Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

(Luận văn thạc sĩ) địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp và khu chế xuất việt nam trong tương quan so sánh với pháp luật một số quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 152 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƢƠNG HOÀNG NAM

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP
CĨ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGỒI TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
VÀ KHU CHẾ XUẤT VIỆT NAM TRONG TƢƠNG QUAN
SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI

Cơng trình đƣợc hồn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diễn

Phản biện 1:

Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Phản biện 2:

Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2011.

HÀ NỘI - 2011



Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tƣ liệu - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung
tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có

8

vốn đầu tư nước ngồi TRONG các KHU CÔNG NGHIệP
và KHU CHế XUấT

Khái quát chung về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi trong các khu cơng nghiệp và khu chế xuất

8


1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

8

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất

11

1.1.3. Khái niệm địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi trong các khu công nghiệp và khu chế xuất

15

1.1.4. Các quy định điều chỉnh địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi trong các khu cơng nghiệp và khu chế xuất

17

Vai trị của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các
khu cơng nghiệp và khu chế xuất

21

1.1.

1.2.

1.2.1. Vai trò trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi

21


1.2.2. Vai trị trong việc phát triển hệ thống cơ cấu hạ tầng cho sản
xuất cơng nghiệp

24

1.2.3. Vai trị trong việc phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn
theo hướng tập trung

27


1.2.4. Vai trị trong việc chuyển giao cơng nghệ, phương thức quản
lý tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam

32

1.2.5. Vai trò trong việc giải quyết việc làm cho lao động trong nước

34

1.3.

Lược sử hình thành và phát triển địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các khu cơng nghiệp
và khu chế xuất

36

1.3.1. Pháp luật trong nước


36

1.3.2. Các Điều ước quốc tế có liên quan

42

Chương 2: quy định pháp luật việt nam và pháp luật nước ngoài về địa

44

vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
TRONG các khu cơng nghiệp, khu chế xuất

Quy định pháp luật về việc thành lập, quản lý, chấm dứt hoạt
động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các
khu cơng nghiệp và khu chế xuất

44

2.1.1. Thủ tục thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
trong các khu cơng nghiệp và khu chế xuất

44

2.1.2. Quản lý hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi trong các khu cơng nghiệp và khu chế xuất

50


2.1.3. Chấm dứt hoạt động và thanh lý doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi trong các khu công nghiệp và khu chế xuất

63

2.1.4. Đăng ký lại và tổ chức lại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi trong các khu công nghiệp và khu chế xuất

66

Quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi trong các khu cơng nghiệp và khu chế xuất

68

2.1.

2.2.

2.2.1. Sử dụng đất và hạ tầng trong khu công nghiệp và khu chế xuất

68

2.2.2. Đầu tư xây dựng trong khu cơng nghiệp, khu chế xuất

71

2.2.3. Chính sách ưu đãi trong khu công nghiệp, khu chế xuất

74


2.2.4. Quy chế đặc thù về cư trú, đi lại và trao đổi hàng hóa

87


2.2.5. Sử dụng và quản lý lao động trong khu công nghiệp, khu chế
xuất

92

2.2.6. Điều kiện về môi trường trong khu công nghiệp, khu chế xuất

96

2.2.7. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp FDI về tài chính, ngoại hối

99

2.2.8. Quyền và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp trong khu công
nghiệp, khu chế xuất

103

Thực trạng thực thi địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn

105

Chương 3:


đầu tư nước ngồi TRONG các khu công nghiệp, khu chế
xuất và đề xuất giải pháp

Thực trạng thực thi pháp luật về địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các khu công nghiệp,
khu chế xuất

105

3.1.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực thi pháp luật về
địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
trong khu cơng nghiệp, khu chế xuất

105

3.1.2. Những vướng mắc, tồn tại

108

3.1.

3.2.

Sự cần thiết của việc hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các khu công nghiệp,
khu chế xuất

116

3.3.


Các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các khu cơng
nghiệp, khu chế xuất

118

3.3.1. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến mơi trường đầu tư nước
ngồi tại Việt Nam

118

3.3.2. Đổi mới quan niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

119

3.3.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách để cải thiện mơi trường sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
trong các khu cơng nghiệp, khu chế xuất và tăng cường công

123


tác quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này
3.3.4. Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, khu chế
xuất đồng bộ, hiện đại xứng tầm với các nước trong khu vực
và thế giới

125


3.3.5. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính

126

3.3.6. Nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức làm
việc tại Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất

127

3.3.7. Thành lập Trung tâm dịch vụ hành chính cơng

128

3.3.8. Cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng

129

3.3.9. Cải thiện môi trường trong khu côn g nghiệp, khu chế xuất

131

KẾT LUẬN

133

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

135



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐTNN

: Đầu tư nước ngoài

KCN

: Khu cơng nghiệp

KCX

: Khu chế xuất

FDI

: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài

TNDN

: Thu nhập doanh nghiệp

UBND

: ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Đầu tư nước ngoài trong KCN theo ngành (tính đến
6/2011)

28

1.2

Phân loại trình độ cơng nghệ các doanh nghiệp trong KCN

33

2.1

So sánh thuế trong và ngoài đặc khu kinh tế của Trung Quốc

80

2.2

So sánh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp


86

2.3

So sánh về mức lương tối thiểu vùng đã được điều chỉnh
áp dụng năm 2011

95

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

1.1

Tỷ lệ % số dự án ĐTNN trong KCN theo ngành

29

1.2

Tỷ lệ % vốn ĐTNN trong KCN theo ngành

29



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là một trong những hướng đi chiến lược
đối với các nhà đầu tư khi họ đã tích lũy được các điều kiện như vốn, cơng
nghệ, trình độ quản lý trong khi thị trường trong nước không đáp ứng đủ các
yêu cầu đầu tư mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, để đẩy nhanh tốc độ phát
triển, thực hiện chiến lược "đi tắt, đón đầu", nhiều quốc gia trên thế giới, đặc
biệt là các quốc gia kém hoặc đang phát triển ln đưa ra các chính sách
nhằm khuyến khích, thu hút vốn đầu tư ngồi nước vào nước mình. Đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc kêu gọi đầu tư từ nước ngồi
là vơ cùng quan trọng, một mặt là để bổ sung vào nguồn vốn đầu tư trong
nước, mặt khác là để giải quyết việc làm cho người lao động, tiếp thu vốn,
công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ các nước phát triển trên thế
giới để nâng cao năng lực xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước,
thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
dần rút ngắn khoảng cách về phát triển của Việt Nam và các nước. Như vậy,
ĐTNN ln là quan hệ mang tính gắn bó giữa nhu cầu của nhà đầu tư và nhu
cầu của nước tiếp nhận đầu tư.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang trở thành một địa
điểm đầu tư có sức hấp dẫn trên thế giới. Năm 2006 nền kinh tế Việt Nam
tăng trưởng 8,6%, năm 2007 tốc độ tăng trưởng đạt 8,3%. Năm 2008 và 2009,
mặc dù phải đối mặt với những thách thức lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu nhưng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt 6,7% và
5,32% vượt mức so với kế hoạch đã đề ra. Đến năm 2010, nền kinh tế khởi
sắc hơn với tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt khoảng 6,85% và trong 6 tháng
đầu năm 2011 đạt tốc tộ tăng trưởng 7,1%.
1



Nói đến đầu tư nước ngồi khơng thể khơng nhắc đến hoạt động đầu
tư của các nhà sản xuất trong các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất
(KCX) bởi lẽ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các KCN,
KCX chính là hình ảnh của đầu tư nước ngoài tại từng quốc gia tiếp nhận đầu
tư… Tại thời điểm hiện nay, hầu hết các tên tuổi lớn trong cộng đồng các nhà
đầu tư quốc tế như Intel, Samsung, Canon, Toshiba, Panasonic, Toyota … đã
có mặt và đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại các KCN, KCX của Việt
Nam.
Để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, một trong các yêu cầu quan
trọng và tiên quyết đối với các nước sở tại là các quốc gia này phải có một
chính sách đầu tư minh bạch và rõ ràng, đặc biệt là các quy định về địa vị
pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Chỉ khi nào yêu cầu trên
được đáp ứng, các nhà đầu tư mới có thể yên tâm và mạnh dạn bỏ vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý vào kinh doanh tại quốc gia kêu gọi đầu tư.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc kêu gọi thu
hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong những năm gần đây, các cơ quan
Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực không ngừng trong việc tạo lập một môi trường
pháp lý về đầu tư đồng bộ, minh bách hóa, xóa bỏ dần các khoảng cách giữa
đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, đưa các quy định của pháp luật về đầu
tư tại Việt Nam tiệm cận dần với luật pháp và thực tiễn đầu tư quốc tế, trong
đó có thể kể đến các quy định cơ bản sau đây:
- Luật Đầu tư và Luật doanh nghiệp năm 2005 thống nhất hai hệ thống
pháp luật trước đây là pháp luật về đầu tư nước ngoài và pháp luật về đầu tư
trong nước thành một hệ thống pháp luật đầu tư và doanh nghiệp chung. Các
đạo luật này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo ra một sân chơi bình
đẳng hơn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tương quan
với các doanh nghiệp trong nước.


2


- Luật Thương mại và Luật đất đai năm 2005 đã cụ thể hóa quyền và
nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, quyền
xuất nhập khẩu, quyền phân phối và quy định về quyền sử dụng đất đối với
các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thuê đất trong KCN, KCX.
- Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/2/2008 của Chính phủ thay thế Nghị
định 36/NĐ-CP trước đây về KCN, KCX. Nghị định mới này đã có nhiều quy
định rõ hơn, điều chỉnh nhiều vấn đề liên quan đến các hoạt động của doanh
nghiệp trong KCN, KCX bước đầu đã tạo ra một khung pháp lý cơ bản về địa
vị pháp lý của các doanh nghiệp trong KCN, KCX trong đó có các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi nói chung và địa vị pháp lý của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các KCN và KCX nói riêng đã dần
được củng cố, hồn thiện cùng với sự hồn thiện nói chung của hệ thống pháp
luật về đầu tư của Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn một vài
điểm hạn chế và trong nhiều trường hợp vẫn còn chưa sáng tỏ, minh bạch
chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của nhà đầu tư và trong một chừng mực nào
đó vẫn còn những khoảng cách nhất định với pháp luật quốc tế. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu làm rõ về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại các KCN và KCX Việt Nam trong tương quan so sánh với
pháp luật một số nước trên thế giới là một việc làm cần thiết không những về
mặt lý luận mà cịn là địi hỏi của thực tiễn.
Tính tích cực của đề tài:
- Nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp
luật Việt Nam về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
trong các KCN và KCX Việt Nam. Qua đó, tác giả mong muốn đưa ra cách
nhìn nhận rõ ràng hơn về địa vị pháp lý và vai trị của doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngồi trong các KCN và KCX.
3


- Góp phần giúp các nhà đầu tư nước ngồi tìm hiểu sâu hơn về địa vị
pháp lý của mình khi tiến hành đầu tư vào Việt Nam đặc biệt là đầu tư vào
các KCN, KCX Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
như hiện nay.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về địa vị pháp
lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN, KCX Việt
Nam đồng thời lồng ghép, so sánh trong tương quan pháp luật một số nước như
Trung Quốc, Singapore, Thái Lan… tác giả đã đưa ra những kiến nghị, đề xuất
các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về địa vị pháp
lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho phù hợp với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một vấn
đề khá hấp dẫn, đã được nghiên cứu dưới nhiều giác độ khác nhau. Trong
nhiều bài viết phân tích về mơi trường đầu tư của Việt Nam thì địa vị pháp lý
của doanh nghiệp luôn là một trong những vấn đề được bàn luận nhiều nhất.
Tuy nhiên, do môi trường đầu tư đã có nhiều thay đổi và do đầu tư trong các
KCN, KCX có những đặc thù nhất định nên gần đây chưa có cơng trình
nghiên cứu nào nghiên cứu sâu và chi tiết về địa vị pháp lý của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN, KCX Việt Nam ở cấp độ một luận
văn thạc sỹ luật học. Đặc biệt, khi Việt Nam đã là thành viên Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và tham gia một loạt các thỏa thuận song phương, đa
phương về đầu tư với các nước khác thì hệ thống pháp luật về đầu tư nói
chung và các quy định liên quan đến địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi nói riêng cần phải được nghiên cứu, tìm hiểu nhằm đáp
ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Việc tiếp tục nghiên cứu pháp luật về địa vị pháp lý của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi trong các KCN, KCX có khảo cứu, so sánh pháp
4


luật một số quốc gia trên thế giới với những phân tích có gắn với những yếu
tố và những địi hỏi của tình hình mới là đề tài mới mẻ và cần thiết.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là địa vị pháp lý của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi trong các KCN và KCX ở Việt Nam có gắn với việc so
sánh pháp luật một số nước. Với cấp độ là một luận văn thạc sĩ luật học
chuyên ngành Luật Quốc tế, tác giả tập trung đi sâu vào việc phân tích các
quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi nói chung và gắn với đặc thù các KCN, KCX Việt Nam nói riêng qua
đó phân tích đánh giá những ưu điểm và nhược điểm về địa vị pháp lý của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Ngồi ra, các phân tích của luận văn
cũng lồng ghép với việc so sánh và đối chiếu với pháp luật của một số nước
trên thế giới như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore... nhằm rút ra
những bài học kinh nghiệm và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện địa vị pháp
lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Việt Nam.
Trong q trình phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị
pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các KCN, KCX tác
giả đã cố gắng khơng so sánh, phân tích pháp luật một số nước một cách đơn
lẻ, độc lập mà lồng ghép, phân tích đan xen trong các khía cạnh của vấn đề
nghiên cứu nhằm làm toát lên, làm sáng tỏ hơn và để tìm ra điểm khác ưu việt
hơn so với pháp luật Việt Nam với mục đích đưa ra các bài học, kiến nghị
hồn thiện cơ chế, chính sách pháp luật Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Các quy định liên quan đến đầu tư nước ngồi ln thể hiện đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc thu hút các nguồn lực bên

ngoài để phát triển đất nước. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận

5


văn đã sử dụng các phương pháp khác nhau như: phương pháp luận biện
chứng duy vật để nhìn nhận, đánh giá địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước;
phương pháp điều tra xã hội học nhằm tổng hợp, đánh giá những đóng góp
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam,
những hạn chế của pháp luật, cơ chế chính sách tác động đến địa vị pháp lý
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi để từ đó có những kết luận, kiến
nghị giải pháp nhằm nâng cao vai trị của loại hình doanh nghiệp này. Ngồi
ra, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích,
chứng minh, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu khi nghiên cứu đề tài.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống
các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi trong các KCN và KCX Việt Nam có gắn với khảo cứu, so
sánh pháp luật một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đề
xuất hệ thống các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cho phù hợp với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam.
5.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm sáng tỏ về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi trong các KCN, KCX Việt Nam theo các qui định của hệ thống
pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng có so sánh, đối chiếu với pháp luật

một số nước phát triển trên thế giới.

6


- Đúc rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong
các KCN, KCX Việt Nam cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
6. Những điểm mới của luận văn
Trong phạm vi một luận văn cấp thạc sĩ, tác giả luận văn đã đạt được
một số kết quả nghiên cứu sau đây:
1) Khái quát được địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi trong các KCN, KCX tại Việt Nam.
2) Hệ thống hóa được các quy định về địa vị pháp lý của doanh nghiệp
trong các KCN, KCX Việt Nam trên cơ sở pháp luật đầu tư, pháp luật chuyên
ngành và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đồng thời khảo cứu,
so sánh pháp luật một số quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở đó, luận văn rút ra những
bài học nhằm đưa ra 03 giải pháp và 06 kiến nghị nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các KCN, KCX Việt Nam.
3) Đề xuất được một số giải pháp có giá trị thực tiễn cho các cơ quan
Nhà nước để hoàn thiện hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Với những đóng góp như vậy, tác giả luận văn mong muốn được góp
phần cơng sức nhỏ bé vào việc hồn thiện, minh bạch pháp luật Việt Nam về
địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và tăng cường thu
hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN và KCX.
7


Chương 2: Qui định pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài về địa vị
pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong các KCN và KCX.
Chương 3: Thực trạng thực thi pháp luật địa vị pháp lý của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi trong các KCN, KCX và đề xuất giải pháp.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA DOANH NGHIỆP CĨ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI
TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI TRONG CÁC KHU CƠNG NGHIỆP VÀ KHU
CHẾ XUẤT

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN là thuật ngữ pháp lý quan trọng trong hệ
thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà
nước ta có chủ trương rút ngắn khoảng cách giữa các nhà đầu tư trong nước và
các nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên, cũng như pháp luật của hầu hết các nước
trên thế giới, theo các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, giữa nhà đầu
tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài vẫn cịn tồn tại nhiều khác biệt. Chính vì

vậy, việc xác định và làm rõ khái niệm doanh nghiệp có vốn ĐTNN là hết sức
quan trọng vì đây là cơ sở pháp lý đầu tiên để xác định địa vị pháp lý của doanh
nghiệp, pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, là tiền đề để doanh
nghiệp có thể xác định rõ quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật Việt Nam.
Theo khoản 6 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005, doanh nghiệp có vốn
nước ngồi được xác định gồm: "doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài
thành lập thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam
do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại" [42]. Như vậy,
theo Luật Đầu tư, cách hiểu về doanh nghiệp có vốn ĐTNN chưa được rõ
ràng, chưa có một cách hiểu chung thống nhất mà mới chỉ liệt kê được các
trường hợp được coi là doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Điều này khiến cho các
9


nhà đầu tư gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định liệu doanh nghiệp của
mình có phải là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi hay khơng? Nhà đầu
tư nước ngoài nắm giữ bao nhiêu phần trăm vốn trong doanh nghiệp thì doanh
nghiệp được coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi? Đặc biệt, trong
các trường hợp nhà đầu tư nước ngồi góp vốn, mua cổ phần trong các doanh
nghiệp Việt Nam đang hoạt động thì nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ đến bao
nhiều phần trăm vốn điều lệ thì doanh nghiệp sẽ chuyển sang hoạt động dưới
hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài? Các doanh nghiệp được
thành lập do sự tham gia góp vốn của (các) doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài khác đã được thành lập ở Việt Nam thì được coi là doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi hay doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước?
Trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế và pháp luật đang trong q
trình hồn thiện, những điểm chưa rõ ràng nêu trên là hoàn toàn dễ hiểu. Tuy
nhiên, một cách khái quát nhất, doanh nghiệp có vốn ĐTNN được hiểu là doanh
nghiệp có sự góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Đây là cơ sở quan trọng
nhất để nhận diện một doanh nghiệp có phải là doanh nghiệp có vốn ĐTNN

hay khơng. Việc góp vốn của nhà đầu tư nước ngồi có thể được thực hiện
dưới hình thức thành lập doanh nghiệp mới hoặc mua cổ phần, sáp nhập, mua
lại. Ngoài ra, trên thực tiễn, các cơ quan quản lý nhà nước đều cho rằng các
doanh nghiệp được thành lập từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
khác tại Việt Nam cũng được coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Một vấn đề khác cũng được nhiều học giả và nhà đầu tư quan tâm là
khái niệm nhà đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ, nếu khái niệm về nhà đầu tư nước
ngồi khơng được làm rõ thì khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi cũng khơng thể được làm rõ. Theo khoản 5 Điều 3 Luật Đầu tư năm
2005, nhà đầu tư nước ngoài được xác định gồm: "tổ chức, cá nhân nước
ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam" [42]. Cũng giống
như khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, khái niệm nhà đầu tư
10


nước ngoài theo Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam được xây dựng theo
phương pháp liệt kê. Tuy nhiên, theo tôi, khái niệm này chưa chỉ rõ một số
trường hợp như người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi đầu tư vào Việt
Nam được coi là nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài. Trước
đây, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước nêu rất rõ nguyên tắc người Việt
Nam định cư ở nước ngoài khi đầu tư tại Việt Nam có thể được lựa chọn một
trong hai hình thức đầu tư là đầu tư trong nước hoặc đầu tư nước ngoài nhưng
tại Luật Đầu tư năm 2005 và các văn bản hướng dẫn cho đến thời điểm hiện
nay thì ngun tắc này lại khơng cịn được đề cập.
Ngoài ra, khi xây dựng Luật Đầu tư 2005, các nhà làm luật đã lấy tiêu
chí nguồn vốn đầu tư để phân biệt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
hay doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Tuy nhiên với cách định nghĩa
nhà đầu tư nước ngoài nêu trên, tác giả cho rằng khái niệm nhà đầu tư nước
ngoài chưa thể hiện được đầy đủ tiêu chí trên trên. Bởi lẽ, tổ chức nước ngồi
cũng có thể do nhà đầu tư Việt Nam thành lập ở nước ngoài để đầu tư trở lại

Việt Nam. Trên thực tiễn, trong thời gian qua, chúng ta đã chứng kiến rất
nhiều trường hợp các doanh nhân Việt Nam kinh doanh ở nước ngồi và
nhiều trường hợp trong số đó là rất thành công. Đến nay, các doanh nhân
thông qua các cơng ty do họ thành lập ở nước ngồi để đầu tư vào Việt Nam.
Nếu đúng theo như khái niệm về nhà đầu tư nước ngoài tại Luật Đầu tư 2005
thì các doanh nghiệp được thành lập trong trường hợp này là các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (do pháp nhân nước ngoài thành lập) nhưng
nếu xét trên phương diện nguồn vốn đầu tư thì các doanh nghiệp này lại là các
doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư của các doanh nhân Việt Nam, các doanh
nghiệp trong nước. Đây có thể coi là điểm cịn chưa hồn thiện của pháp luật
về đầu tư của Việt Nam và cần được nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian
tới.

11


Như vậy, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Việt Nam là hình
thức đầu tư mà ở đó các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ
vốn để lập ra pháp nhân mới tại Việt Nam theo quy định của Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu chung của các nhà đầu tư. Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi thể hiện dưới hai hình thức: doanh nghiệp
liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có chung một số đặc điểm sau:
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngồi là một tổ chức có tư cách
pháp nhân. Sau khi được thành lập nó trở thành chủ thể kinh doanh độc lập
trực tiếp tiến hành các hoạt động kinh doanh trên danh nghĩa doanh nghiệp và
tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi được thành lập dưới hình
thức cơng ty trách nhiệm hữuc hạn. Có nghĩa là các nhà đầu tư nước ngoài chỉ
chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp đối với các

khoản nợ của doanh nghiệp.
- Các nhà đầu tư vốn nước ngồi có quyền sở hữu tồn bộ hoặc một
phần tài sản của doanh nghiệp theo hình thức đầu tư liên doanh hay 100% vốn.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chịu sự điều chỉnh của Luật
đầu tư và pháp luật có liên quan của Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất
Ngay từ những năm 60, sớm nhận thấy những lợi thế phát triển của
các KCN tập trung, những KCN đầu tiên của nước ta được thành lập như
KCN Thượng Đình (Hà Nội), Khu gang thép Thái Nguyên (Thái Nguyên),
KCN hóa chất Việt Trì (Vĩnh Phúc) … Tuy nhiên, tại các văn bản pháp luật,
khái niệm KCX chỉ mới được đưa ra vào năm 1991 tại Quy chế Khu chế xuất
tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 332-HĐBT ngày 18/10/1991
của Hội đồng Bộ trưởng. Theo đó, KCX là "khu công nghiệp tập trung
12


chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ sản xuất hàng xuất
khẩu và xuất khẩu" và "do Chính phủ thành lập ở những địa bàn có vị trí
thuận tiện cho sản xuất hàng xuất khẩu và cho xuất khẩu, có ranh giới địa lý
được ấn định theo quyết định thành lập". Khái niệm KCN được đưa ra vào
năm 1994 tại Quy chế Khu công nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số
192-CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ. KCN có các đặc điểm đặc thù là
"Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản
xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất cơng nghiệp, khơng
có dân cư sinh sống" [12].
Tuy nhiên, phải chờ đến năm 1997, cả hai khái niệm KCN và KCX mới
được ghi nhận một cách đầy đủ tại Quy chế KCN, KCNC được ban hành kèm
theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ. Theo Nghị định này:
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công
nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ

cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, khơng có
dân cư sinh sống do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập. Trong khu cơng nghiệp có thể có doanh nghiệp chế
xuất [13].
Tiếp theo đó, định nghĩa về KCN, KCX được xây dựng chặt chẽ hơn
tại một văn bản pháp lý có giá trị cao hơn, đó là Luật Đầu tư năm 2005. Theo
đó: "Khu cơng nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo quy định của Chính phủ" [42] cịn "khu chế xuất là khu cơng
nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng
xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành
lập theo quy định của Chính phủ" [42]. Các khái niệm này một lần nữa được
nhắc lại trong Nghị định 29/2008/NĐ-CP về KCN, KCX và khu kinh tế ngày
14/3/2008 của Chính phủ.
13


Như vậy, khái niệm KCN, KCX đã thể hiện đầy đủ những đặc trưng
cũng như yêu cầu đối với KCN, KCX. Đây cũng được coi là cơ sở pháp lý
trong việc phân biệt KCN, KCX và các mơ hình sản xuất, kinh doanh tập
trung khác. Ngay trong định nghĩa về KCN, KCX có thể nhận thấy ngay đặc
điểm nổi bật nhất của các khu vực này chính là ở việc chun biệt hóa sản
xuất. Cụ thể ở đây chính là hoạt động "chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp" của KCN, và "chuyên sản
xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp" tại KCX.
Với tiêu chí là sản xuất hàng hóa với số lượng và quy mơ lớn phục vụ cho thị
trường trong nước và xuất khẩu, phương thức sản xuất trong KCN, KCX khác
hẳn với phương thức sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, sản xuất tự cung tự tiêu của
một số vùng, một số ngành như ở nước ta trước đây.
Cũng trong các khái niệm trên, KCN, KCX cịn phải có "ranh giới địa

lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định".
KCN, KCX là nơi tập trung nguồn lực để phát triển cơng nghiệp. Đó là các
nguồn lực của nước sở tại, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tập trung vào
một khu vực địa lý xác định, các nguồn lực này đóng góp vào phát triển cơ
cấu ngành mà nước sở tại ưu tiên, cho phép đầu tư, thông thường các KCN,
KCX được định hướng phát triển các ngành nghề công nghiệp mũi nhọn phù
hợp với đặc điểm vùng và điều kiện kinh tế xã hội của địa phương. Bên cạnh
đó, thủ tục hành chính đơn giản, có các ưu đãi về tài chính, an ninh, an toàn
xã hội tốt tạo thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh hàng hóa hơn các khu
vực khác. Điều này giúp các doanh nghiệp trong KCN, KCX có điều kiện
phát triển thuận lợi nhất, có điều kiện tốt nhất trong việc tiết kiệm chi phí
cũng như bảo vệ mơi trường. Đây cũng chính là mục tiêu Chính phủ đã đặt ra
khi xây dựng các KCN, KCX để thu hút vốn đầu tư với quy mô lớn, thúc đẩy
xuất khẩu, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao cơng nghệ,
kiểm sốt mơi trường. Đây cũng được coi là một đặc điểm khác biệt giữa các
doanh nghiệp hoạt động trong KCN, KCX và các doanh nghiệp hoạt động bên
14


ngoài hàng rào KCN, KCX: các doanh nghiệp hoạt động trong KCN, KCX về
thủ tục hành chính thực hiện theo cơ chế "một cửa, tại chỗ" thông qua một
đầu mối là Ban quản lý các KCN, KCX trực thuộc Ủy ban nhân dân (UBND)
tỉnh giải quyết tất cả các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, về thời gian
thường là nhanh hơn theo quy định của pháp luật (thủ tục cấp Giấy chứng
nhận đầu tư Luật quy định 15 ngày đối với trường hợp đăng ký cấp Giấy
chứng nhận đầu tư nhưng theo bộ thủ tục hành chính do Ban quản lý các
KCN, KCX Hà Nội - Hipza ban hành, thời gian giải quyết trong 10 ngày…),
các KCN, KCX có nhà máy xử lý nước thải tập trung do Công ty kinh doanh
và phát triển hạ tầng KCN, KCX xây dựng, có hệ thống PCCC và các dịch vụ,
khu phụ trợ trong KCN, KCX (dịch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, an

ninh, vệ sinh công nghiệp, vệ sinh môi trường…) tạo điều kiện phát triển sản
xuất kinh doanh, giao lưu thương mại.
Có thể nhận thấy rằng KCN, KCX có nhiều đặc điểm trùng nhau, cả
hai đều là loại hình KCN, là khu vực được xây dựng cơ sở hạ tầng một cách
đồng bộ, vốn đầu tư ban đầu tương đối lớn được lập ra để phát triển công
nghiệp mà phần lớn là cơng nghiệp tiêu dùng, khơng có dân cư sinh sống và
có các quy chế pháp lý riêng trong hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập
khẩu… Tuy nhiên, giữa hai loại hình này vẫn có những điểm khác nhau cơ
bản. Đó là, KCX được coi là khu phi thuế quan, các sản phẩm được sản xuất
ra trong KCX về cơ bản để phục vụ xuất khẩu, nếu muốn tiêu thụ ở thị trường
trong nước thì quan hệ mua bán giữa KCX và thị trường nội địa được coi là
quan hệ xuất nhập khẩu (phải tiến hành các thủ tục hải quan về nhập khẩu
hàng hóa). Trong khi đó, những hàng hóa được sản xuất từ KCN vừa có thể
xuất khẩu, vừa có thể tiêu thụ tại thị trường nội địa, quan hệ mua bán giữa
KCN và thị trường nội địa được coi là quan hệ mua bán nội địa. Ngoài ra, một
điểm khác cơ bản nữa giữa doanh nghiệp KCX và doanh nghiệp KCN là vấn
đề thuế: doanh nghiệp đầu tư vào KCX được miễn nộp các loại thuế (thuế
nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng…) khi nhập khẩu hàng hóa, máy móc thiết bị,
15


nguyên liệu, vật tư từ nước ngoài (các doanh nghiệp hoạt động trong KCX
xuất khẩu 100% sản phẩm). Đây cũng là một trong những điểm hấp dẫn nổi
trội thu hút đầu tư vào KCX. Trước đây, KCX còn được coi là địa bàn đặc
biệt được ưu đãi đầu tư và được hưởng ưu đãi cao hơn so với đầu tư vào
KCN. Tuy nhiên, khi Việt Nam gia nhập WTO, chính sách này đã được bãi
bỏ vì theo "luật chơi" của WTO, các quốc gia thành viên WTO không được
cấp ưu đãi dưới mọi hình thức để khuyến khích hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp thành lập tại nước mình và theo lộ trình tại biểu Việt Nam cam
kết với WTO đến 31/12/2011 các ưu đãi dành cho doanh nghiệp chế xuất sẽ

hết hiệu lực.
1.1.3. Khái niệm địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi trong các khu công nghiệp và khu chế xuất
Địa vị pháp lý là một thuật ngữ phổ biến trong hệ thống pháp luật của
một quốc gia, phản ánh tổng thể các nội dung pháp lý (các quyền, nghĩa vụ…)
điều chỉnh một đối tượng cụ thể. Theo định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ
pháp lý, địa vị pháp lý là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy
định cho một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia
quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Như vậy, địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong KCN,
KCX được xác định là tổng thể các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định
cho loại hình doanh nghiệp này, tạo cho loại hình doanh nghiệp có khả năng
tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp
có vốn ĐTNN trong KCN, KCX được thể hiện trong rất nhiều các quy định
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, đăng ký lại doanh nghiệp và
các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đó trong hệ thống pháp
luật như Luật Đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật Đất đai, Nghị định 108/NĐCP hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư, Nghị định 29/NĐ-CP quy định về
KCN, KCX... Như vậy có thể nói, địa vị pháp của doanh nghiệp là tổng hợp
16


các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho doanh nghiệp gắn với loại
hình có yếu tố nước ngoài và trong phạm vi luận văn này, tác giả nghiên cứu
các quyền và nghĩa vụ đặc thù trong các KCN, KCX Việt Nam và trong tương
quan so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới.
Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Nghị định 108/2006/NĐ-CP, Nghị
định 29/2007/NĐ-CP quy định một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi khi đầu tư tại Việt Nam:
- Quyền của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi: Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi có tồn quyền quyết định chương trình và kế hoạch

kinh doanh của mình phù hợp với giấy phép đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư
đã được cơ quan có thẩm quyền cấp và thực hiện đúng các nghĩa vụ mà pháp
luật Việt Nam đã quy định. Cụ thể một số quyền cơ bản như sau:
+ Quyền chủ động tổ chức quản lý doanh nghiệp;
+ Quyền chủ động trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh,
kế hoạch phát triển dài hạn và kế hoạch hàng năm của mình;
+ Quyền nhập khẩu máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên vật
liệu để xây dựng xí nghiệpvà phục vụ cho hoạt động kinh doanh;
+ Quyền được trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác xuất khẩu các sản
phẩm của mình có quyền tiêu thụ sản phẩm của mình tại thị trường Việt Nam
nhưng phải tuân theo quy định của Việt Nam về quảnlý thị trường;
+ Quyền tuyển dụng, thuê mướn lao động Việt Nam và phải tuân theo
quy định của Việt Nam về bảo vệ người lao động, tôn trọng quyền tham gia
công đồn, các tổ chức chính trị xã hội khác. Có quyền tuyển dụng, thuê
mướn lao động nước ngoài nhưng chỉ những cơng việc địi hỏi kỹ thuật,
nghiệp vụ cao mà người Việt Nam không đáp ứng được;
+ Quyền tự chủ về tài chính và hoạt động theo nguyên tắc hạch toán
kinh tế độc lập.
17


- Nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi:
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phải nộp thuế lợi tức (Thuế
thu nhập) bằng 25% lợi nhuận thu được. Trong trường hợp khuyến khích đầu
tư có thể sẽ giảm thuế lợi tức phù hợp: 20%,15%, 10% cho từng lĩnh vực
khuyến khích; miễn và giảm 50% thuế lợi tức trong những trường hợp khuyến
khích đầu tư từ 2 đến 8 năm tùy theo mức độ khuyến khích được quy định cụ
thể cho từng dự án;
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phải nộp thuế nhập khẩu và
thuế giá trị gia tăng theo các quy định của pháp luật Việt Nam. Miễn thuế

nhập khẩu cho các trường hợp nhập khẩu các thiệt bị, máy móc để đầu tư xây
dựng cơ bản hình thành xí nghiệp hoặc mở rộng quy mô dự án đầu tư, phương
tiện vận chuyển nhập khẩu để đưa đón cơng nhân;
+ Khi nhà đầu tư nước ngoài muốn chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
phải nộp thuế chuyển lợi nhuận. Tùy theo mức độ đầu tư vốn của nhà đầu tư
mà tính tỷ lệ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: trên 10 triệu USD nộp
3%; trên 5 triệu USD dến 10 triệu USD nộp 5%; các dự án còn lại nộp 7%.
+ Doanh nghiệp có vốn ĐTNN cịn phải nộp tiền th đất, mặt nước,
mặt biển và thuế tài nguyên nếu khai thác tài nguyên;
+ Trích 5% lợi nhuận để lập quỹ dự phịng. Quỹ dự phịng khơng q
25% vốn pháp định của doanh nghiệp;
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phải chấp hành nghiêm
chỉnh các quản lý ngoại hối củaViệt Nam. Doanh nghiệp phải mở tài khoản
tại ngân hàng Việt Nam. Mọi khoản thu chi của doanh nghiệp phải thực hiện
thông qua tài khoản tại ngân hàng Việt Nam;
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phải áp dụng chế độ kế
toán Việt Nam.

18


×