pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo

pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Các dân tộc được đảm bảo bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ, đồn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển;
được tạo cơ hội phát triển như nhau, được duy trì tiếng nói và chữ viết riêng,
bảo tồn văn hoá truyền thống. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số không
ngừng được nâng cao.
Quyền khiếu nại, tố cáo được đảm bảo; quyền bất khả xâm phạm thân
thể và quyền được bảo vệ tính mạng sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của
người dân ln được tơn trọng.
Về kinh tế, GDP bình qn đầu người liên tục tăng, tỷ lệ đói nghèo
giảm. Việt Nam đã đạt được mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ do Liên hợp
quốc đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói nghèo giai đoạn 1990 – 2015; hồn
thành phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ; các chương trình chăm sóc y
tế đã thu được kết quả khá. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo, vùng sâu,
vùng xa, được quan tâm; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt được những
kết quả đáng khích lệ, tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên từng năm.
Sự nghiệp phát triển văn hố, giáo dục-đào tạo tăng nhanh, hình thức
giáo dục-đào tạo được đa dạng hoá, đã đảm bảo cơng bằng xã hội trong văn
hố, giáo dục. Lượng thơng tin được cung cấp phong phú hơn về số lượng, đa
dạng về chủng loại, hấp dẫn hơn về nội dung và hình thức. Người dân được
tiếp cận tốt hơn với công nghệ thông tin hiện đại.
Các quyền con người về mặt xã hội, đảm bảo công bằng về quyền lợi
và nghĩa vụ công dân ngày càng được phát huy. Đã kết hợp tốt giữa tăng

12


trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Quyền bình đẳng nam, nữ
được tơn trọng. Phụ nữ tham gia cơng tác xã hội và chính trị ngày càng nhiều,
có mặt ở các vị trí lãnh đạo các cấp Trung ương và địa phương.
Có thể khẳng định, Quyền con người ở Việt Nam không ngừng được

phát huy và sự tham gia tích cực của người dân vào mọi mặt đời sống kinh tế
xã hội của đất nước là nhân tố quan trọng của thành công của công cuộc đổi
mới ở Việt Nam. Quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền
thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Do
vậy khơng thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của
nước này cho nước khác.
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang tiếp tục từng bước hoàn thiện các văn
bản pháp luật về bảo vệ quyền con người, cũng như “chăm lo cho con người,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người” [18, tr.134]. Đặc biệt, với
sự ra đời của Hiến pháp Việt Nam năm 2013, vấn đề tôn trọng, bảo vệ quyền
con người tại Việt Nam ngày càng được khẳng định, thay vì lồng ghép các nội
dung về quyền con người vào quyền công dân như các bản Hiến pháp trước
đây, Hiến pháp Việt Nam 2013 đã có một chương riêng (Chương II) quy định
rõ về "Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân". Trong đó,
có sự kế thừa, bổ sung, phát triển các bản hiến pháp trước đây của nước ta.
Chương này gồm 36 điều (từ Điều 14 đến Điều 49) đề cập toàn diện về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam trên các mặt:
dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Điều đó đã thể hiện sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn đề quan trọng này.
Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiếp pháp và

13


pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức

khỏe cộng đồng [45, Điều 14].
Điều đó đã thể hiện tất cả những vấn đề về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của cơng dân hồn toàn phù hợp với thực tiễn đất nước và
thống nhất với những quy định của quốc tế. “Tun ngơn tồn thế giới về
Nhân quyền” của Liên hợp quốc (năm 1948), được coi là bản “Tun ngơn
đầu tiên của tồn nhân loại” và là “lý tưởng chung nhất mà tất cả các dân
tộc, quốc gia phải đạt tới” [6, tr.144], đã cơng nhận con người có 26 quyền cơ
bản, gồm ba nhóm sau:
Các quyền dân sự, là những quyền tự do cơ bản của cá nhân, như:
quyền sống, quyền tự do thân thể; quyền không bị xâm phạm cá nhân; quyền
bảo vệ danh dự, bí mật cá nhân và gia đình, bí mật về thư tín, trao đổi thơng
tin, tự do di chuyển chỗ ở; quyền tự do đi lại và cư trú; quyền có quốc tịch và
thay đổi quốc tịch; quyền kết hơn và lập gia đình; quyền sở hữu; quyền được
xét xử công khai, độc lập và công bằng khi bị ra tịa.
Các quyền về chính trị, là quyền tự do khẳng định nhân cách của mình
trong đời sống chính trị; quyền tham gia cơng việc quản lý của nhà nước và
đời sống xã hội; quyền được bầu cử, ứng cử; quyền được lập hội, gia nhập
hội; quyền tự do ngơn luận thể hiện chính kiến của mình; quyền được thơng
tin và xuất bản, quyền tự do tín ngưỡng.
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, là các quyền về sở hữu tài sản;
quyền trao đổi; quyền lao động và tự do thể hiện năng lực của mình trong lao
động; quyền được bảo vệ về mặt xã hội, được sống đầy đủ, được chăm sóc
sức khỏe, được học tập và sử dụng các giá trị văn hóa.
Quyền con người là một phạm trù lịch sử - cụ thể nên nó ln đi cùng

14


với sự phát triển của nhân loại, đặc biệt trong những năm gần đây vấn đề bảo
vệ quyền con người ln là vấn đề nóng được cả thế giới quan tâm, GS.TSKH

Lê Văn Cảm cho rằng:
Việc bảo vệ các quyền con người đã và vẫn đang là vấn đề
trung tâm có ý nghĩa thời đại của hành tinh chúng ta,... vì nó khơng
chỉ là vấn đề "mn thuở" mang tính lịch sử từ bao đời nay mà cịn
mang tính thời sự quốc tế, không những là mục tiêu cơ bản trong
cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hịa bình, tự do, dân chủ và cơng
lý, mà cịn là mối quan tâm thường xuyên của nhân loại tiến bộ trên
toàn trái đất [8, tr.10].
Cho đến nay các nhà khoa học, luật gia vẫn cịn có nhiều cách hiểu
khác nhau về khái niệm quyền con người, cụ thể như:
GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm quyền con người như sau:
Quyền con người là một phạm trù lịch sử - cụ thể là giá trị xã
hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại
và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tơn trọng và không thể bị
tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất,
đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia - thành
viên LHQ, cũng như bởi cộng đồng quốc tế [13, tr.224].
GS.TS Trần Ngọc Đường cho rằng: "Quan niệm nhân quyền vừa khẳng
định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận
thuộc tính xã hội - chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người thuộc một
quốc gia, một dân tộc" [24, tr.21].
PGS.TS Nguyễn Văn Động đã đưa ra một số quan điểm về quyền con
người như sau [23, tr.52-53]:
- Là những giá trị quý báu được thừa nhận chung bời toàn thế giới,
đồng thời gắn bó chặt chẽ với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân, mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc và cả cộng đồng quốc tế;

15



- Trực tiếp liên quan tới các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của
con người (từ ăn, ở, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí...) và góp phần quan trọng vào sự
hình thành và phát triển nhân cách, tính nhân đạo và nhân văn của con người;
- Các quyền con người tạo thành một hệ thống thống nhất, quan hệ tác
động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau, đồng thời vừa là tiền đề, điều kiện của
nhau, vừa là hệ quả của nhau, ...
TS. Trần Quang Tiệp đưa ra định nghĩa: "Quyền con người là những
đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định" [50, tr.14].
Trên cơ sở phân tích các quan điểm quốc tế về nhân quyền cũng như
những quan điểm của các học giả tại Việt Nam, tác giả đưa ra khái niệm
quyền con người như sau: Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có
của con người, những nhu cầu, lợi ích tự nhiên của con người cần được tôn
trọng và bảo vệ bằng pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyền con người
- Quyền con người có tính chất tự nhiên, vốn có của con người
Hiến pháp năm 2013 khẳng định "Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân" [45].
Vì vậy, khi quy định quyền con người, quyền cơng dân, hầu hết các
điều của Hiến pháp năm 2013 quy định trực tiếp "mọi người có quyền...",
"cơng dân có quyền" để khẳng định rõ đây là những quyền đương nhiên của
con người, của công dân được Hiến pháp ghi nhận và Nhà nước có trách
nhiệm tơn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền này.
Đây chính là nguyên tắc hiến định rất quan trọng về quyền con người,
quyền công dân và theo nguyên tắc này, từ nay không chủ thể nào, kể cả các
cơ quan nhà nước được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền con người, quyền

16



công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Cũng từ nguyên tắc này, các quy
định liên quan đến các quyền bất khả xâm phạm của con người, của công dân
(như quyền được sống, quyền không bị tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp
luật v.v.) là các quy định có hiệu lực trực tiếp; chủ thể của các quyền này
được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo vệ các quyền của mình khi
bị xâm phạm. Các quyền, tự do cơ bản khác của con người, của công dân và
quyền được bảo vệ về mặt tư pháp cần phải được cụ thể hóa nhưng phải bằng
luật do Quốc hội ban hành, chứ không phải quy định chung chung “theo quy
định pháp luật” như rất nhiều điều của Hiến pháp năm 1992 quy định.
Quyền con người có tính chất tự nhiên, vốn có của con người. Có thể
nói đây chính là đặc điểm chung của quyền con người mà bất kỳ cá nhân nào
được sinh ra đều mặc nhiên thụ hưởng quyền này và bình đẳng khơng phân
biệt chủng tộc, giới tính, tơn giáo hay vị thế xã hội [Xem: 41, tr. 41].
- Quyền con người có tính pháp định
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có của con người, tuy
nhiên trên thực tế để các quyền con người được tơn trọng, bảo vệ thì cần phải
được Nhà nước công nhận bằng văn bản pháp luật cụ thể. Tại Việt Nam, Hiến
pháp năm 2013 đã quy định Nhà nước "công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người". Đồng thời Hiến pháp năm 2013 cũng quy định:
Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng [45].
Quyền con người nói chung và và trong lĩnh vực tư pháp hình
sự nói riêng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật là tiền đề để
quyền con người được bảo đảm thực thi trong đời sống [17, tr. 46].
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền cũng đã khẳng định việc thực hiện

17



các quyền và tự do cơ bản của con người có thể phải chịu những giới hạn nhất
định, những giới hạn đó quy định trong pháp luật, với mục đích bảo đảm sự
thừa nhận các quyền và tự do của người khác, hoặc để bảo đảm các yêu cầu
về đạo đức, trật tự cơng cộng và sự thịnh vượng nói chung trong một xã hội
dân chủ. Đồng thời, các quyền được ghi nhận trong các cơng ước có thể hạn
chế bởi pháp luật của quốc gia nhưng chỉ trong một chừng mực tương thích
với bản chất những quyền đó, với mục đích chính là để bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Tuy nhiên có một số quyền nhất định trong các công ước không
bao giờ bị hạn chế hoặc tạm dừng việc thực hiện, thậm chí trong
những trường hợp khẩn cấp, đó là quyền: sống, tự do không bị tra tấn,
tự do không bị nô lệ hoặc nô dịch, thừa nhận tư cách con người trước
pháp luật và tự do tín ngưỡng, tư tưởng, tôn giáo [40, tr.40].
- Quyền con người gắn liền với mỗi con người kể từ khi sinh ra
Quyền công dân gắn liền với quốc tịch của mỗi con người, do vậy cơng
dân mang quốc tịch của quốc gia nào thì sẽ được quốc gia đó bảo hộ. Quyền
con người thì lại khác, quyền con người không gắn với quốc tịch và với mỗi
quốc gia mà quyền con người thì gắn liền với cá nhân người đó, khơng kể là
người có quốc tịch hay người khơng có quốc tịch. Ngay khi sinh ra con người
đã có sẵn những quyền đó, tùy thuộc vào hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia
mà quyền con người sẽ được thừa nhận và bảo vệ ở các mức độ khác nhau.
- Quyền con người được bảo vệ bằng pháp luật
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền nào là quyền con người, quyền
nào là quyền công dân và quy định theo thứ tự: đầu tiên là các nguyên tắc
hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tiếp
đến là các quyền dân sự, chính trị rồi đến các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
và cuối cùng là các nghĩa vụ của cá nhân, của công dân. Hiến pháp năm 2013


18


thay vì quy định “cơng dân” như Hiến pháp năm 1992 đã quy định “mọi
người”, “khơng ai”. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát
triển mới về nhận thức lý luận và giá trị thực tiễn khi không đồng nhất quyền
con người với quyền công dân. Đặc biệt Hiến pháp 2013 đã khẳng định "Nhà
nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân".
Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể một số quyền của con người như:
Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp
luật bảo hộ. Khơng ai bị tước đoạt tính mạng trái luật; Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí
mật gia đình...; Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá
trị văn hố, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn
hóa; Mọi người có quyền được sống trong mơi trường trong lành và
có nghĩa vụ bảo vệ môi trường; v.v... [45].
Điều này thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển các
quyền con người. Nội dung của các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân được quy định trong các điều khác của Hiến pháp năm
2013 phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên, nhất là Công ước quyền con người về chính trị, dân sự và Cơng
ước quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của Liên hợp
quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định của Nhà
nước ta trước Nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn trọng,
bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền cơng dân ở Việt Nam,
điều đó thể hiện vị trí của con người ngày càng được nâng cao.
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng:
Quyền con người nói chung và trong lĩnh vực tư pháp hình sự
nói riêng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật là tiền đề để


19


×