Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 93 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN MINH NGC

QUá TRìNH
CHứNG MINH TRONG Tè TơNG H×NH Sù

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN MINH NGC

QUá TRìNH
CHứNG MINH TRONG Tè TơNG H×NH Sù
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Minh Ngọc


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUÁ TRÌNH
CHƢ́NG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SƢ̣................................ 7
1.1.

Khái niệm quá trình chứng minh trong tố tụng hình..................................
sự
7


1.2.

Vị trí, ý nghĩa của q trình chứng minh trong tố tụng hình ................
sự
12

1.3.

Các bước trong quá trình chứng minh .................................................. 13

1.3.1. Phát hiện thu thập chứng cứ.................................................................. 13
1.3.2. Kiể m tra, đánh giá chứng cứ ................................................................. 21
Quá trình chứng minh tron
g luâ ̣t tố tu ̣ng hiǹ h sự mô ̣t số nươ
c.́ ................ 32
Chƣơng 2: QUY ĐINH
CỦ A PHÁP LUẬT VÀ THƢ̣C TIỄN HOA ̣T
̣
1.4.

ĐỘNGCHƢ́NG MINHỞ VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
..........41
2.1.
2.2.

Quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam về quá triǹ h chứng minh ................ 41
Thực tiễn hoạt động chứng minh .......................................................... 45

Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG

CAO HOẠT ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH CH
ỨNG MINH................62
3.1.

Cơ sở của viê ̣c hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t và các giải pháp nâng cao
hoạt động trong q trình chứng minh ................................................. 62

3.2.

Hồn thiện pháp luật về quá trình chứng minh..................................... 64

3.3.

Các giải pháp nâng cao hoạt động trong quá trình chứng min
h ................ 74

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:


Tòa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TP HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong q trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự (VAHS), các cơ
quan kiểm sát và tịa án ln phải chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay
khơng, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là
người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay khơng có lỗi, do cố ý hay vơ ý; có
năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng; mục đích, động cơ phạm tội; những
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và
những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra nhằm xác định chân lý khách quan của vụ án. Việc
nhận thức chân lý khách quan của VAHS là một quá trình hết sức phức tạp
được tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ do các
chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện phù hợp với các qui định của Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam. Vì vậy, quá trình chứng minh trong tố tụng
hình sự phải được thực hiện một cách khoa học để nhằm xác định đúng người
đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan sai người vô tội bởi không
giống như vụ án khác (vụ án dân sự hoặc vụ án hành chính), vụ án hình sự
(VAHS) có ảnh hưởng rất lớn tới quyền cơng dân, tới sinh mạng chính trị và
những quyền về nhân thân, tài sản khác của con người.
Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là một vấn đề phức tạp,
vừa mang tính lý luận, tính thực tiễn đồng thời có tính quyết định trong việc
xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự. Việc nhận thức đúng và đầy
đủ lý luận về chứng cứ nói chung trong đó có q trình chứng minh trong
VAHS sẽ bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong các
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử được khánh quan chính xác, khơng để lọt tội
phạm, khơng làm oan, sai đối với người vô tội. BLTTHS Việt Nam và pháp

1


luật tố tụng hình sự nhiều nước trên thế giới đều có qui định về chứng cứ và
q trình chứng minh trong tố tụng hình sự (TTHS), trong đó chế định chứng

cứ giữ vai trò hết sức quan trọng là căn cứ, phương tiện để giải quyết vụ án
hình sự. Quá trình chứng minh vụ án hình sự là quá trình tìm ra, xác định các
chứng cứ có ý nghĩa đối với việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận để áp dụng qui định
của pháp luật vào quá trình chứng minh VAHS của cơ quan tiến hành tố tụng
rất ít được quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS năm 2003 qui
định về vấn đề này ở một chừng mực nào đó cịn chưa cụ thể và chặt chẽ. Mặt
khác, trong khoa học luật TTHS khơng ít vấn đề về q trình chứng minh và
các chế định liên quan đến nó cịn chưa thống nhất về cách hiểu, thậm chí có
những quan điểm trái ngược nhau. Trong thực tiễn hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm
đang diễn ra hết sức phức tạp, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm của kẻ
phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn.
Nhiều vụ trọng án mà dư luận cả nước quan tâm đã được các cơ quan
tiến hành tố tụng xử lý kịp thời, đảm bảo cơng minh, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, góp phần giữ vững ổn định tình hình kinh tế, chính trị và trật
tự an toàn xã hội của nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vụ án mà Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết chưa được triệt để. Quá trình chứng
minh xác định sự thật vụ án cịn có nhiều sai sót, dẫn đến việc điều tra, truy
tố, xét xử không đúng người, đúng tội và quyết định hình phạt chưa đúng
pháp luật, nhiều trường hợp bị oan, sai hoặc lọt tội phạm. Do đó Nhà nước đã
phải có biện pháp cụ thể "để khơi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự; nâng cao trách nhiệm của người có
thẩm quyền trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự" [49, tr.15]. Từ đó cho thấy, việc nhận thức và áp dụng pháp luật về

2


quá trình chứng minh trong VAHS của một số chủ thể TTHS chưa được triệt

đó việc nghiên cứu q trình chứng minh trong VAHS ở nước ta là một nội
dung hết sức quan trọng có ý nghĩa to lớn cả về mặt khoa học và thực tiễn, làm
cho hoạt động đấu tranh phịng chống tội phạm hình sự đạt hiệu quả cao, giúp
cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng làm rõ sự thật
khách quan của vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đáp ứng được yêu cầu
của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài "Q trình
chứng minh trong tố tụng hình sự” làm đề tài nghiên cứu luận án thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình chứng minh trong VAHS là một đề tài khó, phức tạp, còn tồn
tại nhiều cả về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu làm rõ, nhưng cho
đến nay số tài liệu nghiên cứu về vấn đề này cịn rất ít, hơn nữa các tác giả chỉ
nghiên cứu, đề cập ở một khía cạnh phạm vi q trình chứng minh, hay quá
trình chứng minh của một cơ quan tiến hành tố tụng cụ thể như:
* Luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ: “Quá trình chứng minh trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự” của thạc sĩ Nguyễn Thanh Hòe năm 1997; luận
án tiến sĩ luật học: “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ
án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tiến sĩ Nguyễn Văn Đương năm 2000.
* Sách giáo khoa, sách tham khảo, giáo trình, tạp chí: “Giáo trình luật
tố tụng hình sự Việt Nam” (chương VI, mục 6), PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ
biên Trường Đại học Huế năm 2002; “Tài liệu tập huấn chuyên sâu về Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003” của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật Bộ Công an, Hà Nội tháng 6-2004; “Một số vấn đề về
chứng minh trong tố tụng hình sự” của tác giả Trần Quang Tiệp, tạp chí
Kiểm sát số 9, 2003;...
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu và các bài viết trên chỉ thể hiện ở
một phần, ở một khía cạnh trong mỗi giai đoạn của quá trình giải quyết

3



VAHS mà chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đảm bảo được tính logic,
hệ thống, sâu sắc, tồn diện về quá trình chứng minh trong VAHS.
Từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các VAHS và nghiên cứu về mặt lý
luận, thực tiễn quá trình chứng minh, đặt ra u cầu địi hỏi phải nghiên cứu
một cách tồn diện và có hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình
chứng minh trong VAHS ở nước ta. Đây là vấn đề hết sức cần thiết, nhằm
không ngừng hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam, trên cơ sở đó tạo nền
tảng cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án khắc phục thiếu sót nhằm áp
dơng pháp luật chính xác, xử lý cơng minh đảm bảo công bằng, đáp ứng được
yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay
và tương lai.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của
quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự ở nước ta nhằm xác định sự thật
khách quan của vụ án. Muốn đạt được mục đích này điều quan trọng trước
tiên là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xác định được những vấn
đề cần chứng minh trong tố tụng hình sự. Các tình tiết của những vấn đề cần
phải chứng minh trong tố tụng hình sự là hết sức đa dạng và phong phú,
nhưng vấn đề chủ yếu cần xác định là các cơ quan tiến hành tố tụng bằng các
biện pháp khoa học mà luật TTHS qui định để xác định chân lý khách quan
của vụ án, muốn vậy phải chứng minh được đầy đủ các tình tiết có liên quan
đến vụ án. Vì vậy, luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ một cách tồn diện
và có hệ thống dưới góc độ lý luận và thực tiễn quá trình chứng minh trong tố
tụng hình sự ở nước ta có sự tham khảo luật TTHS của một số nước trên thế
giới nhằm làm rõ khái niệm, mục đích và ý nghĩa của q trình chứng minh
trong tớ tu ̣ng hình sự ; Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự; phương
tiện chứng minh và nội hàm của quá trình chứng minh; đánh giá được thực

4



trạng tình hình quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự; đưa ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến
chứng minh trong tố tụng hình sự.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về chứng minh vụ án hình sự, đánh giá thực trạng tình hình quá trình
chứng minh và các giải pháp nâng cao hiệu quả quá tình chứng minh trong tố
tụng hình sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học
luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội
học, điều tra… để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng
các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Có thể nói đây là một cơng trình nghiên cứu có nhiều tính mới trong
khoa học pháp lý nước ta nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ
thống về q trình chứng minh trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta. Kết
quả nghiên cứu của luận văn góp phần phát triển lý luận về quá trình chứng
minh trong VAHS.
Về mặt lý luận: Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về quá trình chứng
minh trong tố tụng hình sự như: Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của q trình
chứng minh trong tớ tu ̣ng hình sự; đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự;
phương tiện chứng minh; nội hàm của quá trình chứng minh.

5



Về mặt thực tiễn: đánh giá thực trạng quá trình chứng minh và các giải
pháp nâng cao hiệu quả việc chứng minh trong tố tụng hình sự như: tình hình
quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự; những kết quả đạt được trong quá
trình chứng minh; các giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình chứng minh
trong tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quá trình chứng minh trong TTHS
Chương 2. Qui định của pháp luật và thực tiễn hoạt động chứng minh
ở việt Nam những năm gần đây
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hoạt động
trong quá trình chứng minh

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUÁ TRÌNH
CHƢ́NG MINH TRONG TỚ TỤNG HÌNH SƢ̣
1.1. Khái niệm q trình chứng minh trong tố tụng hình sự
Xuất phát từ những quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến
kết tội, buộc tội một người phải có căn cứ. Điều 72 Hiến pháp 1992 quy định:
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
Tồ án đã có hiệu lực pháp luật. Thừa kế quy định của Hiến pháp 1992, Điều
31 Hiến pháp 2013 quy định: Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa
án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, một người bị buộc tội thì tội của họ
phải được chứng minh theo trình tự luật định.
Căn cứ Điều 2 Bộ luật hình sự quy định cơ sở trách nhiệm hình sự: Chỉ

người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự, Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Khi phát hiện có dấu
hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tồ án trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các
biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm
tội. Không được khởi tố vụ án ngồi những căn cứ và trình tự do Bộ luật này
quy định. Như vậy, để truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như để đưa ra xét
xử đối với một người thì cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp do Bộ
luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
Điều này làm xuất hiện quá trình chứng minh về tội phạm và người phạm tội
bằng những chứng cứ đã thu thập được trên cơ sở đã được kiểm tra, đánh giá
chứng cứ. Cho nên, quá trình chứng minh thực chất là quá trình thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo đối tượng chứng minh bằng việc so sánh,

7


đối chiếu những chứng cứ đã thu thập được với những vấn đề cần phải chứng
minh trong vụ án hình sự. Trên cơ sở đó, các cơ quan tiến hành tố tụng mới sử
dụng chứng cứ để khởi tố, để tiếp tục các bước điều tra, để truy tố và để xét
xử vụ án hình sự.
Quá trình chứng minh VAHS bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án
bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các cơ quan tiến hành tố tụng khác
nhau như: hoạt động điều tra, hoạt động truy tố và hoạt động xét xử. Mỗi hoạt
động đó đều hàm chứa các hành vi tố tụng khác nhau. Cụ thể: hoạt động điều
tra với tính chất là một giai đoạn tố tụng do Cơ quan điều tra tiến hành và bao
gồm các hành vi tố tụng đặc trưng như: khởi tố VAHS, khởi tố bị can, bắt tạm
giam bị can, khám xét, hỏi cung bị can, ghi lời khai người làm chứng, người
bị hại, tiến hành đối chất, nhận dạng v.v... nhằm làm rõ đối tượng chứng minh
trong giai đoạn điều tra. Hoạt động truy tố do Viện kiểm sát tiến hành thể hiện

quyền giám sát hoạt động của Cơ quan điều tra và thực hành quyền cơng tố tại
phiên tịa, đặc trưng bởi các hành vi tố tụng như: nghiên cứu hồ sơ, nghiên cứu
bản kết luận điều tra, kiểm sát việc giam giữ bị can, bị cáo, viết bản cáo trạng và
truy tố bị can trước Tòa án. Hoạt động xét xử do Tịa án tiến hành là hoạt động
mang tính quyết định cuối cùng nhằm xác định tội phạm, người phạm tội và
áp dụng các hình phạt tương ứng theo qui định của pháp luật. Hoạt động xét
xử bao gồm các hành vi tố tụng cụ thể như: xét hỏi bị cáo, hỏi người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người tham gia tố tụng khác, xem
xét vật chứng, tranh luận tại phiên tòa, nghị án, tuyên án… Tất cả các hành vi
tố tụng cụ thể đó nhằm đến một mục đích cuối cùng và cao nhất đó là chứng
minh sự thật khách quan của VAHS.
Do VAHS xảy ra trước các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố
tụng nên khi xuất hiện sự việc phạm tội có những dấu hiệu của tội phạm thì hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mới bắt đầu, hay

8


nói cách khác, q trình chứng minh tội phạm và người phạm tội được bắt đầu từ
khi phát hiện có sự việc phạm tội xảy ra. Trên cơ sở những qui định của pháp
luật TTHS Việt Nam và các văn bản pháp luật khác về điều tra, truy tố, xét
xử, quá trình chứng minh trong vụ án hình sự là quá trình mà các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện hoạt động nhận thức sự thật về
VAHS. Việc nhận thức về VAHS là việc phản ánh một cách khách quan toàn
bộ diễn biến của quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, hay nói cách khác
là tái dựng lại được một bức tranh tồn cảnh, chính xác về VAHS đã xảy ra. Để
đạt được điều này, các chủ thể tiến hành tố tụng phải thực hiện các biện pháp
do pháp luật TTHS quy định, làm sáng tỏ tất cả mọi vấn đề có trong VAHS.
Việc nghiên cứu các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến hành dựa trên cơ sở
"chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự do bộ luật này quy

định, mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ xác định
có hay khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án" [15, tr.10]. Chỉ có
dựa vào chứng cứ thì mới làm sáng tỏ được tội phạm, chỉ rõ được người thực
hiện hành vi phạm tội; chỉ có dựa vào chứng cứ thì người tiến hành tố tụng
mới có căn cứ để đưa ra kết luận của mình về tội phạm, về tính có lỗi của bị
can, bị cáo, tính phải chịu hình phạt của bị cáo và những vấn đề khác có liên
quan đến vụ án hình sự.
Khi tội phạm hình sự xảy ra với tính chất "là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt" [4, tr.25] thì việc áp
dụng các biện pháp để tìm ra người thực hiện tội phạm và buộc họ phải chịu
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước là điều cần thiết. Ở đây, Nhà
nước đã giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ thực hiện. u cầu
khơng để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội đều được Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án hết sức quan tâm chú ý. Trong khi đó tội phạm là

9


một hiện tượng xã hội phức tạp, hành vi phạm tội là một hành vi xảy ra trong
quá khứ. Tội phạm xuất phát từ rất nhiều động cơ khác nhau, có mục đích khác
nhau, thủ đoạn khác nhau và ngày càng tinh vi, ln tìm cách che giấu hành vi
phạm tội của mình để nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Các chủ thể
tiến hành tố tụng bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm là những người khơng chứng kiến tồn bộ diễn biến ngay từ đầu mọi
hành vi phạm tội, lượng thông tin ban đầu mà những chủ thể này có được khi
được giao giải quyết vụ án tương đối hạn chế. Muốn dựng lại bức tranh đầy đủ,
chính xác về tội phạm đã xảy ra để giải quyết VAHS thì các chủ thể tiến hành
tố tụng phải tiến hành chứng minh nhằm thu thập các thông tin, các sự kiện
tồn tại trong thế giới khách quan nhằm phản ánh chân lý khách quan của vụ án.

Chứng minh là nhận thức về VAHS được các chủ thể tiến hành tố tụng
thực hiện nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, tức là xác định sự phù
hợp đầy đủ, chính xác của sự kiện phạm tội và các tình tiết khác của vụ án để
làm rõ mức độ trách nhiệm của người đã thực hiện hành vi phạm tội, hoặc
khẳng định ngược lại là tội phạm không được thực hiện trong thực tế, người
bị truy cứu trách nhiệm hình sự khơng có lỗi. Việc nhận thức chân lý khách
quan của VAHS là một quá trình hết sức phức tạp được tạo bởi các hoạt động
thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ do các chủ thể tiến hành tố tụng
thực hiện phù hợp với các qui định của BLTTHS Việt Nam; quá trình này
được thừa nhận là một quá trình nhận thức. Vì vậy quá trình chứng minh tội
phạm cũng phải tuân thủ những qui luật chung của quá trình nhận thức hiện
thực khách quan mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã chỉ ra: "Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực
tại khách quan" [6, tr.39].
Như vậy, xuất phát từ sự thừa nhận khả năng nhận thức của con người,

10


phép biện chứng duy vật đòi hỏi việc nhận thức, việc nghiên cứu các sự vật
hiện tượng trong thế giới khách quan nói chung và các tình tiết của vụ án hình
sự nói riêng phải đảm bảo một cách tồn diện. Quá trình chứng minh VAHS
phải tuân theo những quy tắc logic nhất định như việc nhận thức mọi hiện
tượng của hiện thực. Trước tiên cần thu thập tài liệu thực tế nhất định, tiếp
đến tài liệu đó cần được phân tích, được phân ra từng phần, làm sáng tỏ từng
chi tiết cụ thể, từng mặt của các sự kiện cần được nghiên cứu xem xét; sau đó
đưa ra được những kết luận khái quát tổng hợp về các sự kiện đã được nghiên
cứu. Trên cơ sở các sự kiện đã được xem xét xây dựng nên những giả thiết
chứng minh, rồi sau đó được kiểm tra, đánh giá thận trọng, tỉ mỉ, nghiên cứu
một cách kỹ lưỡng, từ những thông tin, sự kiện riêng lẻ đến những sự kiện

chung nhất và cả bằng tư duy suy diễn, từ đó đi đến những kết luận cụ thể đối
với các sự kiện, tình tiết cụ thể. Chính từ q trình đó mà chất lượng, giá trị
chứng minh của các thông tin được khẳng định và bức tranh về sự kiện phạm
tội dần được tái hiện như nó vốn có, các cơ sở giải quyết vụ án được hình
thành, củng cố. Tổng hợp các hành vi đó tạo thành nội dung của quá trình
chứng minh VAHS.
Nhận thức về quá trình chứng minh trong VAHS là công việc tư duy
của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đối với tài liệu, chứng
cứ đã thu thập được, đồng thời chính là tổng thể các hoạt động được những
người này tiến hành hướng tới việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ.
Như vậy, quá trình chứng minh là quá trình nhận thức các sự kiện, các tình
tiết của vụ án hình sự. Quá trình nhận thức này phải đảm bảo sử dụng các
biện pháp khoa học vì từ đó sẽ rút ra những kết luận, quyết định có liên quan
tới những giá trị rất lớn như: quyền và lợi ích của Nhà nước, tự do, danh dự,
nhân phẩm của con người. Q trình chứng minh trong VAHS phải đảm bảo
tính khoa học chặt chẽ của phương pháp phán đoán, suy luận được ứng dụng

11


đặc biệt cần thiết và sâu sắc, đồng thời phải đảm bảo chặt chẽ hơn so với hoạt
động nghiên cứu, tư duy, suy luận trong công tác nghiên cứu khoa học.
Như vậy, Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là tồn bộ các
hành vi tố tụng hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
thực hiện theo trình tự được Bộ luật tố tụng hình sự quy định để làm rõ đối
tượng chính minh bằng các phương tiện chứng minh giúp cho việc giải quyết
vụ án hình sự.
1.2. Vị trí, ý nghĩa của quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự
Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự chiếm một vị trí rất quan
trọng trong việc chứng minh vụ án hình sự . Đây là quá triǹ h xây dựng hồ sơ

vụ án, tái diễn lại hành vi phạm tội của tội phạm đã thực hiện trước đó , nhằ m
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án . Để từ đó các cơ quan tiế n hành tố
tụng có một cách nhìn khách quan , tồn diện nhằm xử lý công minh, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội, qua đó áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội, bảo đảm tính cưỡng chế và thể hiện tính giáo dục của Nhà
nước. Trong đó, trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án là
phải áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật đã quy định để làm sáng tỏ các tình
tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, làm sáng tỏ các yếu tố buộc tội
cũng như gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đảm
bảo nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam. Muốn thực hiện được
điều đó thì Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm phải tiếp
cận với hiện thực khách quan của vụ án, để làm sáng tỏ chân lý của vụ án
trong quá trình chứng minh VAHS. Thực hiện được quy định đó cho phép Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giải quyết đúng đắn vụ án, và sẽ tác
động đến kẻ phạm tội và những người khác về sự công minh của pháp luật.
Mă ̣t khác , quá trình chứng minh mang mơ ̣t ý nghiã hế t sức to lớn trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự , góp phần vào việc đấu tranh phịng, chống

12


tội phạm, thực hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Và ý nghĩa
của quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là

để phát hiện tội phạm,

người phạm tội nhằm trừng trị, cải tạo giáo dục người phạm tội, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của các tổ chức và mọi công dân,
đảm bảo việc điều tra, truy tố , xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì
vậy, của các cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo công bằng xã hội, chống

oan, sai, chống để lọt tội phạm, cho nên pháp luật TTHS đã qui định chặt chẽ
các nguyên tắc, trình tự, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, mọi
hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều phải dựa
trên những quy định của pháp luật.
1.3. Các bƣớc trong quá trin
̀ h chƣ́ng minh
1.3.1. Phát hiện thu thập chứng cứ
Như chúng ta đều biết, quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là
quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Trong đó, phát
hiê ̣n thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và
khơng thể thiếu của q trình chứng minh trong tố tụng hình sự.
Phát hiện chứng cứ là tìm ra những sự vật, hiện tượng, dấu vết, tài liệu,
đang tồn tại trong thế giới vật chất, lưu giữ những thông tin về vụ án. Hay nói
một cách khác, phát hiện chứng cứ là tìm ra nguồn chứng cứ, do giữa các
chứng cứ và nguồn chứng cứ có nhiều đặc điểm khác nhau ở hình thức phản
ánh, khơng gian tồn tại, kích thước, trọng lượng, khối lượng, chất lượng... nên
các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải lựa chọn áp dụng biện pháp này hay
biện pháp khác sao cho phù hợp với pháp luật và đạt được hiệu quả cao. Các
chứng cứ tồn tại dưới hai hình thức phản ánh: trong môi trường vật chất và
trong ý thức của con người. Vì vậy, muốn phát hiện những nơi cụ thể có thể
lưu giữ các chứng cứ đó (hiện trường, vật chứng, con người cụ thể), cần sử
dụng các phương tiện, biện pháp và phương pháp cho phù hợp với quy luật
hình thành chứng cứ, loại chứng cứ cần phát hiện.

13


Nếu khơng có thu thập chứng cứ, thì cũng khơng có kiểm tra, đánh giá
và sử dụng chứng cứ. Điều đó lý giải tại sao vấn đề chứng cứ nói chung và
vấn đề thu thập chứng cứ nói riêng ln là một trong những mối quan tâm

hàng đầu của các nhà lập pháp mỗi nước khi xây dựng Bộ luật Tố tụng hình
sự (BLTTHS).
Phát hiện, thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn
chứng cứ theo đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện
chứng minh. Xét trên góc độ thơng tin, thì phát hiện, thu thập chứng cứ là q
trình thu thập thơng tin để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Phát hiện, thu
thập chứng cứ vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý
nên quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ vừa phải quán triệt những nguyên
tắc, quy luật của nhận thức, vừa phải bảo đảm tính pháp lý, hay nói cách khác
là phải khách quan và phải tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục của
BLTTHS. Trong đó quy định rõ những người có thẩm quyền thu thập chứng
cứ, thủ tục thu thập chứng cứ, cũng như quy định về quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự trong việc thu thập chứng cứ.
 Về thẩm quyền thu thập chứng cứ
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, thì những người sau đây có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (VKS) các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tịa
án các cấp. Theo BLTTHS năm 2003, thì đây là những người có thẩm quyền
ra lệnh áp dụng các biện pháp như: Ra lệnh khám xét, phê chuẩn lệnh khám
xét, ra quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi, triệu tập
người tham gia tố tụng để hỏi cung, lấy lời khai, đối chất,...
Người trực tiếp thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ là Điều tra

14


viên,Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa,
cán bộ giám định, người được mời tham gia khám nghiệm. Ngoài những

người trên, những người trong các cơ quan khác được giao tiến hành một số
hoạt động điều tra như những người trong cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ
đội Biên phịng, Cảnh sát giao thơng, Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy,…
cũng được quyền thực hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ. Người tiếp
nhận các đối tượng bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang truy
nã. Điều 82 BLTTHS quy định người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả
tang hoặc đang bị truy nã được giải đến Cơ quan Công an, VKS hoặc Ủy ban
nhân dân nơi gần nhất, các cơ quan này phải lập biên bản. Biên bản do những
cơ quan này lập mà có ghi nhận những thơng tin ban đầu về tội phạm, thì
chúng sẽ trở thành chứng cứ. Như vậy xét về góc độ chứng minh tội phạm, thì
những người được luật pháp giao trách nhiệm lập biên bản bắt nêu trên là các
chủ thể có quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ.
Cần phân biệt với chủ thể có trách nhiệm chứng minh và người có
quyền xuất trình chứng cứ, chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong tố tụng
hình sự có quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ. Nhưng người có
quyền và trách nhiệm thu thập chứng cứ có khi khơng phải là chủ thể chứng
minh trong tố tụng hình sự như những người được luật giao trách nhiệm lập
biên bản trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, bắt người truy nã.
Khác với hai loại chủ thể trên, những người tham gia tố tụng khác như người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan,… cũng được quyền cung cấp tài liệu, xuất trình
chứng cứ nhưng khơng có trách nhiệm phải chứng minh tội phạm, cũng
khơng có trách nhiệm thu thập chứng cứ.
Theo quy định tại Điều 58 BLTTHS thì người bào chữa có quyền thu
thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ,

15


bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức,

cá nhân theo yêu cầu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu khơng thuộc bí mật
nhà nước, bí mật cơng tác; Đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu; Tham gia hỏi tại
phiên tòa. Điều 59 BLTTHS quy định người bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của
đương sự cũng có quyền đưa ra đồ vật tài liệu, yêu cầu, tham gia hỏi tại phiên
tòa, đây cũng được coi là các biện pháp cung cấp, xuất trình chứng cứ.
 Trình tự, thủ tục và các biện pháp thu thập chứng cứ
Mỗi một biện pháp thu thập chứng cứ có những điểm đặc thù riêng nên
trình tự, thủ tục khơng giống nhau. Tuy nhiên thủ tục của tất cả các biện pháp
thu thập chứng cứ đều có những nội dung, trình tự đó là: thủ tục ra văn bản áp
dụng; thủ tục tiến hành thu thập chứng cứ; thủ tục lập biên bản.
Về thủ tục phải tuân theo khi tiến hành áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ đã được luật quy định cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng biện
pháp. Từ những quy định của BLTTHS có thể rút ra các thủ tục chủ yếu được
áp dụng hầu hết trong các biện pháp là:
+ Thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ cho đối tượng bị áp dụng: Thủ
tục này được áp dụng trong các biện pháp hỏi cung; lấy lời khai của người bị
bắt, người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại; khi tiến hành đối chất,
nhận dạng, khám người, khám nơi làm việc, khám chỗ ở, địa điểm.
+ Thủ tục chứng kiến: Theo quy định của BLTTHS năm 2003 trong
một số hoạt động tố tụng hình sự phải có sự chứng kiến của người láng giềng,
của đại diện chính quyền cấp cơ sở, đại diện cơ quan, tổ chức. Thủ tục này
nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tiến hành đúng luật, khách
quan, vô tư; bảo đảm giá trị chứng minh của các tài liệu chứng cứ thu thập
được. Thành phần người chứng kiến trong các hoạt động tố tụng được quy
định không giống nhau cụ thể:
Biện pháp khám người, khám xét dấu vết trên thân thể bị can, bị hại, nhân

16



chứng khám nghiệm hiện trường, khám nghiện tử thi, thực nghiệm điều tra, nhận
dạng thì người chứng kiến là bất kỳ ai và chỉ cần một người (riêng biện pháp
khám người, khám xét dấu vết trên thân thể, thì phải là người cùng giới).
Biện pháp khám chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm địi hỏi phải có người
láng giềng, đại diện chính quyền địa phương (nơi làm việc thì đại diện cơ
quan, tổ chức nơi người đó làm việc) chứng kiến. Trường hợp vắng chủ nhà
thì phải có hai người chứng kiến.
Biện pháp thu giữ thư tín, điện tín bưu phẩm tại bưu điện thì phải có sự
chứng kiến của đại diện cơ quan bưu điện.
+ Thủ tục thông báo cho VKS: được áp dụng trong trường hợp khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, theo quy định tại Điều 150, 151
BLTTHS thì trước khi tiến hành phải thơng báo cho VKS cùng cấp để VKS cử
KSV tham gia kiểm sát các hoạt động này, trong mọi trường hợp đều phải có
KSV tham gia. Điều 144 BLTTHS quy định trường hợp thu giữ thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện phải có sự phê chuẩn trước của VKS cùng
cấp trước khi thi hành, trong trường hợp khẩn cấp thì khơng cần phê chuẩn của
VKS, nhưng sau khi thu giữ phải thông báo ngay cho VKS cùng cấp.
+ Thủ tục lập biên bản: Điều 95 BLTTHS quy định khi tiến hành các
hoạt động tố tụng, bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất.
Trong trường hợp tạm giữ đồ vật, tài liệu thì ngồi biên bản khám xét phải lập
biên bản về việc tạm giữ đồ vật, tài liệu. Biên bản này được lập 4 bản một bản
được giao cho chủ đồ vật, tài liệu; một bản đưa vào hồ sơ vụ án; một bản
được gửi cho VKS cùng cấp và một bản giao cho cơ quan quản lý đồ vật, tài
liệu bị tạm giữ.
+ Thủ tục ra văn bản áp dụng: Đối với một số biện pháp thu thập chứng
cứ luật đòi hỏi thủ tục ra văn bản áp dụng đối với một số trường hợp như biện
pháp khám xét: Khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm (Điều 141, Điều

17



142 và Điều 143 BLTTHS), thì khi khám xét phải có lệnh của người có thẩm
quyền, khám xét trong thủ tục bình thường thì phải có sự phê chuẩn của VKS
cùng cấp trước khi thi hành, trong trường hợp khẩn cấp thì khơng cần sự phê
chuẩn của VKS, nhưng trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xong, người ra
lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp. Đối với
trường hợp trưng cầu giám định và trường hợp cần phải khai quật tử thi để
khám nghiệm, thì cũng phải ra quyết định bằng văn bản trước khi thi hành.
Các trường hợp khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi chưa chôn cất,
xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra pháp luật thực định khơng
quy định phải có quyết định.
Ngồi các thủ tục trên cịn phải tn thủ những thủ tục khác như:
Khơng được hỏi cung vào ban đêm (trừ khi không thể trì hỗn); thủ tục tách
riêng từng người hỏi cung, lấy lời khai, thủ tục tham dự của người đại diện
trong trường hợp người làm chứng dưới 16 tuổi; Thủ tục tham gia tố tụng của
người giám hộ trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên…
 Củng cố chứng cứ:
Để thu thập chứng cứ một cách hiệu quả, thì trong khi thu thập chứng
cứ phải đồng thời củng cố chứng cứ. Củng cố chứng cứ là những phương
pháp, cách thức làm cho chứng cứ, tài liệu thu thập được bảo đảm giá trị
chứng minh. Nói cách khác, củng cố chứng cứ là làm cho chứng cứ, tài liệu
bảo đảm ba thuộc tính đó là tính hợp pháp, tính xác thực và tính liên quan đến
vụ án. Cách thức, phương pháp thu thập và trình tự thu thập chứng cứ có ảnh
hưởng trực tiếp tới độ tin cậy và giá trị chứng minh của chứng cứ. Thực tiễn
hoạt động thu thập chứng cứ cho thấy có ba trường hợp cần đặc biệt chú ý là
khi thu giữ vật chứng, dấu vết và khi ghi lại một sự việc.
- Thứ nhất: Đối với dấu vết, khi thu thập phải ghi rõ trong biên bản các
nội dung: Dấu vết thu thập là dấu vết gì, vị trí của dấu vết, đặc điểm về màu

18



sắc, chiều hướng, độ cũ, mới của dấu vết. Phải trả lời được những câu hỏi như
dấu vết gì? Đặc điểm ra sao? Chiều hướng thế nào? Vị trí ở đâu?
+ Về tên của dấu vết cần ghi rõ đó là dấu vết gì: Vân tay, vết máu, vết
cày, vết cạy phá, dấu chân, dấu tay,… Trường hợp khó đặt tên ngắn gọn thì
mơ tả cụ thể nhưng phải phản ánh được nội dung chủ yếu, cơ bản.
+ Về đặc điểm của dấu vết. Cần mô tả các nội dung hình dáng, kích
thước, màu sắc và các đặc điểm khác của dấu vết. Ví dụ trong vụ án tai nạn
giao thông, khi Điều tra viên khám nghiệm ghi biên bản phải mô tả đầy đủ
các dấu vết trên xe, trên mặt đường, chiều hướng của từng dấu vết, từ trái qua
phải hay từ phải qua trái; kích thước của dấu vết, độ dài của dấu vết và vị trí
từng dấu vết; để sau này phục vụ tốt cho công tác giám định làm rõ nguyên
nhân tai nạn,…
+ Về vị trí của dấu vết, khi mô tả phải xác định các điểm chuẩn xung
quanh và trên cơ sở đó mơ tả khoảng cách của dấu vết so với các điểm chuẩn
theo các hướng và so với các dấu vết khác để từ đó có thể xác định mối liên
hệ giữa các dấu vết.
- Thứ hai: Đối với vật chứng
Khi thu thập phải ghi cụ thể trong biên bản các nội dung sau:
+ Vật gì, tên của vật được gọi là gì. Ví dụ con dao, khẩu súng, hay cơng
cụ phương tiện khác, nếu là mơ tơ xe máy, thì phải ghi rõ biển số, số khung,
số máy,… Trường hợp vật chứng khơng phải là vật thơng dụng, khó đặt tên,
thì có thể đặt tên dạng mơ tả hình dạng, kích thước, màu sắc,...
+ Đặc điểm của vật, tùy từng loại vật mà có cách mơ tả cụ thể, nhưng
nhìn chung phải thể hiện được các nội dung: Số lượng, chất lượng, trọng
lượng, khối lượng, hình dạng kích thước, màu sắc, mùi vị, tính nguyên vẹn và
trạng thái mới, cũ của vật. (ví dụ thu giữ ba con dao tại hiện trường, kích
thước về độ dài, độ rộng, phần cán, phần lưỡi của từng con dao, dấu vết để lại
trên từng con dao.)


19


+ Những dấu vết của tội phạm để lại trên vật chứng.
Trường hợp trên vật chứng có dấu vết thì phải mô tả dấu vết theo nội
dung củng cố dấu vết đã nêu trên. Phải mô tả từng dấu vết, kích thước của dấu
vết, màu sắc của dấu vết, chiều hướng của dấu vết,…..
+ Nơi tìm thấy vật: Nơi tìm thấy vật và cách thức giấu vật liên quan
chặt chẽ tới giá trị chứng minh của chứng cứ, giá trị pháp lý của chứng cứ,
làm nảy sinh căn cứ pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng khác. Ví dụ:
thu giữ dấu vết vật chứng trên người hoặc nơi ở của đối tượng, thì có thể tiến
hành bắt khẩn cấp đối tượng được (Điểm c Khoản 1 Điều 81 BLTTHS), cịn
thu giữ ở nơi khác, thì căn cứ vào việc thu giữ vật chứng không bắt khẩn cấp
đối tượng được.
- Thứ ba: Đối với sự việc, khi cần ghi lại trong biên bản một sự việc cụ
thể nào đó, cần phải ghi đầy đủ các nội dung sau:
+ Tên sự việc là gì, vụ chết người, tai nạn giao thông hay vụ cháy, nổ.
Việc đặt tên cần phải ngắn gọn, khái quát và phản ánh được nội dung chủ yếu,
cơ bản của việc đó.
+ Thời gian xảy ra: Thời gian xảy ra ở đây là thời điểm bắt đầu xảy ra
sự việc. Việc ghi nhận thời gian càng chính xác càng tốt. Nếu khơng biết
chính xác, thì cách ghi không được viết theo kiểu khẳng định.
+ Địa điểm xảy ra sự việc: Việc ghi địa điểm xảy ra vụ việc phải cụ thể,
vì nếu khơng ghi sẽ khơng xác định được thẩm quyền giải quyết vụ việc theo
lãnh thổ, bên cạnh đó việc ghi rõ địa điểm sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu dễ
hình dung quá trình diễn biến của sự việc.
+ Diễn biến của sự việc: Cần phải mô tả đầy đủ và khái quát quá trình
diễn biến của sự việc. Đây là vấn đề rất quan trọng nhưng khơng dễ thực hiện,
địi hỏi người thu thập chứng cứ phải có đầu óc phân tích, tổng hợp đến ghi

diễn biến vụ việc theo thời gian, hay diễn biến vụ việc theo sự kiện, hoặc diễn
biến vụ việc theo chủ thể thực hiện,…

20


×