Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

(Luận văn thạc sĩ) đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ NGỌC TÚ

ĐỒI MỚI HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN
VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN CỦA QUỐC HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ NGỌC TÚ

ĐỒI MỚI HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN
VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN CỦA QUỐC HỘI
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung

Hà nội - 2011



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN VÀ

3

TRẢ LỜI CHẤT VẤN

1.1.

Khái quát về chức năng giám sát của Quốc hội

3

1.2.

Khái niệm, đặc điểm, hệ quả của hoạt động chất vấn và trả
lời chất vấn

7


1.2.1

Khái niệm hoạt động chất vấn

7

1.2.2.

Đặc điểm hoạt động chất vấn

7

1.2.3.

Hệ quả chính trị - pháp lý của hoạt động chất vấn

10

1.3.

Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn ở một số nước

14

1.4.

Chất vấn - Hình thức giám sát trực tiếp, có hiệu quả của
Quốc hội

28


1.4.1.

Vai trò của chất vấn và trả lời chất vấn đối với hoạt động
giám sát tối cao

28

1.4.2.

Những yếu tố tác động đến hiệu lực và hiệu quả của hoạt
động chất vấn

32

Chƣơng 2:

37

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN VÀ TRẢ
LỜI CHẤT VẤN CỦA QUỐC HỘI

2.1.

Quá trình phát triển các quy định của pháp luật về chất vấn
và trả lời chất vấn

37

2.1.1.


Giai đoạn 1946 - 1959

37


2.1.2.

Giai đoạn 1959 - 1980

38

2.1.3.

Giai đoạn 1980 - 1992

39

2.1.4.

Giai đoạn 1992 đến nay

42

2.2.

Thực trạng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc
hội từ Hiến pháp 1992 đến nay

50


2.2.1.

Nhận thức về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn

50

2.2.2.

Về quy trình, thủ tục tiến hành hoạt động chất vấn và trả lời
chất vấn

52

2.2.2.1. Vai trò, ý nghĩa của quy trình chất vấn và trả lời chất vấn

52

2.2.2.2. Thực trạng của quy trình chất vấn và trả lời chất vấn của
Quốc hội

54

2.2.3.

60

Chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội trong thời
gian qua


2.2.3.1. Chất vấn và trả lời chất vấn tại Quốc hội khóa IX

61

2.2.3.2. Chất vấn và trả lời chất vấn ở Quốc hội khóa X, XI và khóa
XII

62

2.2.4.

Chất vấn và trả lời chất vấn ngoài kỳ họp Quốc hội

65

2.2.5.

Những hạn chế trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
của Quốc hội trong thời gian qua

66

2.2.5.1. Hạn chế trong các quy định hiện hành về chất vấn và trả lời
chất vấn

66

2.2.5.2. H¹n chế trong cách nêu câu hỏi chất vấn

69


2.2.5.3. Hn ch trong cách trả lời chất vấn

69

2.2.6.

Đánh giá chung

69

Chƣơng 3:

72

PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI, NÂNG CAO HIỆU
LỰC, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN VÀ TRẢ
LỜI CHẤT VẤN CỦA QUỐC HỘI

3.1.

Yêu cầu khách quan của việc đổi mới, nâng cao hiệu lực,

72


hiệu quả hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
3.2.

Quan điểm chỉ đạo đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời

chất vấn

75

3.3.

Trọng tâm yêu cầu đổi mới

76

3.3.1.

Tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội

76

3.3.2.

Nghiên cứu, hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động chất
vấn và trả lời chất vấn

80

3.4.

Các giải pháp đổi mới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn

85


3.4.1.

Các giải pháp chung

85

3.4.2.

Các giải pháp tại kỳ họp

90

KẾT LUẬN

97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

99


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Thống kê số lượng chất vấn trong nhiệm kỳ Quốc hội


63

bảng
2.1

khoá IX, X, XI và khóa XII


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chất vấn và trả lời chất vấn tại hầu hết Nghị viện (Quốc hội) các nước
trên thế giới là việc làm đã được thực hiện từ lâu, hiệu lực và hiệu quả của
hoạt động này có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động của Nghị viện
và Quốc hội. Ở Việt Nam, về mặt pháp lý thì lần đầu tiên hoạt động chất vấn
được quy định tại Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, khái niệm về chất vấn và
quy trình, thủ tục, cách thức tiến hành hoạt động này như thế nào thì lại chưa
được quy định. Đến các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và các văn bản pháp luật
có liên quan được ban hành theo từng thời kỳ thì hoạt động chất vấn, trả lời chất
vấn mới dần được quy định rõ hơn. Đến nay, các văn bản pháp luật quy định về
hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn cơ bản đã tương đối đầy đủ, thời gian qua
Quốc hội đã triển khai hoạt động này tương đối hiệu quả. Tuy nhiên, qua thực
tiễn triển khai hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn cho thấy các quy định
hiện hành về hoạt động này đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập; một số quy
định còn thiếu cụ thể, rõ ràng, khó áp dụng trong thực tiễn, làm ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu tương đối tổng thể về
chức năng giám sát của Quốc hội. Tuy nhiên, việc đi vào nghiên cứu chuyên sâu
về từng hình thức giám sát cụ thể của Quốc hội, trong đó có hoạt động chất vấn

và trả lời chất vấn thì cịn ít tác giả thực hiện. Đối với hoạt động chất vấn và trả
lời chất vấn, thời gian qua đã có một số chuyên gia, một số nhà khoa học và
người làm công tác thực tiễn viết về vấn đề này. Tuy nhiên, những bài viết đó
nhìn chung mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu một số vấn đề ở một khía cạnh nhất
định, chưa thực sự là cơng trình nghiên cứu chun sâu, tương đối tồn diện về
hoạt động này. Với mong muốn đóng góp tiếng nói, nhằm kiến nghị với cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc nghiên cứu, đề xuất tiếp tục hoàn thiện

1


cơ sở pháp lý, làm tiền đề cho việc đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất
vấn trong thời gian tới tác giả đã lựa chọn đề tài "Đổi mới hoạt động chất vấn
và trả lời chất vấn của Quốc hội" để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc
nghiên cứu đường lối, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước; cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc đổi mới hoạt
động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội. Các phương pháp nghiên cứu
cụ thể bao gồm: dẫn giải, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các quy định của pháp
luật về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, thực tiễn quá trình triển khai
hoạt động này của Quốc hội trong thời gian qua, tam khảo kinh nghiệm chất
vấn của Nghị viện một số nước trên thế giới. Với đối tượng nghiên cứu như
vậy, đề tài tập trung làm rõ về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc đổi mới
hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội nước ta. Từ đó đưa ra các
giải pháp, kiến nghị cụ thể có tính khoa học và sát với thực tiễn, hướng tới
mục tiêu đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội, tăng

cường hiệu lực và hiệu quả của hoạt động này trong thực tế.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Chương 2: Thực trạng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội.
Chương 3: Hướng đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động chất
vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội.

2


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN
VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN

1.1. Khái quát về chức năng giám sát của Quốc hội
Trong lịch sử các học thuyết về nhà nước thì vấn đề giám sát quyền
lực ln được nghiên cứu gắn bó hữu cơ với việc xây dựng cơ chể tổ chức
quyền lực nhà nước. Đây cũng là một trong những vấn đề được khoa học
pháp lý qua nhiều thời đại quan tâm để xây dựng lên những thiết chế để đảm
bảo quyền lực được sử dụng có hiệu lực, hiệu quả đúng với mục đích, yêu cầu
của người sở hữu quyền lực và phòng ngừa việc lạm dụng quyền lực.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực
tiễn của nước ta, đồng thời thể chế quan điểm của Đảng trong trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là
Cương lĩnh năm 1991), Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước" (Điều 83).
Đây là cơ sở pháp lý cao nhất về chức năng giám sát của Quốc hội cùng với
các chức năng khác đã thể hiện được quan điểm tập trung quyền lực vào cơ

quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Quy định này của Hiến pháp khơng có
nghĩa là do Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến nên Quốc hội tự
trao cho mình thẩm quyền này. Vấn đề giám sát quyền lực nhà nước có cội
nguồn sâu xa là quyền lực nhà nước khơng phải là quyền lực có tính tự thân
mà là quyền lực do nhân dân ủy quyền nên nhân dân có quyền giám sát quyền
lực nhà nước được thực thi như thế nào. Nói cách cách khác là quyền lực nhà
nước là quyền lực ủy quyền nên việc giám sát quyền lực nhà nước là cần thiết
và chính đáng. Nhân dân có thể trực tiếp thực thi quyền giám sát của mình
hoặc gián tiếp thực thi quyền giám sát thông qua cơ quan đại diện. Liên quan
tới vấn đề này, Điều 6 Hiến pháp quy định: "Nhân dân sử dụng quyền lực nhà

3


nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân". Vì Quốc hội được Hiến
pháp quy định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nên đồng
thời Quốc hội cũng được Hiến pháp trao cho chức năng thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quy định về quyền giám
sát tối cao của Quốc hội thể hiện tính logic trong cơ chế tổ chức quyền lực
nhà nước và hệ thống chính trị ở nước ta, đồng thời cũng phản ánh được
truyền thống văn hóa lập hiến của Việt Nam luôn coi trọng địa vị của Quốc
hội với tư cách là cơ quan đại diện cho chủ quyền của nhân dân để giám sát
việc thực thi quyền lực do nhân dân uỷ quyền. Việc xác định địa vị pháp lý
của Quốc hội nói chung và quy định cho Quốc hội có thẩm quyền giám sát tối
cao nói riêng có liên quan đến các học thuyết tổ chức nhà nước. Ở Việt Nam,
cùng với việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin về vấn đề nhà nước vào điều
kiện cụ thể để xây dựng cơ chế tổ chức quyền lực, Đảng và Nhà nước cũng đã
có nhiều đổi mới, nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vấn đề này qua việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, theo đó "quyền lực

nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Đã có
nhiều cách lý giải khác nhau vể cơ chế tổ chức quyền lực hiện nay của nhà
nước ta nhưng quyền lực nhà nước của Quốc hội vẫn được coi là có tính nổi
trội hơn và khơng thể đặt vị thế của Quốc hội ngang bằng hay kiềm chế, đối
trọng với các quyền hành pháp, quyền tư pháp như các nước có tổ chức bộ
máy theo học thuyết phân quyền.
Chức năng giám sát của Quốc hội - quyền giám sát tối cao của Quốc
hội là quyền năng của Quốc hội, thể hiện trong quá trình theo dõi, kiểm tra,
đánh giá đối với mọi hoạt động của nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đồng thời đưa ra biện pháp xác định trách nhiệm chính trị, trách
nhiệm pháp lý của các đối tượng chịu sự giám sát nhằm mục đích cảnh báo,

4


phát hiện, phòng ngừa ngăn chặn và xử lý những vi phạm có thể xảy ra. Việc
thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp có mối quan hệ hữu
cơ với với hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng
Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Khơng có cơ sở để phân biệt tách rời hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ
họp mới là hoạt động giám sát tối cao, còn hoạt động giám sát của các chủ thể
thuộc cơ cấu, tổ chức của Quốc hội không phải là hoạt động giám sát tối cao.
Như vậy, hoạt động giám sát của các chủ thể thuộc cơ cấu của Quốc hội một
mặt phải đặt trong mối liên hệ thống nhất về quyền lực của Quốc hội, mặt
khác phải luôn hướng về kỳ họp Quốc hội. Có như vậy, quyền giám sát tối
cao của Quốc hội mới phát huy được tính hiệu lực, hiệu quả.
Quyền giám sát tối cao của Quốc hội cùng với các quyền kiểm tra,
thanh tra của Chính phủ, quyền kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, quyền

kiểm sát của Viện kiểm sát, quyền giám đốc của tòa án đã tạo một hệ thống
kiểm tra, giám sát quyền lực trong bộ máy nhà nước ta. Hoạt động thực hiện
các quyền nói trên có tính độc lập tương đối về tác nghiệp nhưng không phải
biệt lập đối với nhau và trên hết các cơ quan Chính phủ, Tịa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước phải định kỳ hoặc
đột xuất phải báo cáo kết quả hoạt động của mình với Quốc hội. Trên cơ sở
kết quả giám sát, Quốc hội có thể ra những quyết định thích hợp và quyết
định đó là quyết định cuối cùng mà không một cơ quan nào trong bộ máy nhà
nước được xem xét lại. Với lý luận và thực tiễn tổ chức mơ hình thực hiện
quyền giám sát tối cao như trên, chủ quyền của nhân dân thông qua hoạt động
của cơ quan đại diện cao nhất đã được bảo đảm.
Để cụ thể hóa quy định Điều 83 của Hiến pháp về chức năng giám sát
của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10, cũng đã có nhiều quy định khác thể hiện rõ hơn nội hàm,
bản chất của quyền này. Quốc hội cũng đã ban hành nhiều luật, nghị quyết
như Luật tổ chức của Quốc hội năm 2001 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2007),

5


Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, các nghị quyết ban hành
Nội quy kỳ họp Quốc hội năm 2002, Quy chế hoạt động của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội năm 2004, Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội năm 2004, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội năm 2002. Trong số các văn bản đó quan trọng nhất
là Luật tổ chức Quốc hội tập trung quy định về tổ chức thẩm quyền giám sát
và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội tập trung quy định về trình tự, thủ
tục giám sát. Đặc biệt việc ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
đã đánh dấu bước đổi mới quan trọng của Quốc hội về việc đề cao chức năng
giám sát tối cao, đáp ứng yêu cầu chính đáng của cử tri về việc kiểm tra, giám

sát đối với hoạt động cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, nhất là
đối với những người nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước.
Trên cơ sở các văn bản nói trên, liên quan đến việc thực hiện quyền giám sát
tối cao có thể phân loại thành các nhóm quy định cơ bản sau:
Các quy định về thẩm quyền của chủ thể thực hiện quyền giám sát tối
cao cho thấy quyền giám sát tối cao của Quốc hội không chỉ được thực hiện
tại kỳ họp Quốc hội mà cịn được thực hiện giữa hai kỳ họp thơng qua hoạt
động của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
Các quy định về đối tượng chịu sự giám sát thể hiện đối tượng chịu sự
giám sát được quy định tập trung vào các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Ngoài ra, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
có thể tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi
xét thấy cần thiết.
Các quy định về phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao đã thể
hiện được tính đa dạng trong giám sát như xem xét báo cáo, chất vấn, thành
lập ủy ban điều tra lâm thời, yêu cầu đối tượng chịu sự giám trình bày hoặc
cung cấp tài liệu. Các quy định về trình tự thủ tục giám sát đã cụ thể hóa cách
thức thực hiện các phương thức giám sát, tạo điều kiện cho hoạt động thực
hiện quyền giám sát tối cao được thuận lợi và dễ dàng hơn.

6


1.2. Khái niệm, đặc điểm, hệ quả của hoạt động chất vấn và trả lời
chất vấn
1.2.1. Khái niệm hoạt động chất vấn
Hiểu theo nghĩa kinh điển, chất vấn (interpellation) nghĩa là "hỏi và đề
nghị giải thích rõ về điều gì , viê ̣c gì . Theo định nghĩa của từ điển Webster’s
1913 Dictionary là yêu cầu quan chức giải thích hoạt động, hành động của
mình; là những câu hỏi buộc phải trả lời. Cịn từ điển mạng (WordNet

Dictionary) giải thích đó là quy trình trong nghị viện nhiều nước nhằm yêu
cầu Chính phủ giải thích một động thái hoặc chính sách của mình.
Ở nước ta, theo quy định của Điều 2, Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội năm 2003, chất vấn là:
… Hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu
những vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu những người này trả lời [36].
Chất vấn và trả lời chất vấn là một trong năm hình thức giám sát tối cao
của Quốc hội tại kỳ họp. Theo quy định tại Điều 7 Điều 40 Luật Hoạt động
giám sát năm 2003 và quy định tại Điều 98 Hiến pháp năm 1992, Điều 49
Luật tổ chức Quốc hội thì những người phải trả lời chất vấn trước Quốc hội
bao gồm: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng
và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tịa án nhân dân tối cao và
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động chất vấn
Chất vấn là công cụ giám sát mạnh nhất của Quốc hội và đại biểu
Quốc hội, vì nó quy trách nhiệm chính trị. Đối với cá nhân đại biểu chất vấn
là cách thức quan trọng để giám sát hoạt động của các quan chức nhà nước,

7


trong đó có các quan chức chính phủ. Trong mối quan hệ giữa Quốc hội và
Chính phủ, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo
cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Trách nhiệm thì có nhiều loại và được xác định thơng qua những cách thức và
thủ tục khác nhau. Trách nhiệm kỷ luật được xác định thông qua hoạt động

kiểm tra, trách nhiệm hành chính thơng qua hoạt động thanh tra, trách nhiệm
hình sự thông qua hoạt động điều tra. Chất vấn, như một hình thức giám sát
của Quốc hội, khơng nhằm xác định bất cứ trách nhiệm nào như đã nói ở trên,
mà để làm rõ trách nhiệm chính trị. Trách nhiệm chính trị và trách nhiệm
pháp lý là hai loại trách nhiệm khác nhau: Ví dụ, ta khơng thể áp dụng điều
luật về tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng cho quyết
sách liên quan đến ngành mía đường. Vì hậu quả nghiêm trọng thì có, nhưng
sự thiếu tinh thần trách nhiệm thì khơng. Những quyết sách rất có tinh thần
trách nhiệm thì vẫn có thể thiếu một tầm nhìn. Mà thiếu tầm nhìn, người ta chỉ
có thể chịu trách nhiệm về chính trị. Như vậy, trách nhiệm chính trị là trách
nhiệm về chính sách, khơng phải trách nhiệm về hành vi. Hoạt động chất vấn
vì vậy sẽ lạc đề nếu tập trung vào các vụ việc cụ thể mà không làm rõ được
các vấn đề ở tầm chính sách. Nếu chất vấn vào các vụ việc cụ thể, Quốc hội
khơng bao giờ có đủ thời gian để xem xét những vấn đề to lớn của đất nước.
Chất vấn là một phương pháp kiểm tra năng lực của quan chức trong nắm
bắt và điều chỉnh lĩnh vực được phân cơng. Để thực hiện mục đích này, Quốc
hội nhiều nước, nhất là Quốc hội của các nước theo mô hình của Anh thường
khơng cho biết trước các câu hỏi chất vấn. Một vị Bộ trưởng nắm vững công việc
sẽ trả lời lưu lốt các câu hỏi đặt ra, cịn nếu ngược lại thì uy tín sẽ bị giảm sút.
Chất vấn, xét về một khía cạnh nào đó là sự cảnh báo của Quốc hội về
một vấn đề hay một tình trạng cần được lưu ý giải quyết (ví dụ, tình trạng các
doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ nhưng những người đứng đầu doanh

8


nghiệp này lại giàu lên nhanh chóng; việc tinh giảm biên chế và gánh nặng
đối với xã hội...). Sự cảnh báo này nhằm nâng cao tính dự đốn và trách
nhiệm phải nhìn nhận trước vấn đề của người quản lý.
Ngồi ra, chất vấn cũng có mục đích cung cấp thơng tin và tạo cơ hội

cho Quốc hội đánh giá, phê bình các thành viên Chính phủ, các vị trưởng
ngành (như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao…) vì làm hay khơng làm điều gì đó. Bằng cách này, các đại
biểu có thể buộc các vị Bộ trưởng, Trưởng các ngành chia sẻ thơng tin.
Chất vấn là một hoạt động có sức thu hút sự chú ý rộng rãi của công
luận, do đó tạo sức ép lên Chính phủ để vấn đề đó được giải quyết nhanh hơn.
Hoạt động chất vấn của Quốc hội, nhất là trong kỳ họp của Quốc hội ở nước
ta được coi là đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp thu hút được sự chú ý của
đông đảo quần chúng nhân dân, của công luận về các vấn đề đang đặt ra trong
đời sống xã hội cần được giải quyết. Trong điều kiện bùng nổ về thông tin
như hiện nay, các vấn đề được đưa ra chất vấn tại diễn đàn của Quốc hội đều
được đăng tải trên báo chí và được truyền hình trực tiếp nên chất vấn tạo điều
kiện cho nhân dân giám sát cơ quan dân cử, giám sát đại biểu Quốc hội và
giám sát các cán bộ cấp cao trong bộ máy nhà nước.
Chất vấn, với tư cách là một hình thức giám sát của Quốc hội, được
phân biệt với các hình thức khác chủ yếu ở bản chất, mục đích, thủ tục và hậu
quả của nó.
Về bản chất, chất vấn là một hình thức được Quốc hội áp dụng để
giám sát hoạt động của các cơ quan và cá nhân được giao quyền, là sự thể
hiện cụ thể, trực tiếp quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Các đại biểu Quốc
hội khi thực hiện quyền chất vấn của mình là nhân danh cá nhân với tư cách
là người đại diện quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân yêu cầu cá nhân
bị chất vấn trả lời về trách nhiệm pháp lý của cá nhân đó về những việc làm
có đúng với chức năng, nhiệm vụ quyền hạn theo luật định hay không.

9


Theo quy định của pháp luật thì chất vấn là quyền của cá nhân đại
biểu Quốc hội. Khi thực hiện chất vấn đại biểu Quốc hội độc lập là người đại

diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân, nhân danh quyền lực tối cao của nhân
dân chứ không phải nhân dân một cơ quan, tổ chức hay Đoàn đại biểu Quốc
hội mà mình là thành viên.
Đại biểu Quốc hội khi thực hiện hoạt động chất vấn khơng phải nhằm
mục đích thu thập thông tin hay số liệu mà nhằm làm rõ trách nhiệm của cá
nhân có trách nhiệm đối với một số vấn đề nào đó. Đây là chính là điểm cơ
bản để phân biệt chất vấn với câu hỏi thường. Trên thực tế chất vấn cũng có
thể được thể hiện dưới dạng câu hỏi nhưng mục đích của chất vấn và câu hỏi
thường khác nhau. Việc hỏi và yêu cầu trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc
hội quan tâm (hay còn gọi là câu hỏi thường) nhằm thu thập thông tin, số liệu
về các vấn đề nào cần biết trước khi đặt câu hỏi người hỏi hầu như chưa có
thơng tin về vấn đề mà mình hỏi. Loại câu hỏi thường phụ thuộc vào nhu cầu
nắm bắt thông tin của đại biểu Quốc hội chứ không được quy định trong bất
kỳ văn bản pháp luật nào và cũng không bị hạn chế đối với bất kỳ đối tượng
nào. Còn đối với chất vấn, trước khi nêu vấn đề đại biểu Quốc hội phải tìm
hiểu rất kỹ và nắm thơng tin về vấn đề mà mình cần chất vấn để làm rõ trách
nhiệm của cá nhân có thẩm quyền đối với một vấn đề nào đó. Chất vấn được
quy định rất rõ trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, đối tượng chất
vấn cũng được chỉ ra cụ thể trong một phạm vi nhất định. Vấn đề chất ván khi
đã được nêu lên theo đúng thể thức của pháp luật, chuyển đến người bị chất
vấn thì khơng cịn là mối quan hệ cá nhân giữa người bị chất vấn và người
chất vấn mà đã trở thành một hình thức giám sát của Quốc hội.
1.2.3. Hệ quả chính trị - pháp lý của hoạt động chất vấn
Chất vấn là hoạt động dẫn đến hệ quả chính trị to lớn. Chất vấn là
công cụ giám sát mạnh nhất của nghị viện các nước, vì nó quy trách nhiệm,
có khi buộc tội các thành viên Chính phủ. Chất vấn có thể dẫn đến việc đặt

10



vấn đề ủng hộ hay phản đối hoạt động của Chính phủ. Thậm chí có thể có
việc đưa ra nghị quyết bất tín nhiệm và dẫn đến sự từ chức của Chính phủ.
Chẳng hạn, theo khoản 2 Điều 111 Hiến pháp Tây Ban Nha, "Bất kỳ cuộc
chất vấn nào cũng có thể là lý do để đưa ra nghị quyết, qua đó các viện phản
ánh quan điểm của mình". Do những hậu quả nghiêm trọng như vậy, qui tắc
và qui chế của các viện có những qui định phức tạp về việc đưa ra và thảo
luận chất vấn. Ở một số nước, việc chất vấn có thể dẫn đến việc Quốc hội
biểu quyết thông qua kiến nghị (motion) đưa ra thảo luận tại Quốc hội về
trách nhiệm của một quan chức nào đó. Và cao hơn nữa, một số nước quy
định khi kiến nghị thu được một số lượng chữ ký nhất định thì vị quan chức
này phải điều trần trước Quốc hội và có thể bị cách chức, thậm chí Quốc hội
có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với một chính sách của Chính phủ.
Hệ quả chính trị của chất vấn cũng thể hiện ở chỗ, chất vấn xét về
một khía cạnh nào đó là sự cảnh báo của Quốc hội về một vấn đề hay một
tình trạng cần được lưu ý giải quyết. Sự cảnh báo này nhằm nâng cao tính dự
đốn và trách nhiệm phải nhìn nhận trước vấn đề của các cơ quan quản lý.
Trên phương diện hệ quả chính trị, chất vấn cũng có mục đích cung cấp
thơng tin và tạo cơ hội cho Quốc hội đánh giá, phê bình Chính phủ vì làm
hay khơng làm điều gì đó. Bằng cách này các đại biểu có thể buộc các bộ
trưởng chia sẻ thơng tin. Ngay cả khi đơn thuần hỏi - đáp mà không biểu
quyết về thái độ của nghị viện đối với trả lời của chính phủ, họat động này
của nghị viện cũng đã buộc chính phủ phải giải trình đã được gì, chưa làm
được gì, tại sao, và định làm gì trong tương lai. Chất vấn cũng mang lại hệ
quả xã hội to lớn, thường là có tác động rộng rãi hơn hệ quả chính trị. Chất
vấn thu hút sự chú ý rộng rãi của cơng luận về vấn đề nào đó, do đó tạo sức
ép lên Chính phủ để nó được giải quyết nhanh hơn. Chẳng hạn, mỗi năm
Nghị viện Canada họp khoảng 150 ngày. Trong thời gian đó, hàng ngày
Nghị viện đều có lịch chất vấn. Phần lớn ý kiến của cử tri về Chính phủ
được hình thành trên cơ sở những gì họ thấy từ những buổi chất vấn này (và


11


từ các hoạt động khác của Nghị viện) được phản ánh qua truyền hình và báo
chí. Việc truyền hình hay truyền thanh trực tiếp và các bình luận của báo chí
về những buổi trả lời chất vấn của các quan chức Chính phủ đã tạo nên một
luồng cơng luận mạnh mẽ và gây áp lực xã hội to lớn. Vì vậy, ở một số nước
đa số bộ trưởng phải từ chức do áp lực của công luận chứ không nhất thiết là
áp lực từ phía nghị viện.
Ở nước ta, Điều 11 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định:
… Sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu Quốc hội không
đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục
thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của
Quốc hội hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với
người bị chất vấn. Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và
trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết [36].
Điều 13, Luật này cũng quy định về việc Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm
như sau:
…Ủy ban Thường vụ Quốc hội tự mình hoặc khi có kiến
nghị của ít nhất hai mươi phần trăm (20%) tổng số đại biểu Quốc
hội hoặc kiến nghị của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn… Trong trường hợp người được đưa
ra bỏ phiếu tín nhiệm khơng được q nửa tổng số đại biểu Quốc
hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc đề
nghị phê chuẩn người đó có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét,
quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn
nhiệm, cách chức người đó [36].
Điều 25, Quy chế hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định:
"… Khi xét thấy cần thiết, ra nghị quyết hoặc đề nghị Quốc hội ra nghị quyết

về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn" [37].

12


Như vậy, tại các phiên chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội hoặc ít nhất hai mươi phần trăm (20%) tổng số đại
biểu Quốc hội, hoặc Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có quyền đề
nghị Quốc hội ra nghị quyết về chất vấn. Tại phiên chất vấn của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền tự mình ra
Nghị quyết về chất vấn hoặc đề nghị Quốc hội ra nghị quyết vềđược vấn đề mà mình đưa ra trước diễn đàn
Quốc hội. Đây là một điểm mấu chốt quan trọng đối với hoạt động chất vấn
như vậy mới khai thác hết được tính chất tối ưu của hoạt động này nhằm giải
quyết tận cùng vấn đề chất vấn và trách nhiệm của mỗi người quản lý. Trong
xu thế đổi mới và hội nhập, để hồn thành tốt vai trị đại diện của mình ngoài

86


trình độ học vấn đại biểu cịn phải xây dựng cho mình một khả năng nghề
nghiệp phong cách riêng. Trong hoạt động chất vấn nói riêng hoạt động của
Quốc hội nói chung đại biểu phải phát biểu, chứng minh, giải trình, thuyết
phục quan điểm của mình trên diễn đàn Quốc hội, trước cử tri, trước các phương
tiện thông tin đại chúng... Bởi vậy, xây dựng mộ khả năng hùng biện tốt là
một điều quan trọng đối với một đại biểu Quốc hội. Ngoài ra, trên cương vị là
một đại biểu Quốc hội sẽ phải giao tiếp với nhiều thành phần khác nhau từ cử
tri đến các cấp lãnh đạo, khách nước ngồi, báo giới... ở một phương diện nào
đó thì tất cả các đối tượng này đều có tầm quan trọng như nhau, tuy nhiên tuỳ
từng thời điểm, tuỳ từng vấn đề mà đại biểu cần chú ý tập trung vào một hay
vài đối tượng nào đó. Mỗi đối tượng cần phải có một phong cách giao tiếp

riêng để có thể nắm bắt nhu cầu, tâm tư nguyện vọng và sự tin tưởng của họ
đối với cơng việc mình đang làm.
Quốc hội có đặc thù là hoạt động theo nhiệm kỳ, cứ 5 năm một lần
Quốc hội lại có sự thay đổi nhân sự đại biểu Quốc hội. Bên cạnh đó, cơng
việc của Quốc hội lại khá phức tạp, u cầu ngày một cao hơn. Để có bản lĩnh
thực hiện trọng trách với dân, các đại biểu dân cử không chỉ cần có tâm huyết
và ý thức trách nhiệm, mà còn cần được rèn luyện năng lực và kỹ năng hoạt
động trên cương vị người đại biểu của dân. Chính vì vậy, cơng tác bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng cho đại biểu Quốc hội để ngang tầm với nhiệm vụ đại biểu
dân cử, trong đó có kỹ năng chất vấn được xác định là một việc làm vô cùng
quan trọng và cần được quan tâm thực hiện ở mức độ hợp lý nhất.
- Tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chun trách, ngồi Đảng, tăng tính
chun nghiệp trong hoạt động của Quốc hội, giảm số đại biểu Quốc hội
đồng thời là thành viên Chính phủ
Do những điều kiện lịch sử của từng thời kỳ khác nhau, trước đây
hình thức đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm rất thích hợp với thực tiễn. Tuy
nhiên, đứng trước những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và hoạt động của

87


Quốc hội thì hình thức đại biểu kiêm nhiệm khó có thể đáp ứng hết được
những yêu cầu khó khăn của công tác lập pháp, giám sát và quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước. Do vậy yêu cầu chuyên nghiệp hoá đại biểu
Quốc hội là một nhu cầu cấp bách. Vấn đề tăng số lượng đại biểu chuyên
trách đã được đặt ra thành mục tiêu của Quốc hội, nhưng để vươn xa hơn nữa
chúng ta cần tiến tới tính chuyên nghiệp của đại biểu Quốc hội. Thực tế cho
thấy Quốc hội cần một đội ngũ đông đảo các vị đại biểu chuyên trách những
người dành toàn bộ thời gian của mình cho hoạt động của Quốc hội và không
kiêm nhiệm công tác điều hành, quản lý nhà nước trong bộ máy chuyên trách

được gắn với việc tổ chức các cơ quan của Quốc hội chuyên trách được gắn
với việc tổ chức của các cơ quan của Quốc hội hoạt động chuyên trách được
gắn với việc tổ chức cua các cơ quan của Quốc hội như Ủy ban Thường vụ
Quốc hội. Trên thực tế, việc hình thành bộ phận thường trực là các đại biểu
chuyên trách đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng dân tộc
và các Ủy ban của Quốc hội về các vấn đề thuộc lĩnh vực được phân công.
Tuy nhiên, việc tăng cường số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách cũng cần
tính đến một vấn đề cụ thể. Về nguyên tắc, đại biểu hoạt động chuyên trách
cũng chỉ mang theo nhiệm kỳ. Do đó, việc bố trí các đại biểu Quốc hội hoạt
động chuyên trách cần đảm bảo tính ổn định tương đối để phát huy hiệu quả
và tận dụng được kinh nghiệm hoạt động của đại biểu trong việc đóng góp
cho cơng việc của Quốc hội. Vậy nên hướng bố trí những người có đủ điều
kiện ứng cử đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách từ hai khoá trở lên.
Bên cạnh đó, Quốc hội cũng cần tăng cường số đại biểu Quốc hội là người
ngoài Đảng, giảm số lượng thành viên Chính phủ tham gia Quốc hội. Chính
những đại biểu Quốc hội ngồi Đảng, khơng là thành viên Chính phủ là
những người dám thể hiện bản lĩnh, dám nói lên những suy nghĩ thật nhất để
bảo vệ quyền lợi của cử tri.

88


- Tăng cường hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn vào thời gian
ngoài kỳ họp Quốc hội.
Để đảm bảo cho hoạt động chất vấn mang tính thường xuyên, liên tục
giải đáp được những vấn đề thời sự bức xúc, hạn chế tình trạng chất vấn dồn
dập trong kỳ họp, đề nghị Quốc hội tăng cường thực hiện việc chất vấn và trả
lời chất vấn về những vấn đề có nội dung liên quan tại các phiên họp của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội; tiến tới sửa đổi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
và các văn bản pháp luật liên quan cho phép tổ chức chất vấn tại các phiên

họp của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Việc chất vấn và trả lời
chất vấn tại các phiên họp này cũng được truyền hình trực tiếp để cử tri cả nước
theo dõi. Theo giải pháp này, tại các kỳ họp Quốc hội, chỉ tập trung chất vấn,
trả lời chất vấn về những vấn đề nổi cộm và xử lý dứt điểm từng vấn đề cụ
thể.
Hoạt động chất vấn tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban là một hoạt động
giám sát rất thiết thực, mang tính chuyên sâu, tác động nhanh, mạnh mẽ đến
hoạt động của các bộ, ngành và các chính sách liên quan. Hoạt động này cần
phải được tiến hành thường xuyên, trở thành một khâu quan trọng trong tồn
bộ q trình hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội về lĩnh vực mà Hội đồng, Ủy ban phụ trách. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý của
hoạt động này còn chưa được quy định rõ cả về khái niệm, cả về quy trình,
thủ tục, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan. Vì vậy, cần bổ sung trong
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội hình thức giám sát này và quy định đầy
đủ các vấn đề liên quan để có thể thực hiện trong thực tế.
- Tăng cường năng lực bộ máy tham mưu, giúp việc trong hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội
Trước đòi hỏi tăng cường đội ngũ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên
trách, tiến tới tính chuyên nghiệp trong hoạt động Quốc hội thì địi hỏi về
trình độ, năng lực của bộ máy tham mưu, giúp việc cũng sẽ ngày một cao

89


hơn. Chất vấn là một hình thức giám sát trực tiếp rất có hiệu qủa, tuy nhiên
đây là hoạt động rất phức tạp. Để thực hiện tốt hình thức giám sát này thì đại
biểu Quốc hội nói riêng và Quốc hội nói chung phải có hệ thống cơ quan, các
cán bộ, các chun gia tham mưu, giúp việc có trình độ, năng lực để hỗ trợ.
Cần tăng cường số lượng cán bộ, chuyên gia giúp việc cho các đại biểu Quốc
hội ở các Đoàn đại biểu Quốc hội và các Vụ, đơn vị phục vụ các cơ quan của

Quốc hội, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Các đại biểu Quốc hội là lãnh đạo chủ chốt của các Bộ, ngành, địa
phương, các đại biểu Quốc hội là thành viên của Hội đồng dân tộc, các Uỷ
ban của Quốc hội cần tăng cường chất vấn hơn nữa.
Quốc hội nước ta với một tỷ lệ đa số đại biểu là người nắm giữ những
trọng trách của Đảng, Nhà nước ở Trung ương và ở địa phương. Tuy chưa có
số liệu thống kê đầy đủ song thực tế thời gian qua các vị đại biểu là lãnh đạo
chủ chốt này rất ít chất vấn do ngại ảnh hưởng đến vị trí cơng tác và quyền lợi
của cơ quan, địa phương mình đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu lực của hoạt
động chất vấn và trả lời chất vấn. Nếu thay đổi được nhận thức và hành động
để số đại biểu Quốc hội này thực hiện tốt quyền chất vấn của mình thì chắc chắn
hiệu lực của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn sẽ có nhiều chuyển biến.
3.4.2. Các giải pháp tại kỳ họp
- Đề nghị đại biểu Quốc hội gửi chất vấn sớm tại mỗi kỳ họp
Hiện nay, mỗi kỳ họp Quốc hội nước ta chỉ tiến hành trong khoảng
thời gian 1 tháng. Chính vì vậy, thời gian là vơ cùng q giá để Quốc hội
hồn thành chương trình nội dung kỳ họp, trong đó có nội dung chất vấn và
trả lời chất vấn. Để công tác tham mưu, phục vụ hoạt động chất vấn và trả lời
chất vấn tại kỳ họp Quốc hội được tốt hơn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần
có cơng văn đơn đốc các đại biểu Quốc hội sớm gửi chất vấn đến Đoàn Thư
ký kỳ họp để bộ máy tham mưu, giúp việc có đủ thời gian nghiên cứu kỹ nội
dung chất vấn của đại biểu Quốc hội, giúp cho công tác tham mưu, lựa chọn

90


các vấn đề đưa ra chất vấn tại phiên họp toàn thể là những vấn đề cần thiết
nhất. Mặt khác, nếu đại biểu sớm gửi chất vấn đến Đoàn Thư ký, bộ máy
tham mưu, giúp việc sẽ chuyển sớm các chất vấn của đại biểu đến chủ thể
phải trả lời để các chủ thể này có đủ thời gian nghiên cứu kỹ, giúp cho việc

trả lời bảo đảm chất lượng và kịp thời hơn so với đến sát ngày diễn ra phiên
chất vấn tại Hội trường mới gửi chất vấn.
- Đại biểu Quốc hội cần tăng cường trách nhiệm nghiên cứu kỹ nội
dung chất vấn trước khi gửi hoặc nêu câu hỏi chất vấn
Để tránh tình trạng chất vấn sai đối tượng, gửi chất vấn sai địa chỉ
hoặc diễn giải dài dịng, sa vào các chi tiết, thiếu tính khái quát đối với các
vấn đề quốc kế dân sinh trong khi gửi chất vấn bằng văn bản hoặc nêu câu hỏi
chất vấn trực tiếp tại hội trường thì các đại biểu Quốc hội cần dành thời gian
nghiên cứu kỹ nội dung câu chất vấn. Nhất là tại các phiên họp về chất vấn có
phát thanh, truyền hình trực tiếp, đại biểu Quốc hội cần nêu vấn đề ngắn gọn,
rõ ràng, đối với nhứng vấn đề có nội dung thuộc bí mật quốc gia thì khơng
nên nêu tại phiên họp chất vấn toàn thể.
Cần lựa chọn vấn đề để chất vấn, ưu tiên những vấn đề mà chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước đang coi là trọng tâm như: xoá đói, giảm
nghèo, chống tham nhũng, cải cách hành chính, hội nhập kinh tế quốc tế...
Nhiều Bộ trưởng ở cương vị người trả lời chất vấn rất thích loại câu hỏi liên
quan đến những chính sách lớn thuộc lĩnh vực quản lý. Ví dụ: Bộ trưởng Bộ
Tài chính Nguyễn Sinh Hùng có nói "Loại chất vấn mà tơi cảm thấy thú vị là
loại đề cập đến từ những chính sách lớn như ngân sách dành cho giáo dục, y
tế, văn hoá... đến những việc như chính sách với chiến sĩ biên phịng". Sau khi
tiếp thu, có thể thiết kế thành chính sách và trình lại Quốc hội thơng qua, đó là
tác dụng rất lớn của hoạt động chất vấn vì bản thân Bộ trưởng không thể nghĩ
hết được. Việc lựa chọn những vấn đề bức thiết được nhân dân quan tâm
nhiều để chất vấn tránh được sự giàn trải. Trên thực tế, các câu hỏi của chất

91


vấn thường đề cập đến rất nhiều mặt tổ chức và hoạt động của nền kinh tế - xã
hội. Nhưng những câu hỏi đó mới chỉ dừng lại ở bề nổi của vấn đề, rộng

nhưng chưa sâu, do vậy mà việc chất vấn chưa thoả mãn được mục đích của
nó là tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp và trách nhiệm của người quản lý trong
lĩnh vực. Để câu hỏi chất vấn có hiệu quả trước hết phải lựa chọn những vấn
đề quan trọng, bức thiết để chất vấn một cách sâu sắc, hiệu quả của hoạt động
chất vấn không chỉ thể hiện ở số lượng câu hỏi mà còn thể hiện ở chất lượng
câu hỏi, sau khi chất vấn đại biểu Quốc hội thu nhận được những thơng tin gì
để trình bày với cử tri về những vấn đề mà họ quan tâm.
Tại Hội trường, đại biểu Quốc hội nên lựa chọn câu hỏi chất vấn lượng
nhất, tâm huyết của mình trong những câu hỏi đã chuẩn bị để chất vấn, tránh
những câu hỏi chỉ mang tính giải đáp hoặc yêu cầu cung cấp thông tin. Điều
cần tránh nhất là là đưa ra câu hỏi chất vấn khi chưa đủ thơng tin, điều này
làm lãng phí thời gian của Quốc hội và khơng đạt được mục đích của chất vấn
khi chưa đủ thơng tin, điều này làm lãng phí thời gian của Quốc hội và khơng
được mục đích của chất vấn. Ví dụ, đại biểu Quốc hội đã chuẩn bị 5 câu hỏi
thì nên lựa chọn một câu hỏi chất lượng nhất để hỏi trước, những câu hỏi còn
lại sẽ đăng ký hỏi tiếp, điều đó có nghĩa mỗi đại biểu sẽ chất vấn lần đầu và
một câu tâm huyết và chất lượng nhất nếu làm được như vậy thì nhiều đại
biểu Quốc hội có cơ hội tham gia chất vấn với những câu hỏi được chuẩn bị
kỹ lưỡng. Điều này có thể khiến các đại biểu Quốc hội khác cùng tham gia
chất vấn, cùng hưởng ứng với vấn đề mà đại biểu đã nêu lần đầu tiên góp phần
cho chất vấn đó khơng bị bỏ lửng, vấn đề chất vấn càng rõ ràng sâu sắc hơn.
Câu hỏi chất vấn mang tính "truy kích" đến cùng đối với người có
trách nhiệm trả lời chất vấn, thể hiện rõ mục đích của người hỏi nhằm xem
xét vấn đề trách nhiệm của người có trách nhiệm về một vấn đề nào đó. Câu
chất vấn phải thể hiện được nội dung như vấn đề được đưa ra chất vấn là có
hay khơng có; đúng hay không đúng; nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp
khắc phục như thế nào. Với nội dung câu hỏi rõ ràng như vậy thì cả người

92



×