Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Viêm tuyến giáp mạn tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.46 KB, 5 trang )

Viêm tuyến giáp mạn tính


So với bướu cổ đơn thuần và nhiễm độc giáp, căn bệnh này ít được biết đến
hơn nên dễ bị bỏ qua.

Viêm tuyến giáp mạn tín
So với bướu cổ đơn thuần và nhiễm độc giáp, căn bệnh này ít được biết đến
hơn nên dễ bị bỏ qua. Bệnh tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng có thể gây
suy giáp, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống bệnh nhân, nhất là với phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ.
Nguyên nhân gây viêm tuyến giáp có thể là vi khuẩn, virus, thuốc hoặc do
miễn dịch... Bệnh có thể gây suy giáp, cường giáp (nhiễm độc giáp) hoặc cả hai.

Có nhiều loại viêm tuyến giáp, phổ biến là:

Viêm tuyến giáp mạn tính

Còn gọi là bệnh Hashimoto (tên vị bác sĩ người Nhật phát hiện ra căn bệnh
này). Đây là loại viêm tuyến giáp phổ biến nhất và là nguyên nhân hàng đầu gây
suy giáp; là hậu quả rối loạn hoạt động của hệ miễn dịch. Thông thường, hệ thống
miễn dịch có chức năng bảo vệ cơ thể chống lại các vi khuẩn và virus nhưng trong
bệnh Hashimoto, nó lại sinh ra những kháng thể tấn công vào các cơ quan, trong
đó có tuyến giáp.
Tuyến giáp bị phá hủy dần dần và rất âm thầm nên đa số người bệnh không
biết và không được chẩn đoán. Đến khi tuyến này bị phá hủy quá nhiều, không sản
xuất đủ lượng nội tiết tố mà cơ thể cần thì bệnh suy giáp xuất hiện; nhiều trường
hợp có biểu hiện là bướu cổ to.
Viêm tuyến giáp Hashimoto gặp ở khoảng 5% người trưởng thành và có xu
hướng tăng lên theo tuổi. Bệnh có tính chất gia đình, gặp chủ yếu ở phụ nữ và
thường phối hợp với một số bệnh khác như đái tháo đường, viêm khớp, bạch


biến...


Viêm tuyến giáp bán cấp

Là dạng thường gặp sau viêm tuyến giáp Hashimoto, hay xuất hiện sau một
đợt bị viêm hầu họng hoặc viêm đường hô hấp trên.
Lúc đầu, tuyến giáp bị phá hủy đã giải phóng ra nhiều nội tiết tố dự trữ, gây
cường giáp tạm thời. Sau 1-2 tháng, bệnh nhân lại rơi vào tình trạng suy giáp do
tuyến giáp đã bị phá hủy, không còn khả năng sản xuất, còn lượng nội tiết tố dự
trữ đã sử dụng hết. Sau 6-9 tháng, đa số bệnh nhân sẽ trở về bình giáp, tuy nhiên
một số sẽ bị suy giáp vĩnh viễn.

Có 2 thể viêm tuyến giáp bán cấp, đó là:

Thể đau dữ dội:
Tuyến giáp (tương ứng vùng cổ trước) sưng, toàn bộ vùng cổ đau dữ dội
gây hạn chế vận động, nuốt đau, mất ngủ... Điều trị bằng aspirin hoặc các thuốc
chống viêm giảm đau khác, đặc biệt với corticoid. Bệnh nhân có thể có sốt nhẹ
hoặc vừa.
Thể không đau:
Các triệu chứng thường nhẹ, tuyến giáp có sưng nhưng không đau, thường
xảy ra ở những phụ nữ sau sinh (5-9%) trong vòng 1 năm nên còn được gọi là
viêm tuyến giáp sau sinh. Bệnh có xu hướng hay tái phát ở những lần có thai sau.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×