Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Luận văn thạc sĩ kinh tế tác động của việc trung quốc gia nhập WTO đối với khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------

DƯƠNG LAN HƯƠNG

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO
ĐỐI VỚI KHẢ NĂNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI) CỦA CÁC NƯỚC ASEAN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hà Nội – 2005s


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------

Dƣơng Lan Hƣơng

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO
ĐỐI VỚI KHẢ NĂNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI) CỦA CÁC NƯỚC ASEAN

Chuyên ngành: Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mã số:

60.31.07

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ CHÍ LỘC

Hà Nội - 2005


1

CHƢƠNG 1: SỰ KIỆN TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO TRONG
XU HƢỚNG VẬN ĐỘNG FDI
1.1. Vài nét về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI)
1.1.1. Nguyên nhân hình thành và các hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu
Đầu tư quốc tế là hoạt động mà các nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn hoặc bất
kỳ hình thức giá trị nào khác vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động
sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận và hoặc đạt được các hiệu quả kinh tế - xã
hội.
Ý nghĩa thực tiễn của đầu tư quốc tế theo đó được hiểu là hiện tượng di
chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời [16, tr.21]. Như
vậy, mục tiêu cơ bản của hoạt động này là lợi nhuận. Trong đó, đối với nhà doanh
nghiệp khi đóng vai trò là người tìm đối tác đầu tư nước ngoài, thì họ phải sẵn có
trong tay dự án đầu tư (luận chứng kinh tế kỹ thuật) mang tính khả thi cao. Đối với
nhà doanh nghiệp khi đóng vai trò là nhà đầu tư nước ngoài, trước khi thực hiện
chuyển vốn ra nước ngoài phải nghiên cứu ký: môi trường đầu tư nước sở tại (nơi
doanh nghiệp lựa chọn để đầu tư) và sự tác động của nó đến khả năng sinh lời của
dự án, các yếu tố rủi ro tiềm ẩn trong môi trường đầu tư. Đối với Chính phủ, muốn
tăng cường thu hút vốn đầu tư vào quốc gia mình thì phải tạo dựng được môi trường
đầu tư có sức cạnh tranh cao thể hiện ở khả năng mang lại lợi nhuận cao cho các
nhà đầu tư nước ngoài.
Có 5 nguyên nhân chủ yếu sau đây dẫn đến hiện tượng đầu tư quốc tế [16,
tr.22]:

Thứ nhất, do lợi thế so sánh và trình độ phát triển kinh tế của các nước
không giống nhau dẫn tới chi phí sản xuất ra sản phẩm khác nhau. Do đó đầu tư ra
nước ngoài nhằm khai thác lợi thế so sánh của các quốc gia khác, nhằm giảm thiểu
chi phí và tăng lợi nhuận. Mỗi nước trên thế giới đều có lợi thế khác nhau về tài
nguyên thiên nhiên, về nguồn nhân lực, về vị trí địa lý dẫn tới chi phí sản xuất và
lưu thông hàng hóa là khác nhau. Việc khai thác triệt để lợi thế của các quốc gia
khác nhau nhằm thu lợi nhuận luôn là điều các nhà đầu tư mong muốn.


2

Thứ hai, xu hướng giảm dần tỷ suất lợi nhuận (p’= m/c+v) ở các nuớc công
nghiệp phát triển cùng với hiện tượng dư thừa vốn “tương đối” đã tạo nên “lực
đẩy” đối với đầu tư quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Thật vậy, trình
độ phát triển kinh tế cao ở các nước công nghiệp phát triển đã nâng cao mức sống
và khả năng tích luỹ vốn của các nước này dẫn đến hiện tượng “thừa” tương đối vốn
ở trong nước; đồng thời làm cho chi phí tiền lương cao, nguồn tài nguyên thiên
nhiên thu hẹp và chi phí khai thác tăng lên dẫn đến giá thành sản phẩm tăng, tỉ suất
lợi nhuận giảm dần, lợi thế cạnh tranh trên thị trường không còn. Điều đó tạo nên
lực đẩy các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài để giảm chi phí sản
xuất, tìm kiếm thị trường mới, nguồn nguyên liệu mới nhằm thu lợi nhuận cao.
Theo Bộ thương mại Mỹ vào cuối thế kỷ 20, tỷ lệ lãi trung bình của các công ty Mỹ
hoạt động tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương là 23% gấp 2 lần tỷ lệ lãi trung
bình cùng kỳ ở 24 nước công nghiệp phát triển.
Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa đã thúc đẩy quá
trình tự do hoá thương mại và đầu tư đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho MNCs
bành trường chiếm lĩnh và chi phối thị trường thế giới. Quá trình tự do hoá thương
mại và vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường ngày càng đồng bộ và hoàn
thiện hơn. Các luồng hàng hoá dịch vụ ứ đọng ở nước này có thể lập tức chuyển đến
tiêu thụ ở nước khác, cho phép đẩy nhanh tốc độ khấu hao vì thị trường rộng mở,

đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ do giá thành rẻ hơn, nhờ vậy vòng quay vốn cố định nói
riêng, chu chuyển tư tư bản nói chung sẽ rút ngắn rất nhiều. Do đó, MNCs thông
qua các hoạt động đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận và chi phối huyết mạch kinh tế
của các nước. Theo công bố của Liên hợp quốc- UNCTAD vào năm 2000 có hơn
53.000 công ty xuyên quốc gia, chiếm đến 80% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài và hơn 70% tổng trị giá thương mại quốc tế.
Thứ tư, nhu cầu vốn đầu tư để công nghiệp hóa của các nước ĐPT ngày một
lớn, cùng với nhu cầu ổn định thị trường, nguồn cung cấp nguyên vật liệu để đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế của các nước tư bản đã tạo nên “sức hút” mạnh mẽ
đối với đầu tư nước ngoài. Trình độ chênh lệch phát triển giữa các nước công
nghiệp phát triển và các nước ĐPT là khá xa, nhưng quá trình quốc tế hóa nền kinh


3

tế thế giới đang đòi hỏi kết hợp chúng lại. Đầu tư quốc tế là sự kết hợp lợi ích của
cả hai phía. Các nước tư bản phát triển không chỉ coi các nước ĐPT là địa chỉ đầu
tư hấp dẫn do chi phí thấp - lợi nhuận cao, mà còn thấy rằng sự thịnh vượng của các
nước này sẽ nâng cao sức mua và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các nước
ĐPT cũng trông chờ và mong muốn thu hút được vốn đầu tư, công nghệ của các
nước phát triển để thực hiện công nghiệp hoá, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa. Tuy nhiên, trong điều kiện cung cầu vốn trên thị trường quốc tế căng thẳng, sự
cạnh tranh giữa các nước ĐPT nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng ác
liệt thì việc tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, có chính sách ưu đãi đối với
đầu tư nước ngoài, chấp nhận phần thiệt hơn về mình, về kinh tế đang chi phối
chính sách của các nước ĐPT hiện nay, tạo nên thời kỳ các chủ đầu tư lựa chọn địa
chỉ đầu tư chứ không phải ngược lại.
Thứ năm, đầu tư ra nước ngoài nhằm bảo toàn vốn, phòng chống rủi ro khi
có sự cố về kinh tế, chính trị xảy ra trong nước như khủng hoảng cơ cấu kinh tế,
khủng hoảng tài chính tiền tệ. Do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế dịch vụ ở

các nước TBCN, mà trong đó chiếm tỉ trọng đáng kể là các dịch vụ tài chính – ngân
hàng và thị trường vốn, do toàn cầu hoá các công nghệ giao dịch và thương mại
quốc tế, và tư nhân hoá các hoạt động kinh doanh - đầu tư theo cơ chế thị trường
mở (kể cả mua, bán nợ), đồng thời do sư thừa nhận và gia tăng ráo riết các hoạt
động đầu cơ trên thị trường tài chính – tiền tệ...khiến các thị trường tài chính ngày
càng đóng vai trò quan trọng. Vì vậy nếu có sự đổ vỡ tài chính - tiền tệ thì sẽ kéo
theo sự suy giảm kinh tế thực sự thể hiện ở cầu thị trường trong nước và quốc tế trì
trệ, nhập khẩu giảm sút, xuất khẩu không tăng do sự suy giảm khả năng thanh toán
của các bên liên quan. Khi khủng hoảng kinh tế và những bất ổn về chính trị an ninh
quốc gia xảy ra, thì sự tháo chạy của vốn đầu tư là một tất yếu khách quan với động
thái cuối cùng là dòng vốn đầu tư sẽ được di chuyển tới những nơi an toàn hơn.
Có nhiều cách phân loại đầu tư quốc tế tùy theo các căn cứ vào chủ đầu tư, thời
hạn đầu tư, hay quan hệ giữa chủ đầu tư nước ngoài với người tiếp nhận vốn đầu tư.
Về cơ bản, đầu tư quốc tế được thực hiện chủ yếu dưới 3 hình thức: đầu tư trực tiếp,
đầu tư gián tiếp và tín dụng quốc tế [16, tr 32].


4

Đầu tƣ trực tiếp (FDI):
Là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn
đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất, hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều
hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư.
Đặc điểm nổi bật của FDI là không gây nợ và ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị
giữa các bên đầu tư và tiếp nhận đầu tư mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính
phủ nước nhận đầu tư khi có những quy định số vốn tối thiểu hoặc tối đa mà các
chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp.Ví dụ Luật đầu tư của Việt Nam quy định “số
vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự
án”… FDI được thể hiện dưới các hình thức: (i) đóng góp vốn để xây dựng doanh
nghiệp mới (ii) mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động (iii)

mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập. Nhìn chung, FDI có những đặc trưng và
thế mạnh riêng::
Đối với chủ đầu tư nước ngoài:
Thứ nhất, khai thác lợi thế nước chủ nhà về tài nguyên, lao động để nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn; mở rộng thị trường; giảm chi phí kinh doanh khi đặt cơ sở
sản xuất gần nguồn nguồn nhiên liệu hoặc thị trường tiêu thụ. Thứ hai, đầu tư trực
tiếp cho phép chủ đầu tư tham gia trực tiếp kiểm soát và điều hành doanh nghiệp mà
họ bỏ vốn theo hướng có lợi nhất cho chủ đầu tư vì vậy mức độ khả thi của dự án
khá cao, đặc biệt trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu.
Quyền điều hành quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào
mức độ góp vốn. Trong trường hợp nhà đầu tư đóng góp 100% vốn pháp định của
doanh nghiệp thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định hoạt động của doanh nghiệp.Thứ
ba, quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài gắn chặt với dự án. Lợi nhuận mà nhà đầu
tư thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định của doanh nghiệp. Thứ tư, tránh được hàng rào
bảo hộ ngày càng tinh vi của nhiều nước, vì các doanh nghiệp đã xây dựng được cơ
sở kinh doanh nằm “trong lòng” các nước thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch.


5

Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
Thứ nhất, tăng cường khai thác vốn của chủ đầu tư nhằm giải quyết tình
trạng thiếu vốn “trầm trọng” phục vụ yêu cầu tăng trưởng kinh tế (đặc biệt là với
các nước chậm, ĐPT). Thứ hai, có thể tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh
nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài, giúp tăng cường khai
thác lợi thế tốt nhất của nước chủ nhà về tài nguyên, nhân lực, vị trí địa lý. Thứ ba,
sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước ngoài sẽ tạo động lực
kích thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các doanh nghiệp, đây là yếu tố quan
trọng đưa nền kinh tế phát triền với tốc độ cao. Thứ tư, các dự án FDI góp phần giải

quyết việc làm và nâng cao mức sống người lao động.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận FDI nước ngoài cho
thấy, bên cạnh những thế mạnh FDI cũng có những hạn chế nhất định. Trước hết,
do hoạt động FDI diễn ra theo cơ chế thị trường trong khi người đầu tư nước ngoài
có nhiều kinh nghiệm, sành sỏi trong việc ký kết hợp đồng, dẫn đến thua thiệt cho
nước tiếp nhận đầu tư. Mặt khác, trong FDI nếu phía chủ nhà không có một quy
hoạch thu hút FDI theo ngành cũng như theo vùng lãnh thổ cụ thể, có thể dẫn đến
hậu quả là tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Vì
hiện nay do việc kiểm soát ảnh hưởng của dự án đầu tư tới môi trường tại hầu hết
các quốc gia phát triển, nên xu thế nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã và đang chuyển
giao những công nghệ độc hại sang các nước đang và kém phát triển. Ngoài ra, chủ
đầu tư có thể gặp rủi ro mất vốn do đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và
chính trị.
Đầu tƣ gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư nước ngoài
mua chứng khoán của công ty, các tổ chức phát hành của một nước khác với mức
khống chế nhất định nhằm thu lợi nhuận dưới hình thức cổ tức hoặc thu nhập
chứng khoán, nhưng không nắm quyền kiểm sóat trực tiếp tổ chức phát hành chứng
khoán.
Trong hình thức này, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau nên
khi có sự cố trong kinh doanh xảy ra với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì


6

các chủ đầu tư ít bị thiệt hại vì vốn đầu tư được phân tán trong số đông những người
mua cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác, bên tiếp nhận vốn đầu tư hoàn toàn chủ động
vốn kinh doanh theo ý đồ của mình một cách tập trung. Tuy nhiên, hình thức này có
nhược điểm lớn là hạn chế khả năng thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ của chủ đầu tư
nước ngoài vì họ khống chế mức độ đóng góp vốn tối đa. Hơn nữa, do bên nước

ngoài không trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư cho nên
hiệu quả sử dụng vốn thường thấp.
Tín dụng quốc tế
Tín dụng quốc tế là hình thức đầu tư quốc tế dưới dạng cho vay vốn và thu
lợi nhuận thông qua lãi suất tiền vay.
Đặc điểm của hình thức này là quan hệ vay nợ giữa chủ đầu tư với đối tượng
tiếp nhận đầu tư, được sử dụng khá phổ biển vì có những ưu điểm sau: thứ nhất,
vốn vay dưới dạng tiền tệ dễ dàng chuyển thành các phương tiện đầu tư khác và
nước tiếp nhận đầu tư toàn quyền sử dụng vốn đầu tư cho mục đích riêng rẽ của
mình; thứ hai chủ đầu tư nước ngoài có thu nhập ổn định, thông qua lãi suất của số
tiền vay không phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh vì vậy độ rủi
ro của hình thức này thấp hơn hai hình thức đầu tư trước, thứ ba, nhiều nước cho
vay vốn được trục lợi về chính trị và trói buộc các nước đi vay trong vòng ảnh
hưởng của mình.
Song hình thức này có nhược điểm lớn như hiệu quả sử dụng vốn thường
thấp do bên nước ngoài không trực tiếp tham gia điều hành đối tượng bỏ vốn đầu tư.
Hậu quả nhiều nước chậm và ĐPT lâm vào tình trạng nợ nần, thậm chí có nước còn
mất khả năng chi trả, từ đó đưa đến sự phụ thuộc vào chủ nợ. Năm 1997, nợ nước
ngoài của các nước ĐPT là 1.500 tỷ USD, và một trong những nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á năm 1997 là do tình hình vay nợ nước
ngoài khá trầm trọng: Thái Lan nợ nước ngoài 79,9 tỷ USD chiếm 43% GDP,
Malaysia nợ 36,4 tỷ USD chiếm 38,5% GDP…[16, tr.36]
Hình thức tín dụng quốc tế phổ biến nhất là hình thức ODA – hỗ trợ phát
triển chính thức. Đây là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay vốn với
những điều kiện ưu đãi đặc biệt; cho vay dài hạn; lãi suất thấp; trả nợ thuận lợi


7

nhằm giúp cho các nước ĐPT tăng trưởng kinh tế và gia tăng phúc lợi xã hội. Nội

dung viện trợ ODA bao gồm: viện trợ không hoàn lại: thường chiếm 57% tổng vốn
ODA; hợp tác kỹ thuật; viện trợ hoàn lại (cho vay không lãi suất, cho vay với lãi
suất ưu đãi: từ 0,5-5%/năm trả vốn sau 3-10 năm, hoàn vốn trong thời gian 10 - 50
năm) [16, tr.37].
1.1.2. Vai trò của FDI đối với các nhóm nước tiếp nhận đầu tư
FDI ngày càng đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế - thương mại ở các nước đầu tư và các nước tiếp nhận đầu tư. Đối với các
nước xuất khẩu vốn đầu tư, lợi ích là rõ ràng vì mối quan tâm lớn nhất của chủ đầu
tư là lợi nhuận. Việc đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép họ có thể sử dụng hiệu
quả vốn đầu tư, mở rộng thị trường, giảm bớt chi phí bằng việc kéo dài vòng đời
của công nghệ, tìm được nguồn nguyên liệu ổn định hay sử dụng được nhân công
giá rẻ…Đầu tư vốn ra nước ngoài còn giúp các chủ đầu tư phân tán rủi ro khi tình
hình kinh tế chính trị trong nước bất ổn định, làn sóng đầu tư mạnh mẽ của các
doanh nghiệp Hồng Kông, Macao, Đài Loan sang các nước công nghiệp phát triển
nhằm đề phòng những thay đổi lớn trong hoạt động quản lý kinh doanh sau khi có
sự sáp nhập của các nước này vào Trung Quốc. Ngoài ra, đối với các nước chủ đầu
tư, đầu tư ra nước ngoài còn giúp thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng
hiệu quả hơn, thích nghi hơn với sự phân công lao động quốc tế mới. Đối với các
nước xuất khẩu nhiều vốn FDI, điều này còn thể hiện được sức mạnh kinh tế và vị
thế trên thế giới sẽ được củng cố và phát triển.
Ở đây, tác giả sẽ đi sâu vào việc phân tích tác động của FDI đối với các
nhóm nước tiếp nhận đầu tư gồm nhóm các nước công nghiệp phát triển và nhóm
các nước chậm, ĐPT vì hiện nay dòng chảy của tư bản quốc tế đều hướng vào hai
khu vực này. Đối với cả hai khu vực này, FDI đều có vai trò đặc biệt quan trọng.
Đối với các nƣớc công nghiệp phát triển
Các nước tư bản phát triển như Mỹ và Tây Âu, Nhật Bản đều nhận thấy được tầm
quan trọng của đầu tư nước ngoài. Các chuyên gia kinh tế của Mỹ khi nghiên cứu
hiện tượng Nhật ồ ạt đầu tư vào Mỹ (từ 1951-1991 với khối lượng là 148,9 tỷ USD
chiếm 42,4% tổng số vốn đầu tư của Nhật ra nước ngoài) đã đưa ra nhận định việc



8

đầu tư của Nhật mang lại nhiều cái lợi cho nền kinh tế Mỹ nhiều hơn là mặt hại [16,
tr.25]. Những cái lợi do FDI mang lại cho các nước tư bản phát triển bao gồm:
- Thông qua FDI các nước công nghiệp phát triển sẽ tăng cường tận dụng và phát
huy sức mạnh công nghệ đồng thời bổ sung những thiếu sót trong công nghê. Nhật
Bản là nước đã phát huy và bổ sung thiếu sót về công nghệ trong nhiều lĩnh vực mà
Mỹ và Nhật bắt tay với nhau, Mỹ phát minh sáng chế, Nhật triển khai thực hiện có
hiệu quả.
- Giúp các nước công nghiệp phát triển giải quyết các vấn đề về kinh tế xã hội như
lạm phát, thất nghiệp. Thường các nước công nghiệp phát triển được coi là thừa vốn
tương đối, nhưng cũng có những ngành nghề thiếu vốn, thông qua FDI giúp cân
bằng lượng vốn đầu tư trong các ngành. Ngoài ra, tỷ lệ thất nghiệp ở các nước này
cao và nguy cơ bị thôi việc rất lớn, việc mua lại những công ty và xí nghiệp có nguy
cơ bị phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán, tạo công ăn việc làm mới cho
người lao động.
- Tăng thu ngân sách nhà nước do nhiều nước công nghiệp phát triển có ngân sách
bị thâm hụt, nhờ có FDI các nước này sẽ có nguồn thu từ các loại thuế và lĩnh vực
dịch vụ
- Tăng ngân sách đầu tư cho nghiên cứu và triển khai các sản phẩm mới và công
nghệ mới.
- Tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy thương mại trong nước phát triển và giúp
doanh nghiệp trong nước học tập các kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Đối với các nƣớc chậm và đang phát triển
FDI giúp các nước này đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo
ra những doanh nghiệp mới và tăng quy mô của các đơn vị kinh tế. FDI có rất nhiều
tác động tích cực đối với các quốc gia này, phải kể đến là:
- FDI giúp bổ sung vốn cho các nước đang và kém phát triển. Trong thời kỳ đầu,
khi các nước chậm và ĐPT mở cửa, vốn do đầu tư nước ngoài rất quan trọng

thường chiếm ¼ tổng số vốn đầu tư. Trên toàn thế giới, tỷ trọng tổng FDI/ tổng vốn
đầu tư cố định luôn có xu hướng tăng: Năm 1991-1995 là 4,1%, năm 2000 là 20%
[16, tr.37]. Các nước này thường có năng suất lao động thấp, nên tổng GDP là thấp,


9

ít tích lũy được do vậy đầu tư nội bộ nền kinh tế thấp, FDI giúp bổ sung vốn trực
tiếp cho nền kinh tế
- Thay đổi cơ cấu kinh tế và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế các nước cả về
lượng và về chất. Nhờ có FDI mà cơ cấu kinh tế của các nước đang và kém phát
triển chuyển dịch sang hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, do
FDI trên thế giới chủ yếu là vào các ngành dịch vụ, công nghiệp rồi mới tới công
nghiệp hóa nông nghiệp. FDI là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước
ĐPT. Trung Quốc hiện nay đạt tốc độ tăng trường kinh tế là 10%, trong đó FDI
đóng góp 1/3 tốc độ tăng trưởng, nghĩa là cứ 1 tỷ FDI vào Trung Quốc thì trong
năm đầu tiên sẽ tạo ra được 9,5 tỷ USD trong GDP và trong 2 năm tiếp theo đóng
góp được 9 tỷ USD trong GDP [25].
- Góp phần mở rộng thị trường. FDI giúp các nước tiếp nhận đầu tư nâng cao năng
lực cạnh tranh trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Do các chủ đầu tư, luôn nỗ lực
mở rộng thị trường và các nước tiếp nhận đầu tư luôn khuyến khích các chính sách
sản xuất hướng ra xuất khẩu.
- Góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết nạn thất nghiệp. Theo thống kế
của Liên hợp quốc, số người thất nghiệp và bán thất nghiệp ở các nước chậm và
ĐPT khoảng 35-38% tổng số lao động, cho nên hàng vạn xí nghiệp có vốn FDI hoạt
động tại đây giúp các nước giải quyết một phần nạn thất nghiệp. Ví dụ như Trung
Quốc tính đến tháng 9/2002 chỉ riêng lĩnh vực đầu tư FDI nhà nước đã phê chuẩn
hơn 414.000 dự án với tổng số vốn đăng ký là 813,66 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư
đã thực hiện là 434,78 tỷ USD, và giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động
Trung Quốc. Còn ở Việt Nam, kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài 12/1987 đến hết

năm 2002 đã cấp phép cho 4582 dự án với tổng số vốn đăng ký là 50,3 tỷ USD, giải
quyết công ăn việc làm cho 400.000 lao động [16, tr.25]. Ngoài ra, để đáp ứng nhu
cầu nhân lực có trình độ, nhiều dự án FDI sẵn sang bỏ vốn ra đào tạo nâng cao trình
độ người lao động đặc biệt là trong các ngành mũi nhọn sử dụng công nghệ mới
như viễn thông, thông tin…
- Góp phần nâng cao mức sống của người lao động nói chung. Các dự án FDI góp
phần tạo môi trường cạnh tranh trong khu vực doanh nghiệp về cả khối lượng,


10

chủng loại mặt hàng sản xuất và khả năng thu hút lao động. Vì vậy các doanh
nghiệp nhà nước luôn điều chỉnh chế độ thu nhập và đào tạo đối với người lao động
đồng thời cung cấp nhiều chủng loại hàng hóa trên thị trường, đa dạng hóa sự lựa
chọn của người tiêu dùng.
- Giúp tăng thu ngân sách nhà nước và giảm một phần nợ nước ngoài. Từ FDI, các
nước tiếp nhận đầu tư có thêm thu nhập từ thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu
nhập cá nhân, các loại phí và thuế khác. Ở Việt Nam hiện nay, tính cả dầu khí có
20% tổng thu ngân sách nhà nước bắt nguồn từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, các nước chậm phát triển hiện này đang nợ nước ngoài khoảng 1500 tỷ
USD, giá trị tương đương với 86.000 tấn vàng [16, tr.26], và các nước này vẫn còn
có nhu cầu vay thêm để giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội về lâu dài.
Ngoài ra, khả năng tiếp nhận nhiều FDI của các nước sẽ góp phần phát triển
quan hệ kinh tế đối ngoại, thể hiện được một nền kinh tế đang trên đà phát triển, với
tình hình chính trị ổn định và hệ thống luật pháp minh bạch, là điểm đến cho nhiều
nhà đầu tư trong tương lai.
Bên cạnh những tác động tích cực trên, những tác động tiêu cực do việc tiếp
nhận FDI cho các nước chậm /ĐPT luôn là nguy cơ tiềm ẩn:
- Về công nghệ, việc thiếu quản lý giám sát của Nhà nước trong nhập khẩu công
nghệ có thể mang lại cho các nước đang và chậm phát triển những công nghệ cũ

thậm chí từ những năm 60 và khó rút ngắn khoảng cách về công nghệ với các nước
phát triển; khó khăn trong việc định giá công nghệ dẫn đến giá trị thực tế của công
nghệ thấp hơn nhiều so với giá công nghệ mang đi góp vốn gây thất thu các khoản
thuế cho nhà nước. Bên cạnh đó, là những vấn đề về ô nhiễm môi trường do trở
thành bãi rác thải công nghệ.
- Nguy cơ triệt tiêu các doanh nghiệp trong nước do doanh nghiệp trong nước tại
các nước đang và chậm phát triển trong một số các ngành công nghiệp mạnh có
năng lực cạnh tranh thấp như ở Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước thuộc
ngành công nghiệp mỹ phẩm và chất tẩy rửa.
- Sự phát triển mất cân đối trong các ngành và lĩnh vực do các nước tiếp nhận đầu
tư ít giữ vai trò chủ động trong việc phân luồng FDI. Hiện nay, các nước chậm phát


11

triển chi thu hút được FDI vào các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến,
các ngành dịch vụ mang tính chất đầu cơ… chứ không thu hút được vào các ngành
mũi nhọn như viễn thông, xây dựng cơ sở hạ tầng; các chủ đầu tư thường có xu
hướng chọn địa bàn là những nơi đã có cơ sở hạ tầng tốt và tương đối phát triển…vì
vậy dẫn đến gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hôi…
Các nguy cơ khác có thể kể đến như tài nguyên và các vấn đề xã hội. Tuy nhiên,
việc phân tích trên cho thấy những mặt tích cực do FDI mang lại cho các nước
chậm và ĐPT là rất cần thiết trong việc xây dựng và phát triển kinh tế ở khu vực
này, việc hạn chế những mặt tiêu cực cũng không phải là vấn đề khó khăn đối với
các nước tiếp nhận đầu tư miễn rằng họ luôn ý thức được.
1.1.3. Các xu hướng biến động của dòng chảy FDI hiện nay
Dòng FDI trên thế giới đã xuất hiện và được xác định vào những năm cuối
thế kỷ 19, trước hết là dưới hình thức thiết lập các nhà máy, xí nghiệp ở nước ngoài
gần nơi tiêu thụ với mục đích tránh cước phí vận chuyển hàng hoá. Sự xuất hiện và
gia tăng dòng FDI trên thế giới là một tất yếu kinh tế gắn liền với sự phát triển lực

lượng sản xuất và quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trên thế giới, hình thức này
được phát triển mạnh mẽ, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay. Cho đến
nay, sự vận động của dòng FDI trên thế giới có thể phân ra 2 giai đoạn trước và sau
chiến tranh thế giới thứ II - 1945:
- Ở giai đoạn I (trước năm 1945) cho thấy dòng chảy chính của FDI từ các nước tư
bản phát triển nhất (Anh, Pháp, Đức, Mỹ) sang các nước ĐPT. Đặc trưng của giai
đoạn này là sự xuất hiện “tư bản thừa” do quy mô tích luỹ tư bản ở các nước tư bản
phát triển đã đạt được một trình độ nhất định. Trong khi đó, ở các nước chậm phát
triển, giá đất đai tương đối thấp, nhân công rẻ, nguyên liệu dồi dào, nhưng lại rất
thiếu vốn. Mặt khác, không loại trừ việc xuất khẩu tư bản tới các nước chậm phát
triển còn được coi là ưu tiên chiến lược của các cường quốc để khống chế về kinh
tế, chính trị lâu dài các nước này; thực hiện sự phân chia thế giới về mặt kinh tế,
chính trị, giữa các nước TBCN.
- Ở giai đoạn II: Từ sau năm 1945 đến nay. Xu hướng vận động của dòng FDI trên
thế giới đã có sự thay đổi. Về cơ bản đó là sự chi phối của các quốc gia công


12

nghiệp phát triển đối với sự vận động của dòng FDI; sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh
vực đầu tư; xuất hiện nhiều trung tâm đầu tư mới; MNCs trở thành những chủ đầu
tư chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong hoạt động FDI
Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ trình bày những nghiên cứu và nhận
định cơ bản về tình hình FDI từ những năm 1960 trở lại đây, bao gồm các xu hướng
biến động chủ yếu sau:
Ngày nay, dòng chảy FDI chủ yếu vào các nước công nghiệp phát triển
Theo thống kê, nếu vào những thập kỷ 50-60 thế kỷ 20, tỷ lệ FDI đầu tư vào
các nước ĐPT chiếm 70% tổng số FDI toàn thế giới thì sang đầu thập kỷ 80-90, tỷ
lệ này chỉ còn chiếm khoảng dưới 30%; thậm chí có năm chỉ còn 16,8% [8, tr.35].
Theo “Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế” (OECD), tổng số FDI toàn thế

giới năm 1994 là 196 tỷ USD tăng 11% so với năm 1993, trong đó Mỹ là nước đầu
tư trực tiếp lớn nhất, chiếm 58,4 tỷ so với 57,9 tỷ USD vào năm 1993. Nếu như
Nhật chủ yếu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì Mỹ lại nhận FDI từ bên ngoài lớn
hơn dòng chảy ra: con số này năm 1994 là 60,1 tỷ USD so với 10 tỷ vào năm 1992.
Năm 1999, các nước công nghiệp phát triển chiếm 76,5% tổng số vốn FDI của thế
giới là 865 tỷ USD, trong khi đó các nước ĐPT chiếm ¾ dân số thế giới chỉ chiếm
23,5% tổng vốn FDI tương ứng 192 tỷ USD. Sang năm 2000, đã có 200 tỷ USD vốn
đầu tư vào các nước ĐPT, trong khi đó chỉ riêng Mỹ cũng đã thu hút được 200 tỷ
USD vốn FDI, tuy nhiên xu hướng này hiện đang có chiều hướng giảm, năm 2001,
chỉ còn tỷ FDI, năm 2002 còn 44 tỷ USD. EU cũng là trung tâm thu hút vốn đầu tư
FDI của thế giới, ước tính năm 1999 là khoảng 280 tỷ USD [16, tr.41].
Nguyên nhân khiến các nước công nghiệp phát triển trở thành nơi thu hút
nhiều vốn FDI là do: làn sóng hợp nhất, thôn tính các công ty chủ yếu diễn ra ở các
nước công nghiệp phát triển; cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm cho các
ngành công nghiệp bán dẫn vi điện tử, sinh học...trở thành những ngành công
nghiệp mũi nhọn ở đây và đem lại lợi nhuận siêu ngạch, đây là điểm hấp dẫn các
dòng vốn FDI; các nước công nghiệp phát triển được xem là những thị trường có
khả năng tiêu thụ và thanh toán lớn; môi trường đầu tư với hệ thống chính trị ổn
định, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng hiện đại, trình độ nhân công


13

cao…; ngoài ra chính sách bảo hộ của các nước tư bản phát triển ngày càng tinh vi
buộc các nước khác phải xây dựng các “căn cứ” trong lòng các nước này để tránh
hàng rào bảo hộ mậu dịch tại các nước nhập khẩu.
Xu hướng này cho thấy hoàn thiện môi trường đầu tư theo hướng phát triển
và hoàn thiện những yếu tố nội lực như tạo lập nền chính trị ổn định, nâng cấp cơ sở
hạ tầng quốc gia, chú trọng đến nguồn nhân lực…luôn đóng vai trò quan trọng để
thu hút vốn FDI.

Hai là, có sự thay đổi lớn trong tương quan lực lượng các chủ đầu tư quốc tế
thể hiện ở việc xuất hiện thêm nhiều thế lực đầu tư mới
Nếu đầu thế kỷ 20, Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Hà Lan là những nước dẫn đầu thế
giới về xuất khẩu vốn ra nước ngoài. Đến giữa thế kỷ 20 Mỹ là nước dẫn đầu về đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài sau đó là Anh và Pháp. Còn từ thập niên 70 trở về đây,
Nhật Bản nổi lên là cường quốc đầu tư lớn và trở thành nhà đầu tư lớn nhất hiện nay
vào Mỹ. Giờ đây đã xuất hiện thêm nhiều trung tâm đầu tư khác, đang trở thành một
hiện tượng thu hút sự chú ý của thế giới trong lĩnh vực FDI ở các nước NICs ở khu
vực châu Á- Thái Bình Dương, đó là Singapore, Hong Kong, Đài Loan, Hàn Quốc
đang vượt qua Nhật, Mỹ và EU trở thành chủ đầu tư lớn nhất ở vùng Châu Á [16,
tr.43]. Xu hướng này cho thấy muốn tăng cường thu hút FDI phải đồng thời quan
tâm đến xây dựng chiến lược thu hút vốn đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển
và cả những sách lược mang tính đặc thù để thu hút vốn từ các nước NICs.
Ba là, có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư
Trước những năm 60, FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khai khoáng, khai
thác tài nguyên thiên nhiên, các ngành chế biến nông sản. Vào thập niên 80, FDI
chuyển sang các ngành cơ khí hóa, chế tạo máy. Bước vào những năm 90, FDI
chuyển hướng sang những ngành sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao như
công nghệ sinh học, đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng gia tăng nhanh, nhất là các
ngành viễn thông, điện, giao thông vận tải, và thủy lợi...[8, tr.36]. Đây cũng chính là
hệ quả của sự phát triển nền kinh tế thế giới dưới tác động của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ, theo đó các ngành và phân ngành dễ liên kết, hợp tác trên các lĩnh
vực mũi nhọn của nền kinh tế. Khi đầu tư vào các nước tư bản phát triển, thường


14

chủ đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt tập trung vào thương mại, tài chính, và
những ngành kỹ thuật mới như công nghệ thông tin, thiết bị viễn thông, sản xuất ô
tô, công nghệ sinh học. Hoạt động đầu tư ở các nước này chủ yếu thực hiện thông

qua việc sáp nhập, mua lại để thành lập các “siêu” công ty độc quyền chi phối hoạt
động kinh doanh toàn cầu. Bước sang đầu thế kỷ 21, FDI trên thế giới có xu hướng
chuyển chủ yếu sang lĩnh vực dịch vụ, trung bình mỗi năm (2001-2002), FDI vào
lĩnh vực dịch vụ chiếm 2/3 tổng dòng FDI trên thế giới, trị giá khoảng 500 tỷ USD
[27, tr.15]. Dịch vụ ngày càng trở thành tất yếu đối với cuộc sống hiện đại, đồng
thời là ngành “công nghiệp không khói” cho lợi nhuận cao khiến đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở dạng này tăng rất nhanh. Tóm lại, một chính sách thu hút vốn FDI
muốn có hiệu quả cần phải tính đến sự thay đổi trong lĩnh vực đầu tư.
Bốn là, MNCs trở thành chủ đầu tư thực sự và đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động FDI
Sự xuất hiện của MNCs phổ biến vào những năm 50, 60 trở thành xu hướng
vận động mới của các tổ chức độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước.
Ngày nay không một lĩnh vực kinh tế - chính trị nào của thế giới tư bản mà vắng
mặt các công ty MNCS. Theo UNCTAD, , hiện nay có hơn 53.000 công ty xuyên
quốc gia với gần 500.000 cơ sở sản xuất ở khắp toàn cầu, chiếm gần 2/3 tổng giá trị
thương mại quốc tế; 4/5 nguồn vốn FDI và 90% kết quả nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ thế giới [16, tr.45]. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với các nước muốn thu hút
FDI là cần chú trọng các MNCs. Trong số các nước ASEAN, Singapore là nơi sớm
chú trọng thu hút FDI từ các công ty MNCs và ở đây có số lượng tới hơn 3000 công
ty MNCs trong đó có khoảng 700 công ty tham gia vào lĩnh vực công nghiệp chế
biến chế tạo, số còn lại hoạt động trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thông tin
và tư vấn quản lý [22]. Ngoài ra, một trong những kinh nghiệm của Trung Quốc rút
ra khi nghiên cứu đặc điểm này là phải xây dựng chiến lược vận động đầu tư có
trọng điểm, chào mời xúc tiến đầu tư theo địa chỉ, và ưu tiên hàng đầu thuyết phục
các siêu công ty vì vừa thu hút được những dự án lớn và còn kéo theo sự đầu tư của
các công ty có quy mô nhỏ hơn.


15


Năm là, tốc độ thu hút vốn đầu tư trên thế giới nói chung và Châu Á nói riêng
tăng rất mạnh trong giai đoạn 1993-2000, nhưng từ năm 2001 tới nay lại sụt
giảm mạnh.
Giai đoạn 1993-2000, FDI tăng cả về giá trị tuyệt đối- tổng số vốn đầu tư lẫn
tỷ trọng trong tổng giá trị đầu tư quốc tế. Năm 1974, FDI toàn thế giới là 40 tỷ
USD, năm 1986 là 78 tỷ USD, năm 1992 là 168 tỷ USD, năm 1995 FDI tăng lên
gấp đôi là 325 tỷ USD, năm 1999 lên tới 1075 tỷ USD và đỉnh cao là năm 2000,
mức đầu tư FDI toàn thế giới lên tới 1400 tỷ USD [16, tr.44]. Theo đánh giá của
UNCTAD (bảng 1.1), dòng vốn FDI trong 3 năm 2001, 2002, 2003 giảm sút mạnh
với tốc độ cao, đặc biệt là năm 2003, chỉ còn 559,6 tỷ USD, đây là mức giảm sút
được coi là cao nhất trong vòng 30 năm qua , tuy nhiên đến năm 2004, FDI trên thế
giới có dấu hiệu khôi phục trở lại, thể hiện ở mức tăng 17% so với năm 2003.
Bảng 1.1: Mức tăng giảm của dòng vốn FDI trên thế giới (2000-2004)
ĐVT: triệu USD
2000
1. Trị giá vốn FDI
2. Mức giảm tuyệt đối

2001

1,387,953

2002

2003

2004

817,574


678,751

559,576

653,345

(570,379)

(138,823)

(119,175)

93,769

41.9

18

20.5

+17

3. Tốc độ giảm (%)

Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2004

Sự giảm sút về đầu tư FDI diễn ra ở hầu hết các khu vực.Trong đó, ở 25
nước công nghiệp phát triển năm 2002 chỉ đạt 349 tỷ USD giảm 30% so với năm
2001, đặc biệt là Anh giảm 75% từ thu hút FDI, ở Mỹ giảm 2/3 từ mức thu hút là
124 tỷ USD, năm 2002 còn 44 tỷ USD. Ở các nước Châu Phi, giảm 64% từ mức

thu hút năm 2001 là 17 tỷ USD tới năm 2002 còn 6 tỷ USD. Cờn ở Châu Á, năm
2002 chỉ thu hút 90 tỷ USD giảm 12% so với năm 2001, trong khi đó năm 2001 đã
thu hút giảm 24% so với năm 2000. Tuy vậy, Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia
được nổi lên như là cường quốc thu hút đầu tư FDI lớn của thế giới. Trong đó, sự
kiện Trung Quốc trong dòng vận động FDI có thể coi như một xu hướng mới trong
toàn cảnh FDI trên thế giới [16, tr.44]
Sáu là, sự thay đổi trật tự của các nước tiếp nhận đầu tư lớn nhất trên thế
giới điển hình là sự kiện Trung Quốc trong xu hướng vận động FDI.


16

Trước đây, những nước chủ đầu tư lớn nhất cũng là những nước tiếp nhận
đầu tư lớn nhất. Song gần đây, vị trí của Trung Quốc trong việc thu hút FDI luôn
được xếp hạng cao. Năm 1990 chỉ có 3.4 tỉ USD FDI vào Trung Quốc, đến năm
1996 con số này đã tăng gấp 10 lần tại mức 41,7 tỉ và từ đó (1996- 2000) mỗi năm
Trung Quốc có 40 tỉ USD FDI (so với khoảng 10 tỉ một năm tại một số ít các quốc
gia châu Á khác), đây con số kỷ lục về mức đầu tư và chỉ đứng sau Mỹ. Nhưng đến
năm 2002, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ thu hút đến 50 tỷ USD và trở thành nước
tiếp nhận đầu tư lớn nhất trên thế giới. Theo một số dự báo có tính khả quan, Trung
Quốc có thể nhận 100 tỉ USD mỗi năm FDI vào năm 2005 [23]. Sở dĩ Trung Quốc
thu hút được nhiều vốn đầu tư với tốc độ tăng trưởng ổn định như vậy là do tính hấp
dẫn của môi trường đầu tư, thể hiện ở tính ngày càng hoàn thiện của môi trường
pháp lý; những ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc giành cho các nhà đầu tư nước
ngoài như mở rộng danh mục ngành cho phép đầu tư và giảm thuế cho các dự án
đầu tư; thị trường lao động dồi dào với giá nhân công rẻ, với tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh và môi trường tài chính lành mạnh và đặc biệt là tác động của sự kiện
Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001, mà Trung Quốc đã phải mất nhiều năm
và bỏ ra nhiều nỗ lực để chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết.
Xu hướng này cho thấy, trong khi tổng vốn đầu tư FDI giảm, nhu cầu về vốn

của các nước rất lớn để phục hồi và duy trì tốc độ phát triển kinh tế và dẫn tới sự
cạnh tranh lớn trong thu hút FDI, nước nào năng động hoàn thiện môi trường đầu tư
thì nơi đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư. Sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO sẽ
có những tác động hai mặt tới các quốc gia khác trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương trong bài toán thu hút vốn FDI.
1.1.4. Môi trường đầu tư và khả năng cạnh tranh thu hút FDI của các nước tiếp
nhận đầu tư
Môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố về pháp luật, kinh tế, chính trị, xã
hội và các yếu tố: cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, cả các lợi thế của một quốc gia
có liên quan, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư của nhà
đầu tu trong và ngoài nước tại một quốc gia [16, tr.74]. Các yếu tố của môi trường
đầu tư bao gồm: Môi trường chính trị, xã hội; môi trường pháp lý; môi trường văn


17

hóa; môi trường kinh tế và tài nguyên; môi trường tài chính; môi trường cơ sở hạ
tầng; môi trường lao động.
Môi trường chính trị - xã hội:
-

Sự ổn định của chế độ chính trị, quan hệ các đảng phái đối lập và vai trò kinh
tế của họ, xem xét Đảng nào lãnh đạo đất nước và chính sách của Đảng đó
như thế nào, có đủ mạnh và có uy tín không.

-

Sự ủng hộ của quần chúng, của các đảng phái, tổ chức xã hội và của quốc tế
đối với Chính phủ cầm quyền.


-

Năng lực điều hành và phẩm chất đạo đức của đội ngũ lãnh đạo đất nước, ý
thức dân tộc và quan niệm của người dân

-

Mức độ an toàn và an ninh trật tự xã hội: khủng bố, nguy cơ chiến tranh…

Môi trường văn hóa:
-

Tôn giáo, tín ngưỡng, tập quán, ngôn ngữ

-

Truyền thống lịch sử và văn hóa

Môi trường pháp luật và hành chính:
-

Tính đầy đủ và đồng bộ của hệ thống pháp luật: Xem xét việc xây dựng và
ban hành luật, nghiên cứu luật ở nước đó có được ban hành đồng bộ và đầy
đủ hay không, có tính thống nhất không

-

Tính chuẩn mực và tính hội nhập của hệ thống pháp luật

-


Tính rõ ràng, công bằng, công khai và ổn định của hệ thống pháp luật, nếu
không phải dễ dự đoán

-

Khả năng thực thi của pháp luật và khả năng của pháp luật bảo vệ quyền lợi
các nhà đầu tư, những ưu đãi và hạn chế giành cho các nhà đầu tư nếu có, đòi
hỏi pháp luật phải thực thi nghiêm minh và không có sự phân biệt đối xử
giữa các nhà đầu tư với nhau (nước ngoài với trong nước)

-

Các thủ tục kèm theo: thủ tục hành chính, thủ tục hải quan…

Môi trường kinh tế và tài nguyên:
-

Các chính sách kinh tế có khuyến khích khu vực tư nhân phát triển hay
không, có khuyến khích mở rộng đầu tư hay không…


18

-

Năng lực kinh tế thông qua các chỉ tiêu kinh tế của nước đó: Các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội như tổng GDP, GDP tính trên đầu người,
GNP…, khả năng tiết kiệm trong nội bộ nền kinh tế quốc gia, các luồng vốn
huy động đầu tư cho phát triển; dung lượng thị trường và sức mua của thị

trường…

-

Năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế, hệ thống thông tin kinh tế

-

Chính sách và mức độ bảo hộ thị trường nội địa

-

Tình hình buôn lậu và khả năng kiểm soát

-

Xem xét yếu tố tài nguyên và khả năng khai thác

Môi trường tài chính: có tác động mạnh tới đầu tư và các đặc điểm kinh tế
-

Các chính sách tài chính của nước tiếp nhận đầu tư bao gồm: cính sách thu
chi tài chính, chính sách mở tài khoản, cho vay vốn, lãi suất, chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài

-

Các chỉ tiêu để đánh giá nền tài chính của một quốc gia bao gồm: cán cân
thành toán quốc tế, cán cân thương mại quốc tế, nợ quốc gia, tỷ lệ lạm phát


-

Các vấn đề khác phản ánh năng lực tài chính của nước tiếp nhận đầu tư như:
sự biến động của tỷ giá hối đoái và khả năng điều tiết của nhà nước; khả
năng tự do chuyển đổi của đồng tiền; hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân
hàng; sự họat động của các thị trường tài chính: thị trường chứng khoán,
leasing, bất động sản…;hệ thống thuế và lệ phí: các loại thuế, thuế suất và
tính ổn định; khả năng đầu tư từ Chính phủ cho phát triển, chính sách giá cả
hàng hóa

Môi trường cơ sở hạ tầng:
-

Hệ thống đường sá, cầu cống, sân bay, cảng của nước nhận đầu tư

-

Mức độ cung cấp và thỏa mãn các dịch vụ: hệ thống điện, nước, bưu chính
viễn thông…

-

Các chính sách đất đai của nước nhận đầu tư: Khả năng thuê đất và sở hữu
nhà (có cho chủ đầu tư nước ngoài sở hữu đất hay không…), chi phí thuê đất,
đền bù giải tỏa, thuê nhà, chi phí dịch vụ vận tải, điện nước, điện thoại, fax...


19

Môi trường lao động:

-

Nguồn lao động, trình độ và kỹ năng, các chính sách về tiền lương và bảo
hiểm cho lao động

-

Chính sách đào tạo lao động của nước nhận đầu tư: Hệ thống giáo dục và đào
tạo, sự hỗ trợ của Chính phủ cho phát triển nguồn nhân lực, có phù hợp với
nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài hay không…

-

Các yếu tố về người lao động: cường độ và năng suất lao động, tính cần cù
và kỷ luật lao động,

-

Các quy định về đình công bãi công

Môi trường quốc tế:
-

Quan hệ ngoại giao và quan hệ kinh tế đối ngoại của nước nhận đầu tư

-

Mức độ mở cửa của nước nhận đầu tư về kinh tế và tài chính với thị trường
bên ngoài


-

Đánh giá mức độ phụ thuộc của nước nhận đầu tư với nền kinh tế thế giới

-

Khả năng thiết lập quan hệ buôn bán với thế giới, mức độ được hưởng ưu đãi
MFN và GSP của các nước này, khả năng hợp tác kinh tế quốc tế: tham gia
các khối kinh tế khu vực, thế giới…, khả năng nhận được sự ủng hộ tài chính
thông qua các hiệp định song phương và đa phương để được vay vốn ODA
(từ Nhật, EU, IMF, WB, ADB…)
Tóm lại, môi trường đầu tư của một quốc gia là một khái niệm rất rộng bao

trùm ở tất cả các khía cạnh: chính trị, kinh tế-xã hội, lao động và tài nguyên, tài
chính, quan hệ quốc tế…Việc đánh giá năng lực cạnh tranh của một nước trước khả
năng thu hút vốn FDI dựa trên mức độ hấp dẫn cao của các yếu tố thuộc môi trường
đầu tư, cụ thể khi các yếu tố này thực sự có lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
1.2.

Sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO trong xu hƣớng vận động FDI

1.2.1. Vị thế của Trung Quốc ở khu vực Đông Á trong lĩnh vực thương mại và
đầu tư quốc tế
Sự kết thúc của chiến tranh lạnh đã chứng kiến Trung Quốc, Đông Âu và
những nước theo chủ nghĩa cộng sản khác trước đây bắt đầu chuyển hướng sang
nền kinh tế thị trường, hợp nhất các thị trường Đông và Tây bị chia cắt trước đây. Ở


20


Châu Âu, với thị trường Tây Âu 350 triệu người đã sáp nhập với thị trường Đông
Âu của 130 triệu người, đánh dấu một bước tiến đầy năng động trong xu thế tiến tới
sự phân bổ các nguồn lực kinh tế và đưa nền kinh tế thế giới vào một “kỷ nguyên
đại cạnh tranh”. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu khốc liệt như vậy, chỉ duy nhất
một khu vực đạt được tốc độ tăng trưởng khó tin, khoảng 7%. Mặc dù dư âm của
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn còn nóng hổi, và vẫn phải đương đầu với
những vấn đề về cơ cấu như giải quyết những khoản nợ khó đòi, thì sự hồi phục
mạnh mẽ của Đông Á đã đặt nó vào vị trí nổi bật - trung tâm tăng trưởng kinh tế thế
giới. Trong suốt những năm 1990, đầu tư trực tiếp thế giới tăng gần gấp ba lần với
tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng kim ngạch buôn bán. FDI của Đông Á tăng nhanh hơn
tốc độ tăng FDI của cả thế giới, đạt khoảng 700 tỷ USD năm 1999, hay xấp xỉ gấp 4
lần đầu thập niên 1990. Nếu tính theo tỷ trọng các nước có đầu tư trực tiếp vào
Đông Á, thì Nhật Bản chiếm khoảng ¼ vào năm 1990 và đến năm 1999 thì tỷ trọng
này tụt xuống còn khoảng 10%, trái lại trong giai đoạn này Mỹ và Tây Âu đều tăng
mạnh về tỷ trọng của mình. Các nền kinh tế Đông Á mới nổi đã đạt tỷ trọng tăng
trưởng xuất khẩu trên thế giới gấp hơn 3 lần trong 25 năm qua, từ 5,4% năm 1975
lên 19,8% năm 2002. Thương mại nội khối tại Đông Á đã tăng trưởng nhanh hơn sự
tăng trưởng thương mại của bất kỳ thị trường nào khác, đây là kết quả không chỉ do
nhu cầu tăng lên mà còn do năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế trong khu vực
tăng lên đáng kể. Một trong những sự kiện mang tầm vóc lịch sử tạo ra bối cảnh
phát triển của Đông Á như hôm nay. Đó là sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO
(11/2001). Trong những năm gần đây, sự nổi lên bất ngờ của nền kinh tế Trung
Quốc đã thực sự gây nhiều sự chú ý, Trung Quốc có tính cạnh tranh trên rất nhiều
lĩnh vực, từ ngành dệt sử dụng nhiều lao động đến ngành điện tử sử dụng nhiều
công nghệ, do đó đang trở nên ngày càng quan trọng với vai trò là trung tâm sản
xuất của thế giới. Được kích thích bởi FDI, nền kinh tế này đã đạt mức tăng trưởng
ngoạn mục- trung bình xấp xỉ 10% trong thập kỷ 90. Xuất khẩu của Trung Quốc
cũng tăng gần gấp 4 lần trong thập kỷ trước, đưa Trung Quốc lên thành nước xuất
khẩu lớn thứ 9 của thế giới năm 1999. Ở Đông Á, tỷ trọng của Trung Quốc trong
GDP của Đông Á tăng từ 25% năm 1980 lên 37% năm 1999 [2, tr.32]. Bởi vậy sự



21

phát triển của Trung Quốc đang đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của Đông Á,
đóng vai trò là động lực phát triển cho kinh tế khu vực.
Trung Quốc hiện đứng đầu thế giới về dân số, đứng thứ hai về tiềm lực quân
sự, đứng thứ 6 về GDP, và mới chỉ tương đương với trên 10% GDP của Mỹ. Nếu
tính trên cơ sở sức mua thực tế, thì GDP của Trung Quốc sẽ đứng thứ hai, sau Mỹ
và tương đương với 50% GDP của Mỹ. Một đặc điểm kinh tế nổi bật của Trung
Quốc là tăng trưởng với tốc độ liên tục cao nhất trên thế giới. Từ năm 1979 đến nay,
tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc liên tục đạt từ 7-10% năm, bất chấp kinh tế Mỹ,
Nhật và Châu Âu rơi vào khủng hoảng, suy thoái, bất chấp cuộc khủng hoảng tài
chính năm 1997, và dịch bệnh SARS năm 2003 [10].
Chỉ hơn 1 năm sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã bắt đầu trở thành cơ
sở chế biến công nghiệp cho nền kinh tế toàn cầu. Có thể nêu ra một vài minh
chứng [6, tr.14]:
- Trung Quốc sản xuất hơn ½ số giày dép tiêu thụ trên thị trường toàn thế giới
- Thị phần của Trung Quốc trong thị trường hàng dệt may thế giới hiện là
20% và dự kiến sẽ tăng lên 50% sau khi WTO bãi bỏ chế độ quota MFA
(Multilateral Fiber Agreement) trong năm 2005, với lý do giá thành rẻ nhất thế giới
- Trung Quốc là nước sản xuất và sử dụng máy điện thoại di động nhiều nhất
thế giới (200 triệu chiếc chiếm 16% thị phần toàn thế giới, năm 2003)
- Thị phần thế giới của Trung Quốc trong một số hàng điện tử khác: máy DVD
(51%), máy lạnh (37%), máy vi tính để bàn (29%), máy giặt (26%)...
Trung Quốc đạt được vai trò này là nhờ liên tục áp dụng trong ¼ thế kỷ chính
sách mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, luôn cải cách để thu hút FDI.
Cũng dễ thấy là Trung Quốc đang thu hút một khối lượng khổng lồ FDI từ khắp thế
giới, xét giá trị FDI vào Trung Quốc, năm 1990 là 3,5 tỷ USD, năm 1997 là 44,2 tỷ
USD, đưa Trung Quốc lên vị trí thứ hai, chỉ sau Mỹ. Đến năm 1999, mức này giảm

xuống là 38,8 tỷ USD nhưng Trung Quốc vẫn là nước tiếp nhận đầu tư đứng thứ sáu
trên thế giới. Kể từ những năm 2000 trở lại đây tốc độ thu hút FDI của Trung Quốc
tăng liên tục, đến năm 2002 Trung Quốc đã vượt qua Mỹ để trở thành nước nhận
FDI lớn nhất là 52,743 tỷ USD, chiếm gần 10% FDI toàn thế giới [12]. Có thể nói,


22

quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc là biểu hiện đặc trưng của tiến trình
toàn cầu hóa kinh tế, và Trung Quốc là nước được hưởng lợi nhiều nhất trong tiến
trình này.
Trung Quốc đang tạo ra những thách thức đối với nền kinh tế thế giới nói
chung, và các nền kinh tế trong khu vực Đông Á nói riêng, đặc biệt là đối với khu
vực ASEAN trong bối cảnh môi trường cạnh tranh khốc liệt
Trước hết đó là những thách thức về thị trường. Thị phần của Trung Quốc
trong thị trường Mỹ đối với 29 loại hàng may theo hệ thống hạn ngạch năm 2002 đã
tăng từ 31% lên tới 59%. Thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc năm 2002
lên tới 103 tỷ USD và năm 2003 sẽ còn cao hơn nữa, nghĩa là hàng hóa Trung Quốc
đã chiếm lĩnh thị trường Mỹ ào ạt, gây mối lo ngại cho Mỹ, do vậy chính quyền Mỹ
đã phải gây sức ép buộc Trung Quốc tăng giá đông NDT, để giảm sức cạnh tranh
của hàng hóa Trung Quốc, giảm nhập siêu từ Trung Quốc. Châu Âu cũng không
tránh khỏi những lo sợ về sức cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc, năm 2002 EU
nhập siêu từ Trung Quốc 47 tỷ euro [7, tr.16]. Còn ở Châu Á, từ Nhật đến ASEAN
đều lo ngại sức cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc. Nhiều ngành công nghiệp của
các nước Châu Á, từ dệt may đến điện tử đang chịu sức ép cạnh tranh từ phía Trung
Quốc. Trong khi đó, Trung Quốc và ASEAN có nhiều điểm giống nhau về cơ cấu
mậu dịch, trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc có nhiều chủng
loại trùng hợp hoặc có tính cạnh tranh lớn với nhiều mặt hàng xuất khẩu của các
nước ASEAN. Nhóm bị tác động này chủ yếu là những nước kém phát triển, có cơ
cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu giống với Trung Quốc. Trong khi đó, việc

Trung Quốc tăng nhập khẩu vào thị trường nội địa do yêu cầu mở cửa sẽ tăng khả
năng xuất khẩu của nhiều nước ASEAN, nhóm nước được hưởng lợi chủ yếu là
những nước phát triển hơn cơ cấu xuất khẩu tương đối giống với cơ cấu nhập khẩu
của Trung Quốc hoặc những nước nằm trong cách mạng sản xuất ngành toàn cầu
với Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc có nhu cầu nhập sản phẩm nhiệt đới và
tài nguyên của các nước ASEAN. Theo thống kê của ngành hải quan Trung Quốc,
nếu tính theo tổng kim ngạch xuất nhập khẩu song phương thì ASEAN là đối tác


23

mậu dịch lớn thứ 5 của Trung Quốc. Điều đó, chứng tỏ khả năng bổ trợ rất lớn của
cả 2 bên.
Sau đó là những thách thức về thu hút vốn đầu tư đặc biệt là vốn FDI [6,
tr.21]. Trung Quốc hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vì lương thấp và thị trường
nội địa lớn với sức tăng trưởng rất nhanh. Năm 2002 Trung Quốc lần đầu tiên trong
lịch sử thế giới đã vượt Mỹ về thu hút FDI, trong khi FDI nói chung của thế giới
vẫn giảm. Việc cạnh tranh thu hút FDI ở Châu Á đặc biệt căng thẳng. Do đó sau khi
chính thức trở thành thành viên của WTO, mỗi năm Trung Quốc có thể thu hút
được 60 tỷ USD FDI. Dự đoán đến năm 2005, Trung Quốc có thể đạt con số FDI
tới 100 tỷ USD (trong khi suốt thập kỷ 90, tổng FDI vào Trung Quốc chưa đầy 250
tỷ USD). Các số liệu thống kê cho thấy, Trung Quốc đã thu hút được 510,8 tỷ USD
vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian từ 1990-2001. Hiện nay đã có hơn 400 trong
số 500 công ty hàng đầu thế giới đã đầu tư vào Trung Quốc trong các lĩnh vực chế
tạo đến công nghệ cao [12]. Trong điều kiện dòng FDI là một con số hữu hạn, thì sự
hấp dẫn FDI vào Trung Quốc đồng nghĩa với sự giảm FDI vào các khu vực khác,
trong đó có nền kinh tế ASEAN.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và nhất là Đông Á nói riêng
đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới trong 4 thập niên qua. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế trung bình thời gian 1986 - 1995 của Trung Quốc là 9,9%,

Ấn Độ là 5,7%, Mỹ là 2,9%, châu Á ĐPT là 7,7%, thế giới là 3,7%, châu Phi là
1,9% và Mỹ La-tinh là 2,8%. Thời gian từ 1995 - 2005, các số liệu tương ứng trên
là 8,2%, 5,9%, 6,6%, 3,8%, 3,9%, và 2,6% (theo W.E.O - IMF, 9-2004). Trong
tương lai gần, sức mạnh kết hợp lại của các nền kinh tế Đông Á sẽ vượt qua bất cứ
một khu vực nào của thế giới. Theo số liệu của Liên hợp quốc, hiện nay Đông Á
chiếm 23% GDP thế giới (cao hơn 19,9% của EU 15), chỉ đứng sau Mỹ (32%),
nhưng tính theo sức mua tương đương thì hơn Mỹ (Mỹ 21,1% còn Đông Á - Thái
Bình Dương 28,8%), và hơn khối NAFTA (24,6%) [32].
Việc Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2002 và hội nhập sâu vào nền kinh
tế thế giới đã tạo ra cơ hội và thách thức quan trọng đối với khu vực Đông Á nói
chung và ảnh hưởng sâu sắc đến thương mại và đầu tư của ASEAN nói riêng. Vai


×