Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

(Luận văn thạc sĩ) hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý – qua thực tiễn ở thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO THỊ HỒNG NHUNG

Ho¹t động của Trung tâm Trợ giúp pháp lý qua thực tiễn ở Thành phố Hải Phòng
Chuyờn ngnh: Lý v lun và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đào Thi ̣Hồ ng Nhung


MỤC LỤC


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ .......................... 9
1.1.

Khái niệm, đă ̣c điể m, đối tƣợng và hình thức về trợ giúp pháp lý ....... 9

1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý ................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý............................................................ 11
1.1.3. Đối tượng của Trợ giúp pháp lý ......................................................... 14
1.1.4. Hình thức Trợ giúp pháp lý ................................................................ 16
1.2.

Cơ sở pháp lý về hoạt động trợ giúp pháp lý tại Việt Nam .......... 19

1.3.

Vai trò của trơ ̣ giúp pháp lý............................................................. 25

1.4.

Các điều kiện đảm bảo trợ giúp pháp lý ........................................ 32

1.4.1. Cầ n có hê ̣ thố ng pháp luâ ̣t về trợ giúp pháp lý đầ y đủ ....................... 33
1.4.2. Đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho cơng tác trợ giúp pháp lý ........ 35

1.4.3. Phát triển đội ngũ luật sư, đă ̣c biê ̣t luâ ̣t sư ở vùng sâu, vùng xa ........ 37
1.4.4. Cầ n có đô ̣i ngũ tr ợ giúp pháp lý và Luâ ̣t sư giỏi chuyên môn

,

giàu kinh nghiệm ................................................................................ 38
1.4.5. Người thực hiê ̣n

trợ giúp pháp lý cầ n nắ m rõ quy đinh
̣ về

quyề n con người ................................................................................ 39
1.5.

Hoạt động trợ giúp pháp lý theo kinh nghiêm
̣ ở mô ̣t số nƣớc ..... 40

1.5.1. Kinh nghiê ̣m trợ giúp pháp lý tại Phần Lan ....................................... 40


1.5.2. Trợ giúp pháp lý ở ISRAEL ............................................................... 43
1.5.3. Kinh nghiệm Trợ giúp pháp lý ở AILEN ........................................... 47
1.5.4. Mô ̣t số nước khác ............................................................................... 49
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ TẠI HẢI PHÒNG ...................................................................... 52
2.1.

Thực trạng về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Trợ
giúp pháp lý ở Hải Phòng ................................................................ 52


2.1.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam ............................................................................................ 52
2.1.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý ở
Hải Phòng ........................................................................................... 61
2.2.

Thực trạng về tổ chức, bộ máy trợ giúp pháp lý ở Hải Phòng..... 66

2.2.1. Tổ chức thực hiê ̣n trợ giúp pháp lý ở Hải Phòng ............................... 66
2.2.2. Kế t quả hoạt động của trợ giúp pháp lý nhà nước ạt i Hải Phòng .......... 69
2.3.

Đánh giá chung về quản lý, tổ chức và hoạt động trợ giúp
pháp lý ở Hải Phòng ......................................................................... 78

2.3.1. Mặt thuận lợi....................................................................................... 78
2.3.2. Khó khăn, hạn chế .............................................................................. 79
2.3.3. Nguyên nhân ....................................................................................... 83
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƢỢNG
HIỆU QUẢ, HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ......................... 87
3.1.

Quan điểm về đảm bảo ch ất lƣợng hiêụ quả ho ạt động trợ
giúp pháp lý (định hƣớng, đƣờng lối nhằm đảm bảo ch ất
lƣợng trợ giúp pháp lý đảm bảo quyền con ngƣời) ....................... 87

3.1.1. Quan điểm về đảm bảo ch ất lượng hiê ̣u quả ho ạt động trợ giúp
pháp lý ................................................................................................ 87
3.1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý ....................... 94



3.2.

Giải pháp để đảm bảo chất lƣợng, hiệu quả hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Hải Phịng ................................................................ 97

3.2.1. Hồn thiện chính sách pháp luật về trợ giúp pháp lý ......................... 97
3.2.2. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người thực hiện trợ giúp
pháp lý ................................................................................................ 97
3.2.3. Giáo dục pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý và truyề n
thông nâng cao nhâ ̣n thức về trợ giúp pháp lý cho người đươ ̣c trợ
giúp pháp lý và cô ̣ng đờ ng.................................................................. 98
3.2.4. Giải pháp về mơ hình tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ................ 102
3.2.5. Phát triển mạng lưới và tăng cường trợ giúp pháp lý ở cơ sở .......... 104
3.2.6. Giải pháp về thu hút các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt
đô ̣ng trợ giúp pháp lý........................................................................ 105
3.2.7. Xây dựng mối quan hệ giữa trợ giúp pháp lý với các cơ quan
chức năng .......................................................................................... 106
3.2.8. Phát huy hiệu quả của Hội đồng phối hợp liên n gành về trợ giúp
pháp lý trong hoa ̣t đô ̣ng tố tu ̣ng........................................................ 107
3.2.9. Giải pháp khác .................................................................................. 109
KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 115


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐN

Hội đồng nhân dân




Nghị định

TGPL

Trợ giúp pháp lý

TT

Thông tư

UBND

Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tình hình tổ chức ma ̣ng lưới, cán bộ, cộng tác viên trợ
giúp pháp lý
Bảng 2.2: Thố ng kê kết quả công tác trợ giúp pháp lý qua các năm

74
76



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế độ trợ giúp pháp lý (TGPL) là một loại trợ giúp tư pháp được đại
đa số các nước trên thế giới áp dụng (khoảng 150 nước). Nó là kết quả tất yếu
của sự phát triển trong xã hội, là công cụ để nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối
với công dân của mình. Nhà nước ban hành pháp luật, buộc người dân phải
tuân theo, do vậy nhà nước cũng phải có cơ chế bảo đảm để pháp luật bảo vệ
được quyền lợi của nhân dân. Nếu không làm được điều này, tất yếu sự hồi
nghi của cơng chúng đối với pháp luật sẽ nảy sinh và đó sẽ là nguy cơ lớn đối
với khả năng thực thi pháp luật.
Hệ thống pháp luật ngày càng nhiều và mức độ phức tạp ngày càng tăng,
ngay cả người được đào tạo về pháp luật đôi khi cũng không hiểu hết các quy
định của pháp luật và khi có vướng mắc pháp luật hay phải đứng trước tồ án
cũng khơng chắc chắn có thể bảo vệ thành cơng quyền lợi của mình. Do đó,
một cơng dân khơng có kiến thức pháp luật và khơng có kỹ năng thì dù khơng
phạm tội cũng khơng thể chứng minh được sự vơ tội của mình.
Nhiều cuộc tranh luận trên thế giới đã đi đến sự khẳng định rằng, TGPL
là cần thiết. Nó cần thiết đối với việc củng cố luật pháp, với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận khơng thể tách
rời của việc thực thi công lý và cũng cần thiết như một bộ phận khơng thể
thiếu trong q trình xét xử.
Từ những năm 50 của thế kỷ 20, đã có ý kiến từ các luật gia tư sản cho
rằng việc tiếp cận luật pháp của người giàu cũng như của người nghèo là cần
thiết đối với việc duy trì trật tự pháp luật, do đó, cần phải tư vấn và đại diện
pháp lý phù hợp cho những người mà cuộc sống, tài sản, tự do, danh dự bị đe
doạ nhưng khơng có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý …
Sẽ là rất vô nghĩa nếu quyền được bào chữa chỉ áp dụng đối với người


1


có khả năng trả chi phí dịch vụ. Vì vậy, việc khẳng định vị trí của TGPL là
một yêu cầu mang tính thủ tục cần thiết để bổ sung ý nghĩa cho nhà nước
pháp quyền. Nếu thừa nhận trật tự xã hội trong nhà nước pháp quyền là một
mục tiêu cần hướng tới thì việc thừa nhận TGPL rất quan trọng, có thể coi
như một phương tiện để đạt được mục tiêu ấy.
Tại Việt Nam TGPL ra đời năm 1997 trên cơ sở Quyết định số
734/TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, hoạt động TGPL miễn phí cho
người nghèo và đối tượng chính sách ngày càng khẳng định được vị trí, vai
trị trong đời sống pháp luật của xã hội, trở thành bộ phận quan trong trong
chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo và được cụ thể
hóa trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010
và chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn vùng
đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010.
Luật TGPL được Quốc hội thông qua tháng 6/2006 và có hiệu lực thi
hành vào ngày 01/01/2007 là một bước tiến của công tác lập pháp khi đúc rút
kinh nghiệm của việc thực hiện một Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách TGPL, một lĩnh vực hoạt động pháp luật tương đối mới mẻ được
thể chế ổn định trong văn bản có hiệu lực cao. Luật này cịn là tuyên ngôn
nhân quyền của nhà nước Việt Nam về các vấn đề công lý khi khẳng định
quyền được TGPL của người nghèo và các nhóm dân cư thiệt thịi, dễ bị tổn
thương được Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm để họ có quyền bình đẳng
tiếp cận dịch vụ pháp lý có chất lượng như các cơng dân khác. Tiếp đó, Chính
phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành 26 văn bản quy phạm pháp luật
đơn ngành và liên tịch góp phần đưa Luật TGPL đi vào cuộc sống nhằm
“giảm nghèo về pháp luật” cho một bộ phận nhân dân.
Việc giám sát thực hiện Luật này có vị trí rất quan trọng vì thơng qua
số vụ việc và lĩnh vực pháp luật người dân thường có vướng mắc, cơ quan lập


2


pháp có cơ sở để rà sốt lại các quy định pháp luật hiện hành ở các lĩnh vực
này, cơ quan quản lý chuyên ngành cũng có căn cứ để đánh giá lại đội ngũ
cơng chức, viên chức đang có trách nhiệm giải quyết việc của dân.
Việc giám sát và theo dõi việc thực hiện Luật TGPL có thể được xem
xét từ nhiều góc độ như: theo thẩm quyền của các chủ thể có trách nhiệm tổ
chức thực hiện Luật; việc hình thành các tổ chức thực hiện TGPL và các tổ
chức này có tn thủ luật hay khơng; việc các đối tượng thuộc diện có được
bảo đảm nhận dịch vụ dễ dàng và đúng đắn; nhu cầu TGPL của người dân
tăng hay giảm, tập trung nhiều ở lĩnh vực pháp luật nào (ví dụ, nếu số lượng
lớn vụ việc tập trung ở lĩnh vực đất đai thì phải xem lại quy định và chính
sách, xem lại đội ngũ cán bộ có thẩm quyền và trực tiếp giải quyết vấn đề đất
đai …); đội ngũ người thực hiện TGPL có được hình thành và đáp ứng yêu
cầu của người dân hay chưa; chất lượng TGPL so với chất lượng dịch vụ pháp
lý ngoài thị trường tự do như thế nào…
Sau 15 hình thành và phát triển, hệ thống TGPL Việt Nam đã và đang
không ngừng lớn mạnh về quy mô, ổ định về tổ chức với đội ngũ Trợ giúp
viên pháp lý, cộng tác viên TGPL là luật sư và các cộng tác viên khác không
ngừng phát triển về số lượng cũng như về năng lực, trình độ, đạo đức nghề
nghiệp và kỹ năng TGPL. Công tác TGPL đạt được những kết quả tích cực,
góp phần khơng nhỏ trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có cơng
với cách mạng và những người có hoàn cảnh đặc biệt khác. Theo số liệu
thống kê, sau 05 năm triển khai thực hiện Luật TGPL của các tổ chức thực
hiện TGPL, các tổ chức thực hiện TGPL trong cả nước đã TGPL cho
497.617 đối tượng thông qua 489.082 vụ việc (tư vấn pháp luật, tham gia tố
tụng, đại diện ngoài tố tụng …) [15].

Trợ giúp pháp lý là chính sách của Đảng và nhà nước thể hiện sự quan

3


tâm tới nhân dân, “tôn chỉ” của hoạt động TGPL là đảm bảo công bằng xã hội
bằng cách “bênh vực” những người yếu thế, khó khăn, tạo điều kiện cho họ
có thể tiếp cận dịch vụ pháp lý tốt.
Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan TGPL trên thực tế tại Việt Nam
vẫn còn là một vấn đề cần phải xem xét, đánh giá từ nhiều khía cạnh để hồn
thiện hơn nữa, để đáp ứng được yêu cầu thực tế - thực hiện được sứ mệnh của
mình và đáp ứng khát vọng của người dân nghèo, yếu thế về một nền pháp luật
cơng bằng. Xuất phát từ địi hỏi khách quan này, tác giả đã chọn đề tài “Hoạt
động của Trung tâm trợ giúp pháp lý - qua thực tiễn ở thành phố Hải Phòng”
là cần thiết cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trợ giúp pháp lý là một nhiệm vụ mới của ngành tư pháp thể hiện sự
quan tâm sâu sắc của Đảng và nhà nước đối với người nghèo và đối tượng
chính sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
đánh dấu bước phát triển vượt bậc của công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở Việt
Nam. Xóa đói, giảm nghèo cả về mặt vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho
người chịu thiệt thòi trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, cơng
bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ,
đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến TGPL miễn phí cho người nghèo và
đối tượng chính sách. Đó là:
- Luận án tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong điều
kiện đổi mới” của tiến sĩ Tạ Thị Minh Lý;
- Luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở
Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng Tuyến;

- Luận văn thạc sĩ “Hồn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của
người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Đỗ Xuân Lân;

4


- Luận văn thạc sĩ “Phát triển TGPL ở cơ sở” của tác giả Đặng Thị Loan;
- Luận văn thạc sĩ “Bảo đảm quyền được TGPL” của tác giả Phan Thị
Thu Hà;
- Luận văn thạc sĩ “Chất lượng TGPL của Trung tâm TGPL tỉnh Bắc
Ninh” của tác giả Nguyễn Đức trực;
- Luận văn thạc sĩ “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo ở
Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Hoàng Hà;
- Luận văn thạc sĩ “Hoạt động TGPL trong các chương trình giảm
nghèo” của tác giả Lê Thị Thúy; …
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mơ hình tổ chức và hoạt động TGPL,
phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”; Bài viết “Luận cứ khoa
học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh TGPL”; Bài viết “Chất lượng vụ việc
TGPL” TS. Tạ Minh Lý, Tạp chí Dân chủ Pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên
đề tháng 10/2009, tr.2-8; Bài viết “Đánh giá chất lượng vụ việc TGPL là hình
thức giám sát hiệu quả nhất về thi hành pháp luật TGPL”/TS. Tạ Minh
Lý/Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Văn phòng Quốc hội; Bài viết “Chất lượng
vụ việc TGPL và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vụ việc TGPL”/Đỗ
Xuân Lân/ Tạp chí dân chủ pháp luật, Bộ Tư pháp, số 1/2008, tr.22-29; Bài
viết “Chất lượng vụ việc TGPL” của tác giả Nguyễn Hải Anh, Tạp chí Dân
chủ Pháp luật số 5/2008; Bài viết”Tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc
TGPL”, chuyên đề của Cục TGPL, Bộ Tư pháp, 2008; Bài viết “Tiêu chí
đánh giá chất lượng cung ứng dịch vụ công tại các cơ quan hành chính nhà
nước”/ PGS.TS Nguyễn Hữu Hải, ThS. Lê Văn Hịa, Học viện Hành chính,
Tạp chí tổ chức nhà nước số 3/2010; Bài viết “Xã hội hóa và chất lượng cung

ứng dịch vụ cơng”, tác giả Đinh Mai Lan, Văn phịng UBND tỉnh Cao Bằng,
nguồn: sach/xa-hoi-hoa-va-chat-luong-cungung-dich-vu-cong; Bài viết “Chất lượng dịch vụ, sự thỏa mãn và long trung

5


thành của khách hang siêu thị tại Thành phố Hồ Chí Minh” tác giả Nguyễn
Thị Mai Trang, khoa kinh tế, ĐHQG-HCM, Tạp chí Phát triển KH-CN, Tập
9, số 10-2006; The importance of Quality in Legal Aid/Helaine M.Barnett,
February, 2009 – Wyoming State Bar, …
Trong phạm vi luận văn, tác giả không có tham vọng tổng kết hay đánh
giá tổng thể TGPL với tư cách là dịch vụ công do Nhà nước cung cấp. Với đề
tài “Hoạt động của Trung tâm TGPL – qua thực tiễn ở Hải Phòng ”, tác giả sẽ
đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan đến hoạt động TGPL trên
cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn tại Hải Phịng, góp phần tìm ra giải pháp
khoa học đưa hoạt động TGPL trong thời gian tới gần với người dân nhất,
đảm bảo tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đồng bào
dân tộc thiểu số và người có hồn cảnh đặc biệt khác, góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn về mơ hình hoạt động Trung tâm trợ giúp
pháp lý, bao gồm khái niệm, mục tiêu, đặc điểm, thực trạng hoạt động của
Trung tâm TGPL nhà nước trong phạm vi Thành phố Hải Phòng trong thời
gian qua; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả
hoạt động của các Trung tâm TGPL, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu sô và các đối tượng yếu thế
khác trong xã hội.
Thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý và cơ sở thực tiễn về hoạt động của

Trung tâm TGPL;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động TGPL Nhà nước thành phố
Hải Phịng, tìm ra được những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất

6


cập và nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập đó
cũng như tình hình quản lý, đánh giá hoạt động của các Trung tâm TGPL ở
Hải Phòng trong thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động của
Trung tâm TGPL Nhà nước ở Hải Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý về hoạt
động TGPL ở Việt Nam.
- Thực tiễn hoạt động của Trung tâm TGPL ở Hải Phòng.
- Giải pháp đảm bảo, nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm
TGPL trong thời gian tới tại Hải Phòng.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con người,
quyền công dân.
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích – tổng hợp, logic- lịch sử, so
sánh, đối chiếu. Đồng thời tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử
dụng các tư liệu thực tiễn; các chuyên đề nghiên cứu trong và ngoài nước; kết
quả khảo sát để hoàn thành Luận văn.
6. Ý nghĩa của Luận văn
- Luận văn là cơng trình nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu

trên cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn về hoạt động của Trung tâm TGPL
Nhà nước Hải Phịng.
- Luận văn góp phần khẳng định sự quan tâm sâu sắc và triệt để của
Đảng và Nhà nước về mặt công lý cho tầng lớp người nghèo, các đối tượng

7


yếu thế trong xã hội, người dân tộc thiểu số và những người có cơng với đất
nước. Đồng thời, có sự đánh giá sát tình hình hoạt động của Trung tâm TGPL,
nêu và phân tích yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn đối với vấn đề hoạt động
của Trung tâm TGPL trong thời gian tới.
- Luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần bảo đảm
và nâng cao chất lượng TGPL trong thời gian tới.
7. Bố cục Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì Luận văn
được kết cấu thành 03 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trợ giúp pháp lý
Chương 2: Thực trạng của hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hải Phòng
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo chất lượng hiệu quả hoạt
động trợ giúp pháp lý

8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
1.1. Khái niệm, đă ̣c điể m, đối tƣợng và hình thức về trợ giúp pháp lý
1.1.1. Khái niệm Trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20,

xuất phát từ tiếng anh là “legal aid”. Theo nghĩa phổ biến thì “legal aid” được
hiểu là “tiền lấy từ quỹ công để trả chi phí cho việc cố vấn hoặc làm đại diện
pháp lý” [25, tr.998]. “legal aid” trong cụm từ “legal aid schem” có nghĩa là
“bảo trợ tư pháp” [25]. Ngồi ra, trong một số tài liệu khác còn gọi là “hỗ trợ
pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tư pháp”.
Theo Đại từ điển tiếng việt – Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hóa –
Thơng tin, 1999 thì “trợ giúp” là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc
gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến” [58]. Từ điển từ và
ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh giải thích: trợ giúp là
góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ
mà khơng lấy tiền cơng.
Như vậy, có rất nhiều cách dịch khác nhau, cách gọi khác nhau về thuật
ngữ này, nhưng cụm từ “trợ giúp” có nghĩa chung nhất, bao hàm nội dung sự
“sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ”. Xuất phát từ bản chất và hình thức hoạt động
“Legal aid” trên thế giới và thực tiễn hoạt động này ở Việt Nam trong thời
gian qua, thuật ngữ “Legal aid” được dịch là“Trợ giúp pháp lý” đang được sử
dụng chính thức trong các văn bản pháp luật và sách báo ở Việt Nam hiện nay.
Ở các nước trên thế giới, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo,
người yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển
của Nhà nước tư sản và được coi là chức năng xã hội của nhà nước, là một
trong nhữmg tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp quyền. Việc

9


thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý ở Việt Nam năm 1997 là xuất phát từ chính
những nguyên tắc Hiến định chủ quyền thuộc về nhân dân, mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật và bản chất của Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân. Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên thế giới rất phong
phú và đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi

quốc gia. Vì vậy, chưa có quan niệm chung, thống nhất về trợ giúp pháp lý.
Do có nhiều mơ hình trợ giúp pháp lý, với những quan niệm khác nhau
về đối tượng, phạm vi, phương thức và chi phí trợ giúp pháp lý trên thế giới,
nên ở mỗi nước đều có quan niệm riêng của mình và được nhìn nhận dưới
nhiều góc độ khác nhau, nhưng nói chung các khái niệm của các nước đều thể
hiện tính kinh tế, nhân đạo và tính pháp lý của hoạt động trợ giúp pháp lý.
Tính kinh tế, nhân đạo thể hiện ở chỗ giúp đỡ cho đối tượng khơng có khả
năng thanh tốn cho các chi phí khi tiếp cận với dịch vụ pháp lý. Tính pháp lý
của hoạt động trợ giúp pháp lý thể hiện ở chỗ giúp đỡ đối tượng giải quyết
các vụ, việc có liên quan đến pháp luật (luật nội dung và luật hình thức...).
Dưới góc độ kinh tế mang tính nhân đạo một số nước (như Đức) quan
niệm trợ giúp pháp lý là giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những
người khơng có khả năng thanh tốn cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại
diện hoặc bào chữa trước tồ án [18].
Dưới góc độ pháp lý, theo pháp luật của Anh và xứ Wales thì Trợ giúp
pháp lý là giúp đỡ pháp lý cho những người khơng có khả năng chi trả cho
việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý [18].
Đạo luật về đại diện và tư vấn pháp luật năm 1995 của Singapore cũng
giải thích rằng trợ giúp pháp lý là việc giúp đỡ những người khơng có khả
năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý [18, Điều 2].
Nhìn dưới góc độ mục đích của hoạt động trợ giúp pháp lý, người Úc
cho rằng trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ cho một người có được hồn cảnh và

10


điều kiện tương tự như người khác trong việc tiếp cận với pháp luật, tức là tạo
ra sự công bằng khi tiếp cận với pháp luật [18].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” (sau đây xin được viết tắt là
TGPL) được sử dụng trong các tài liệu từ năm 1995, khi bắt đầu nghiên cứu

xây dựng Đề án về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Đến năm 1996,
thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ “Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực
hiện trong điều kiện hiện nay” của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ tư
pháp. Năm 1997, thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg
ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách. Năm 2006, Luật TGPL đã có quy định
chính thức về khái niệm TGPL:
TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người
được TGPL theo quy định của Luật này, giúp người được TGPL bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý
thức tơn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến,
giáo dục pháp luật bảo vệ cơng lý, bảo đảm cơng bằng xã hội, phịng
ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [43, Điều 3].
1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ cơng trong lĩnh vực tư pháp,
có đầy đủ những đặc trưng của dịch vụ công như: được xác định là một trong
những chức năng xã hội của nhà nước và là trách nhiệm của nhà nước; đối
tượng được TGPL là những người yếu thế, khơng có đủ điều kiện tiếp cận với
các loại dịch vụ pháp lý có thu tiền, cần có sự trợ giúp của nhà nước. Các chi
phí cho hoạt động TGPL chủ yếu do ngân sách bảo đảm. (Người được trợ
giúp pháp lý không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí hay thù lao nào dưới bất
kỳ hình thức nào. Kinh phí hoạt động trợ giúp pháp lý do ngân sách Nhà nước
cấp và nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước).
11


Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý, do những người có
trình độ am hiểu pháp luật thực hiện:
Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý là các tổ chức trợ giúp pháp lý Nhà

nước và các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ
chức chính trị xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp. Như vậy, hoạt động trợ
giúp pháp lý là một loại hoạt động vừa có tính chất nhà nước, vừa mang tính
chất xã hội.
Người thực hiện trợ giúp pháp lý theo Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 là
Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước, luật sư, tư
vấn viên pháp luật của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật
của các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp.
Thực hiện trợ giúp trên cơ sở pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu giúp đỡ
pháp luật của người nghèo và đối tượng chính sách thơng qua việc tham gia tố
tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ thực hiện công việc liên
quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại… TGPL được coi là một
loại hình dịch vụ pháp lý bởi hình thức và phương thức thực hiện tương tự
như dịch vụ pháp lý nói chung. Điểm khác biệt ở đây là TGPL có đối tượng,
phạm vi, lĩnh vực trợ giúp, tổ chức, người thực hiện hẹp hơn; việc thực hiện
TGPL cũng được thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định khác so với trình
tự, thủ tục cung cấp dịch vụ pháp lý chung do tổ chức và cá nhân khác thực
hiện. Người thụ hưởng TGPL không phải trả bất kỳ một khoản phí nào.
Trợ giúp pháp lý cịn là một loại hình dịch vụ pháp lý chứa đựng tính
nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu hướng tới, đối tượng phục vụ là những
người có hồn cảnh đặc biệt cần phải được nhà nước và xã hội quan tâm
giúp đỡ, hỗ trợ (Đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí là người
thuộc hộ nghèo; người có cơng với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số
thường trú ở các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; người

12


già cô đơn, người tàn tật, người nhiễm HIV, nhiễm chất độc hóa học, trẻ
em khơng nơi nương tựa.

Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tượng yếu
thế, góp phần tạo sự cơng bằng trong tiếp cận công lý.
Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện
đối với tất cả các vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người được trợ giúp pháp lý trong hầu hết các lĩnh vực pháp luật, trừ các vụ
việc có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý, thể hiện qua phương thức hoạt
động và mục đích hướng tới của nó. Tính chất pháp lý của TGPL thể hiện ở
chỗ, TGPL là một trong các biện pháp thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào
cuộc sống bởi nhà nước phải có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để giúp người
dân biết các quy định của pháp luật để thực hiện, sử dụng, tuân thủ trong cuộc
sống để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp phá của mình. Đặc biệt khi Nhà nước
thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật và giải quyết các vấn đề phát
sinh hang ngày trên cơ sở pháp luật thì yêu cầu cần phải giúp cho người dân
hiểu biết pháp luật trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: TGPL được xác định
là trách nhiệm của nhà nước, nhà nước giữ vai trò nòng cốt, thuộc chức năng
xã hội của nhà nước nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp
cận với pháp luật và xóa nghèo về pháp luật. Thơng qua đó, góp phần thiết lập
sự ổn định chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan hệ xã hội theo ý chí
của nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân vào chế độ. TGPL là một
trong những phương thức có hiệu quả để nhà nước giải quyết các mối quan hệ
xã hội đang có sự bất ổn, giữ đồn kết cơng đồng, bảo đảm ổn định trật tự và
an toàn xã hội.

13


1.1.3. Đối tượng của trợ giúp pháp lý
Theo quy định của pháp luật về TGPL, người được TGPL là người

thuộc một trong các đối tượng sau đây:
Người nghèo là người thuộc chuẩn nghèo theo quy định của pháp luật.
Chuẩn nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng giai đoạn cho phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chuẩn nghèo hiện
nay được thực hiện theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 về
việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dung cho giai đoạn 2011-2015.
Người có cơng với cách mạng bao gồm: người hoạt động cách mạng
trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hung; Anh
hung lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng lao động; Thương binh, người
hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; người hoạt động kháng chiến
bị nhiễm chất độc hóa học; người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc,
bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; người có cơng giúp đỡ cách mạng,
gồm: Người được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi cơng” hoặc Bằng “Có
cơng với nước” trước cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng
Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến và người trong gia
đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến
(Điều 32 Pháp lệnh về người có công với cách mạng năm 2005); cha, mẹ,
chồng của liệt sĩ, con liệt sĩ chưa đủ 18 tuổi; người có cơng ni dưỡng liệt sĩ.
Đây là những người đã có nhiều cống hiến về sức lực, tài năng, trí tuệ
và cả tính mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế trong thời chiến cũng như trong thời bình,
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận theo quy định của pháp
luật. Phần lớn những đối tượng này gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống do bị
ảnh hưởng của thương tật, suy giảm sức khỏe và khả năng lao động (thương
binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh), mất chỗ dựa

14


chính trong gia đình (thân nhân liệt sĩ), … chỉ một bộ phận nhỏ trong số họ có

thu nhập ổn định. Với nhóm dân cư này, chính sách TGPL của nhà nước chủ
yếu thể hiện sự ưu tiên, ưu đãi, sự biết ơn của xã hội nói chung đối với những
cống hiến của họ chứ không căn cứ vào điều kiện thu nhập.
Người già cô đơn không nơi nương tựa: là những người từ 60 tuổi trở
lên, sống một mình và khơng có người chăm sóc, phụng dưỡng.
Trẻ em khơng nơi nương tựa: là người dưới 16 tuổi, khơng có gia đình
hoặc bị gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc có hồn cảnh khơng bình thường
về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và
hịa nhập với gia đình, cộng đồng.
Người dân tộc thiểu số thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện
kinh tế khó khăn theo quy định của pháp luật. Ngày 5/3/2007, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ban hành danh mục
các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn làm căn cứ thực hiện một số chế
độ, chính sách đặc thù để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh – quốc
phịng, xóa đói, giảm nghèo nhằm cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân, giảm sự chênh lệch về trình độ phát triển so với các vùng
khác trong cả nước. Các dân tộc thiểu số sinh sống ở tất cả các vùng, miền
của đất nước, nhưng tập trung phần lớn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, bị cô
lập về mặt địa lý, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã
hội cơ bản. Thu nhập của đồng bào chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp, phụ
thuộc nhiều vào thiên nhiên. Ngồi một số dân tộc có mặt bằng dân trí cao,
mức sống khá như người Hoa (sống ở Thành phố Hồ Chí Minh), người Khơme (sống ở đồng bằng song Cửu Long), người Chàm (sống ở một số tỉnh
Nam Trung Bộ và Nam bộ), còn lại các dân tộc thiểu số khác đều có trình độ
dân trí thấp. Hầu hết các tộc người khơng có chữ viết riêng, phần đơng khơng
có chữ quốc ngữ. Luật tục (tập quán pháp) giữ vai trò rất quan trọng trong đời

15


sống cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số, quy định các chuẩn mực ứng

xử của con người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng, gần
như thay thế cho pháp luật của nhà nước. Do khơng có điều kiện tiếp cận để
tìm hiểu pháp luật của nhà nước nên trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật
của người dân tộc thiểu số còn hạn chế.
- Người tàn tật: là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận của cơ
thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm
khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó
khăn, hoặc là người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV hoặc các bệnh
khác làm mất năng lực hành vi dân sự và khơng có nơi nương tựa.
- Các đối tượng khác, gồm: Phụ nữ: là nạn nhân của bạo lực gia đình,
nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bị bóc lột sức lao động hoặc bị xâm hại tình
dục; phụ nữ đang trong quá trình chuẩn bị thủ tục kết hôn và ly hôn; phụ nữ
có tranh chấp, vướng mắc pháp luật, người bị hại, bị can, bị cáo trong thời
gian mang thai, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng; phụ nữ là người khuyết tật
hoặc đang bị các bệnh hiểm nghèo; phụ nữ là người lao động bị sa thải trái
pháp luật hoặc nạn nhân bị lừa đảo trong quan hệ lao động, trong quan hệ hơn
nhân gia đình hoặc bị tước đoạt tài sản trái pháp luật.
Các đối tượng khác được TGPL theo quy định tại điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Hiện Việt Nam đã ký hiệp
định tương trợ tư pháp với các nước: Cu Ba, Bungari, Hungari, Ba Lan, Lào,
Nga, Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Beelarut. Công dân của các nước
này cũng có thể được xem xét hưởng TGPL miễn phí nếu họ đang ở việt Nam.
1.1.4. Hình thức Trợ giúp pháp lý
Theo quy định của Luật TGPL, TGPL được thực hiện thơng qua các
hình thức: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngồi tố tụng, các hình
thức TGPL khác.

16



- Tư vấn pháp luật:
Tư vấn pháp luật là một loại hình dịch vụ trí tuệ, trong đó người có
trình độ hiểu biết sâu rộng đưa ra những ý kiến của mình về một vấn đề cụ thể
nào đó có liên quan đến pháp luật. Những ý kiến đó khơng mang tính chất bắt
buộc (tính cưỡng chế) người được tư vấn phải thực hiện, nhưng nên thực hiện
bởi những lời tư vấn đó đều là những quy định của pháp luật.
Trong TGPL, tư vấn pháp luật là một hình thức TGPL. Luật TGPL
2006 quy định: “Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên, Luật sư, Tư vấn viên
pháp luật thực hiện tư vấn pháp luật cho người được TGPL bằng việc hướng
dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn
bản liên quan đến vụ việc TGPL” [43, Điều 28]. Như vậy, hoạt động tư vấn
pháp luật do người thực hiện TGPL thực hiện bao gồm: giải đáp pháp luật,
hướng dẫn soạn thảo, góp ý kiến cho đơn từ, văn bản có liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của công dân, hướng dẫn những thủ tục cần thiết, cung cấp địa
chỉ cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc, cung cấp những thông tin pháp
lý, đưa ra những lời khuyên về những vấn đề có liên quan đến pháp luật và
hướng dẫn đối tượng ứng xử phù hợp với pháp luật nhằm giúp cho người yêu
cầu tư vấn nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức pháp luật để họ thực hiện và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tư vấn pháp luật không phải là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật một cách chung chung hoặc chuyển tải thông tin pháp lý về các văn bản
pháp luật mới, bở đối tượng của hoạt dộng tư vấn pháp luật là một tổ chức
hoặc một cá nhân cụ thể; nội dung hoạt động tư vấn có liên quan đến một vụ
việc cụ thể theo yêu cầu của đối tượng. Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật,
người tư vấn tuyên truyền, phổ biến pháp luật có liên quan trực tiếp đến vụ
việc cụ thể đó nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng. Hoạt động tư
vấn pháp luật cũng giúp cho người được tư vấn hiểu được đúng bản chất về

17



quyền và nghĩa vụ của mình để thực hiện và ứng xử phù hợp với pháp luật,
ngăn ngừa vi phạm pháp luật.
Tư vấn pháp luật trong TGPL được thực hiện tại trụ sở và ngoài trụ sở.
Tai trụ sở, tổ chức thực hiện TGPL tiếp nhận yêu cầu tư vấn trực tiếp hoặc
thơng qua thư tín, điện thoại, fax hoặc thơng qua phương tiện thơng tin đại
chúng khác. Ở ngồi trụ sở, tư vấn được thực hiện thông qua các chuyến
TGPL lưu động, sinh hoạt chuyên đề pháp luật, sinh hoạt câu lạc bộ TGPL và
thông qua các phương thức TGPL khác. Đối với những vụ việc tư vấn đơn
giản, người thực hiện TGPL sẽ phải tư vấn ngay. Đối với những vụ việc phức
tạp, cần có thời gian nghiên cứu, xác minh hoặc các vụ việc thiếu những giấy
tờ, tài liệu liên quan cần thiết cho việc tư vấn thì người thực hiện TGPL sẽ
viết phiếu hẹn hoặc yêu cầu bổ sung.
- Tham gia tố tụng.
Trợ giúp viên pháp lý, luật sư tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho
người được TGPL là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi
của người được TGPL là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
Trợ giúp viên pháp lý, luật sư tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong vụ việc
dân sự, vụ án hành chính.
Giám đốc trung tâm TGPL nhà nước hoặc trưởng chi nhánh có trách
nhiệm cử người tham gia tố tụng. Khi tham gia tố tụng, trợ giúp viên pháp lý,
luật sư xuất trình giấy chứng nhận tham gia tố tụng, thẻ Trợ giúp viên pháp lý
hoặc thẻ luật sư và có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
tố tụng, được sử dụng các biện pháp quy định trong luật tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.

18



×