Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân hàng thương mại cổ phần ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------o0o------

NGUYỄN HỒNG NGỌ

QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA THÀNH VIÊN
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------o0o------

NGUYỄN HỒNG NGỌ

QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA THÀNH VIÊN
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành
Mã số

: Luật Kinh tế
: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Ngô Huy Cương. Các kết quả trong Luận văn
chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn
thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời cam đoan

Nguyễn Hồng Ngọ

1


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 3

Chƣơng 1. LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ
PHẦN ............................................................................................................ 9
1.1.

Tổng quát về quản trị ngân hàng thương mại cổ phần ......................... 9

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm ngân hàng thương mại cổ phần ........................... 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của quản trị ngân hàng thương mại cổ phần ... 12
1.2.

Thành viên hội đồng quản trị độc lập và vai trò của thành viên hội đồng
quản trị độc lập trong ngân hàng thương mại cổ phần ......................... 18

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thành viên hội đồng quản trị độc lập................ 18
1.2.2. Vai trò của thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân hàng
thương mại cổ phần ................................................................................. 22
1.3.

Khái niệm quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập
trong ngân hàng thương mại cổ phần ...................................................... 28

Chƣơng 2. QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ
PHẦN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM ............................... 28
2.1.

Khái quát chung về cơ sở pháp lý và sự xuất hiện của thành viên độc
lập trong ngân hàng thương mại cổ phần .......................................... 28


2.1.1. Cơ sở pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân
hàng thương mại cổ phần ....................................................................... 28
2.1.2. Sự xuất hiện của thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân
hàng thương mại cổ phần ....................................................................... 31


2.2.

Điều kiện của thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân hàng
thương mại cổ phần ........................................................................... 34

2.2.1. Tiêu chuẩn, điều kiện đối với thành viên hội đồng quản trị độc lập . 34
2.2.2. Bầu thành viên hội đồng quản trị độc lập ............................................. 43
2.2.3. Số lượng thành viên hội đồng quản trị độc lập .................................... 47
2.2.4. Nhiệm kỳ của thành viên hội đồng quản trị độc lập ........................... 49
2.3.

Quyền và nghĩa vụ của thành viên hội đồng quản trị độc lập ........... 52

2.4.

Thù lao của thành viên hội đồng quản trị độc lập ............................. 60

2.5.

Chấm dứt tư cách thành viên hội đồng quản trị độc lập ................... 64

2.6.

Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn triển quản trị ngân hàng thương mại

cổ phần .............................................................................................. 67

Chƣơng 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP TRONG NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG Ở VIỆT NAM ................................................................................ 72
3.1.

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện quy chế pháp lý của
thành viên hội đồng quản trị độc lập trong ngân hàng thương mại cổ
phần ở Việt Nam ............................................................................... 72

3.2.

Giải pháp hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản
trị độc lập trong ngân hàng thương mại cổ phần và nâng cao hiệu quả
áp dụng ở Việt Nam .......................................................................... 75

3.2.1. Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về tổ chức và
hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần .................................. 75
3.2.2. Điều chỉnh, bổ sung những quy định pháp luật đặc thù về thành viên
hội đồng quản trị độc lập trong ngân hàng thương mại cổ phần ...... 77
3.2.3. Các giải pháp bổ trợ .......................................................................... 87
KẾT LUẬN ................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 95


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT


Ký hiệu viết tắt

Từ viết tắt

1.

BKS

Ban kiểm sốt

2.

CTCP

Cơng ty cổ phần

3.

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đơng

4.

HĐQT

Hội đồng quản trị

5.


LDN

Luật Doanh nghiệp

6.

NHNN

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

7.

NHTM

Ngân hàng thương mại

8.

NHTMCP

Ngân hàng thương mại cổ phần

9.

QTCT

Quản trị công ty

10.


TCTD

Tổ chức tín dụng

11.

TGĐ/GĐ

Tổng Giám đốc/Giám đốc

1


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang

1.

Bảng 1: Thống kê sự hiện diện lần đầu tiên của thành viên
HĐQT độc lập trong các NHTMCP đã niêm yết

31-32

2.

Bảng 2: Thống kê sự hiện diện lần đầu tiên của thành viên

HĐQT độc lập trong các NHTMCP chưa niêm yết

32-33

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đối với những quốc gia đang xây dựng nền kinh tế thị trường như ở Việt
Nam hiện nay, việc cải thiện và tăng cường chất lượng quản trị công ty (QTCT)
đóng vai trị rất quan trọng. QTCT tốt sẽ giảm thiểu khả năng tổn thương đối với
nền kinh tế trước các cuộc khủng hoảng tài chính, củng cố quyền sở hữu, giảm
chi phí giao dịch và chi phí vốn, dẫn đến việc phát triển thị trường vốn, thị
trường chứng khoán [15, tr1]. Nâng cao hiệu quả QTCT đồng nghĩa với việc góp
phần vào sự phát triển ổn định, bền vững do cải thiện được hoạt động và nâng
cao khả năng tiếp cận được các nguồn vốn từ bên ngoài của các công ty. Ngược
lại, một khuôn khổ QTCT yếu kém sẽ làm giảm độ tin tưởng của các nhà đầu tư,
khơng đón nhận được nguồn vốn đầu tư từ bên ngồi, giảm giá trị kinh tế của
cơng ty và có thể dẫn tới các nguy cơ bị phá sản hoặc thơn tính, sáp nhập cơng ty,
điều này sẽ làm tăng rủi ro đối với nền kinh tế quốc dân.
Các NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng với đặc thù là các tổ chức
kinh doanh “tiền”, có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn thì vấn đề quản trị
lại càng có ý nghĩa hơn, đặc biệt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam,
khi ngân hàng là đóng vai trị là kênh cấp vốn bên ngồi chủ yếu, cực kỳ quan
trọng đối với các doanh nghiệp. Một ngân hàng yếu kém trong quản trị sẽ không
chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà cịn tạo nên những rủi ro nhất định
mang tính dây chuyền trong hệ thống và ngược lại, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ
nền kinh tế. Rõ ràng, khả năng chống đỡ của ngân hàng càng cao, khả năng hỗ
trợ cho khu vực doanh nghiệp sẽ càng lớn.

Thời gian qua, QTCT trong các NHTMCP ở Việt Nam đang bộc lộ nhiều
hạn chế, yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là: nhiều ngân hàng yếu kém phải tổ chức
lại (hợp nhất, sáp nhập); tỷ lệ nợ xấu duy trì ở mức cao, nợ có khả năng mất vốn
chiếm tỷ trọng lớn; lãnh đạo của một số ngân hàng bị khởi tố, xét xử trong các vụ
án hình sự liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật khi tham gia quản trị,

3


điều hành ngân hàng. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng
này là do sự yếu kém trong quản trị, điều hành ngân hàng.
Các thông lệ quốc tế tốt về QTCT và các chuyên gia tài chính quốc tế đều
nhấn mạnh đến vai trò của thành viên HĐQT độc lập như là một giải pháp quan
trọng để cải thiện, nâng cao chất lượng QTCT trong các NHTMCP nói riêng và
các CTCP nói chung. Thành viên HĐQT độc lập cũng được cho là chìa khóa giải
quyết xung đột lợi ích giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ. Bởi thành viên HĐQT
độc lập tạo được đối trọng với các cổ đơng lớn ở HĐQT, bảo vệ lợi ích chung
cũng như lợi ích của cổ đơng thiểu số; họ mang đến góc nhìn từ bên ngồi về
chiến lược kiểm sốt, làm giảm nguy cơ lạm dụng quyền hạn của những người
quản lý, điều hành cơng ty. Do đó, luật về QTCT của các quốc gia cũng như
những quy định của các thị trường niêm yết thường yêu cầu trong cơ cấu HĐQT
cơng ty phải có sự tham gia của các thành viên HĐQT độc lập.
Ở Việt Nam, Luật các TCTD năm 2010 và các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành có liên quan đã quy định về sự tham gia của thành viên HĐQT độc
lập trong cơ cấu HĐQT của các NHTMCP. Tuy nhiên, các quy định pháp luật
trong các văn bản này về thành viên HĐQT độc lập cịn tương đối đơn giản, sơ
sài và khơng bao qt được hết các nội dung để thiết lập nên một quy chế pháp lý
đầy đủ đối với chủ thể này. Bên cạnh đó, sự khác biệt của thành viên độc lập so
với các thành viên HĐQT khác cũng không được thể hiện nhiều thông qua các
quy định pháp luật hiện nay.

Tại các NHTMCP, các văn bản quy định, quy chế quản trị nội bộ cũng
như thực tiễn triển khai hoạt động chưa cho thấy được vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của thành viên HĐQT độc lập. Thông qua các thông tin, báo cáo được các
NHTMCP cơng bố rất khó có thể đánh giá được hiệu quả hoạt động của thành
viên HĐQT độc lập đối với chất lượng, hiệu quả quản trị của các NHTMCP.
Thực trạng trên chủ yếu xuất phát từ nhận thức chưa đúng đắn, chưa đầy
đủ về vai trò của thành viên HĐQT độc lập trong các NHTMCP, dẫn đến sự quan
tâm chưa đúng mức, đặc biệt là trong việc thiết lập quy chế pháp lý của thành

4


viên này. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến vai trò mờ nhạt của các thành
viên HĐQT độc lập trong thực tiễn hoạt động của NHTMCP hiện nay.
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các NHTMCP nói riêng, đang
“vươn mình” ra sân chơi quốc tế – nơi mà những yêu cầu về QTCT dường như là
một u cầu bắt buộc. Chính vì vậy, việc hồn thiện khung pháp lý về QTCT nói
chung và hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong
NHTMCP nói riêng là yêu cầu cấp thiết hiện nay ở Việt Nam.
Vì vậy, tơi lựa chọn đề tài “Quy chế pháp lý của thành viên HĐQT trong
NHTMCP ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, vấn đề quản trị công ty đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Các hướng nghiên cứu chủ yếu tập trung vào quản trị công
ty cổ phần, như các cơng trình sau: “So sánh pháp luật về quản trị doanh nghiệp
của một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm và kiến nghị giải pháp hoàn
thiện pháp luật công ty ở Việt Nam” – Đề tài đặc biệt cấp Quốc gia do PGS.TS
Phạm Duy Nghĩa (chủ biên), năm 2004, Mã số: QG.04.23; “Quản trị công ty:
Nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp cận nguồn vốn thị trường toàn cầu” – sách

do CIEM dịch với sự tài trợ của GTZ; cuốn “Cẩm nang quản trị công ty” được
phối hợp xuất bản năm 2010 bởi Tổ chức Tài chính Quốc tế và Ủy ban Chứng
khốn Nhà nước là một hoạt động của Dự án Quản trị công ty tại Việt Nam do
IFC triển khai từ năm 2008… Bên cạnh đó là các cơng trình nghiên cứu có đề
cập đến quản trị công ty như: “Nghiên cứu so sánh quản lý CTCP theo pháp luật
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, Luận
văn tiến sĩ luật học của Ngô Viễn Phú, năm 2004; “Tổ chức quản lý nội bộ CTCP
– Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sĩ luật học của Cao Thị Kim
Trinh, năm 2004; “Bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong CTCP theo pháp luật Việt
Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sĩ luật học của Bùi
Minh Nguyệt, năm 2010.

5


QTCT trong các NHTMCP là vấn đề tương đối mới mẻ, thực tế những
cơng trình nghiên cứu, những bài viết về vấn đề này cịn rất ít. Ngồi một số bài
báo đề cập hoặc nghiên cứu các khía cạnh của vấn đề quản trị, điều hành trong
NHTMCP và các công trình nghiên cứu về quản trị trong CTCP như kể trên, thì
các cơng trình nghiên cứu đầy đủ về vấn đề quản trị cho NHTMCP vẫn chưa
nhiều. Năm 2009 có cơng trình: “Pháp luật về quản trị NHTMCP ở Việt Nam” Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Phong Thủy. Gần đây nhất, năm 2015,
có cơng trình “Pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam” – Luận
văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Lan Anh.
Hiện nay, chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về thành viên HĐQT
độc lập trong NHTMCP ở Việt Nam. Đây là một vấn đề còn tương đối mới mẻ,
những nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này chủ yếu là những bài báo, bình
luận ngắn về thành viên HĐQT độc lập trong các CTCP, như: “Thành viên Hội
đồng quản trị độc lập – Quy định và thực tiễn” của tác giả Lê Hồng Tùng trên
Tạp chí Quản lý số 68, tháng 02 năm 2009; “Thành viên độc lập – Anh là ai?”
của tác giả Đặng Thị Hải Lý trên Thời báo kinh tế Sài gòn số 20, ra ngày 13

tháng 05 năm 2010; “Để hiểu thêm về thành viên độc lập” của tác giả Nguyễn
Hữu Long trên Thời báo kinh tế Sài gòn, số ra ngày 24 tháng 05 năm 2010.
Trước yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý về quản trị công ty trong các
NHTMCP ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống
về quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP sẽ mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại
những giải pháp thiết thực cho việc hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên
HĐQT trong NHTMCP, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của thành
viên HĐQT độc lập cũng như hiệu quả hoạt động quản trị NHTMCP ở Việt Nam
hiện nay. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là
một tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát

6


Luận văn sẽ tập trung là rõ một số vấn đề lý luận về quản trị NHTMCP và
thành viên HĐQT độc lập; phân tích các quy định pháp luật hiện hành và thực
tiễn áp dụng quy định về thành viên HĐQT độc lập trong các NHTMCP. Qua đó,
đưa ra những đánh giá và đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy chế pháp lý
của thành viên HĐQT độc lập và nâng cao hiệu quả áp dụng trong các NHTMCP
ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ khái niệm quản trị NHTMCP, thành viên HĐQT độc lập và vai
trò của thành viên HĐQT độc lập trong các NHTMCP;
- Đưa ra và phân tích các quy định pháp luật hiện hành về thành viên
HĐQT độc lập và thực tiễn triển khai tại các NHTMCP.
- Đánh giá quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong
NHTMCP ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện

khung pháp lý và nâng cao hiệu quả áp dụng thực tiễn.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đây là cơng trình khoa học nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về
quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong quản trị NHTMCP, bắt đầu
từ cơ sở pháp lý xuất hiện thành viên HĐQT độc lập cho đến quá trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ, nhiệm kỳ hoạt động, chi trả thù lao và việc chấm dứt tư cách
của thành viên này.
- Thông qua luận văn, tác giả đưa ra những nhận định, đánh giá về quy
chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP ở Việt Nam hiện nay
và trên cơ sở tham chiếu các thông lệ quốc tế tốt về QTCT, tác giả đưa ra những
giải pháp để trước hết là hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên này và sau đó
là nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn hoạt động của các NHTMCP.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật hiện hành
về thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP; các quy định nội bộ của các

7


NHTMCP về thành viên HĐQT độc lập và thực tiễn áp dụng.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: tác giả tập trung phân tích các quy
định pháp luật hiện hành và các quy định, quy chế quản trị nội bộ của các
NHTMCP (31 NHTMCP), bao gồm: Điều lệ, Quy chế quản trị nội bộ, Báo cáo
thường niên, Báo cáo tình hình quản trị, Nghị quyết cuộc họp ĐHĐCĐ... có liên
quan đến thành viên HĐQT độc lập và thực tiễn triển khai tại một số ngân hàng
điển hình (VietcomBank, VietinBank, MBBank, SacomBank) trong hệ thống.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này một cách có hệ thống và hiệu quả, tác giả đã sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích luật, so sánh, tổng
hợp, thống kê, khảo sát, diễn giải, suy luận logic để làm rõ các quy định của pháp

luật Việt Nam về thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP và thực trạng áp
dụng pháp luật trong các NHTMCP. Đặc biệt là so sánh các quy định pháp luật
hiện hành với các thông lệ tốt về QTCT, các quy định pháp luật của một số quốc
gia có liên quan về thành viên HĐQT độc lập trong cơ cấu quản trị nội bộ.
7. Bố cục dự kiến Luận văn:
Ngoài Phần Mở đầu, Danh mục các từ viết tắt, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo, Bố cục của luận văn được tổ chức gồm 03 chương như sau:
Chương 1. Lý luận tổng quát về thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP
Chương 2. Quy chế pháp lý của thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP
và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam.
Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện quy chế pháp lý của thành viên HĐQT
độc lập trong NHTMCP và nâng cao hiệu quả áp dụng ở Việt Nam.

8


Chƣơng 1
LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ
THÀNH VIÊN HĐQT ĐỘC LẬP TRONG NHTMCP
1.1. Tổng quát về quản trị NHTMCP
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm NHTMCP
1.1.1.1. Khái niệm NHTMCP
Khác với NHNN, là một chủ thể kinh doanh trong đời sống kinh tế, trước
tiên NHTM là một loại hình doanh nghiệp. Cũng như những doanh nghiệp khác,
NHTM sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất ra sản phẩm dưới hình thức là
cung cấp dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, khơng giống những doanh nghiệp khác,
NHTM là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, trong đó vốn và tiền vừa là phương
tiện, mục đích và cũng là đối tượng kinh doanh của NHTM. Vốn tự có của ngân
hàng thường thấp và ngân hàng kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác,
nên kinh doanh ngân hàng thường gắn với rủi ro và ngân hàng phải chấp nhận

mức độ mạo hiểm nhất định. Các ngân hàng khơng những phải đảm bảo nhu cầu
thanh tốn, chi trả như những doanh nghiệp khác, mà còn phải đảm bảo nhu cầu
chi trả tiền gửi của khách hàng. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng chứa đựng
nhiều rủi ro, tình hình tài chính và rủi ro của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế cũng như tâm lý người dân do
bản chất lây lan rủi ro ngân hàng có thể làm rung chuyển toàn hệ thống kinh tế.
Như vậy, có thể hiểu NHTM là tổ chức hoạt động kinh doanh cung cấp
các dịch vụ ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận. Trên thế giới, có nhiều cách định
nghĩa khác nhau về NHTM. Ở Mỹ, NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên
cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành cơng nghiệp dịch vụ tài
chính. Đạo luật Ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: “NHTM là những xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của cơng chúng
dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài ngun đó
cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính” [45]. Ở Ấn
Độ, NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư. Còn ở

9


Thổ Nhĩ Kỳ, NHTM là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận
tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đối, nghiệp vụ cơng hối phiếu, chiết
khấu và những hình thức vay mượn khác… [29, tr.13-14]. Như vậy, dù khác
nhau song các định nghĩa trên đây đều tiếp cận khái niệm NHTM thông qua hoạt
động nghiệp vụ của nó.
Ở Việt Nam, khoản 2 Điều 4 của Luật các TCTD năm 2010 quy định:
“Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng theo quy định của Luật các TCTD”. Theo đó, NHTM là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Như vậy, cơ sở phân biệt
NHTM với các hình thức ngân hàng khác là ở mục tiêu lợi nhuận.

Khi NHTM được tổ chức dưới hình thức CTCP thì có tên gọi cụ thể là
NHTMCP. Ở Việt Nam hiện nay, trong 07 NHTM nhà nước thì có 03 ngân hàng
đã cổ phần hóa (VietcomBank, VietinBank và BIDV); các NHTM tư nhân đều
được tổ chức dưới hình thức CTCP [37, số liệu tính đến 31/12/2015].
Từ những nhận thức trên, có thể hiểu NHTMCP là loại hình TCTD được
tổ chức dưới hình thức CTCP; được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ định nghĩa như vậy thì vấn đề quản trị NHTMCP chịu sự
điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật khác nhau, trong đó cơ bản là các quy
định pháp luật áp dụng đối với các TCTD (Luật các TCTD năm 2010 và văn bản
có liên quan) và các quy định áp dụng đối với CTCP (LDN).
1.1.1.2. Đặc điểm NHTMCP
Thứ nhất, bản thân NHTMCP là doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của
ngân hàng cũng có những đặc thù so với các doanh nghiệp khác. Đó là sự đa
dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý. Thành phần tham gia quản trị,
điều hành hoạt động của loại hình doanh nghiệp này hết sức đa dạng, phức tạp và
chủ yếu phân chia lợi ích (cổ tức) theo tỷ lệ góp vốn (cổ phần). Các cá nhân, tổ
chức góp vốn sẽ đều có những quyền hạn nhất định trong việc tham gia quản trị,

10


điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, việc điều chỉnh hài hịa mối quan
hệ lợi ích giữa các chủ thể là quan trọng nhưng hết sức phức tạp. Nếu khơng có
những quy định hợp lý, sẽ rất dễ dẫn tới tình trạng phi tổ chức, thiếu thống nhất,
hoặc xuất hiện lợi ích nhóm.
Thứ hai, NHTMCP là loại hình TCTD kinh doanh nhằm mục đích lợi
nhuận, song vốn tự có thường khơng ổn định. Hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa
trên vốn huy động từ xã hội, nhưng nguồn huy động này lại chịu tác động từ
nhiều yếu tố biến động như ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế… hoặc đôi khi

chỉ là hoạt động của một ngành, một lĩnh vực lớn như bất động sản, chứng
khốn… Chính vì vậy, hoạt động của NHTMCP thường chứa đựng tính rủi ro
cao. Do nhiều khoản nợ ngắn hạn nên rủi ro trong hoạt động thường cao và dễ
dẫn đến phá sản. Điều này đặt ra những yêu cầu nhất định của việc quản trị, điều
hành nhằm đưa hoạt động của NHTMCP đi vào ổn định và phát triển. Do đó, đưa
ra những quy định pháp luật về NHTMCP hợp lý là cực kỳ quan trọng, tạo hành
lang pháp lý thống nhất để các chủ thể tham gia hoạt động này thực hiện.
Thứ ba, NHTMCP là loại hình doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng
trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội, các hoạt động của
loại hình doanh nghiệp này có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất
nước, nếu đổ vỡ sẽ có thể gây tổn thất lớn và trên phạm vi rộng. Tại cùng một
thời điểm, các ngân hàng chịu rủi ro hơn về quản trị so với doanh nghiệp thơng
thường vì tính khơng rõ ràng hay cụ thể hơn là phạm vi cát cứ, chuyển rủi ro, lợi
ích của cá nhân và sự chiếm dụng công khai (hoạt động ngầm, hoạt động cho vay
nội gián, chiếm đoạt…) lớn hơn so với các doanh nghiệp phi tài chính. Việc quản
trị thiếu nghiêm túc, sự lạm dụng quyền lực trong nội bộ một số NHTMCP là
nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, đe dọa hoạt động và sự ổn định của cả hệ
thống TCTD. Sự khủng hoảng của hệ thống các TCTD trong thời gian qua và
mối liên quan trực tiếp từ sự khủng hoảng của kinh doanh bất động sản là một
minh chứng hết sức rõ nét cho tầm ảnh hưởng của hệ thống các TCTD nói chung
và NHTMCP nói riêng tới toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Do đó, việc đặt ra

11


những quy định pháp lý chặt chẽ điều chỉnh hoạt động của các NHTMCP trong
đó đặc biệt là hoạt động quản trị, điều hành là vô cùng quan trọng. Đây cũng
chính là cơng cụ để Nhà nước kiểm sốt, điều hành sự vận động của kinh tế vĩ
mơ, trong đó có hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của quản trị NHTMCP

1.1.2.1. Khái niệm quản trị NHTMCP
Xuất phát từ sự khác nhau về nguồn gốc thể chế pháp luật, đặc tính quốc
gia, văn hóa và trình độ phát triển của thị trường tài chính mà quan niệm và nội
dung của quản trị, điều hành NHTMCP ở các quốc gia khác nhau có nhiều điểm
khơng tương đồng. Cuốn “Các nguyên tắc QTCT” xuất bản năm 2004 của Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “QTCT là một hệ
thống các cơ chế, các hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các
quyền và nghĩa vụ giữa cổ đơng, HĐQT, các chức danh quản lý và những người
có lợi ích liên quan, quy định trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng
cách này, công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương
tiện thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó [31].
Theo Ngân hàng Thế giới (WorlBank): QTCT là một hệ thống các yếu tố
pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho phép cơng ty có
thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả, và nhờ
đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi vẫn tồn tại quyền
lợi của những người có lợi ích liên quan và của xã hội. Đặc điểm cơ bản nhất của
hệ thống QTCT là: (i) tính minh bạch của các thơng tin tài chính, kinh doanh và
q trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý; (ii) đảm bảo thực thi các
quyền của tất cả các cổ đông; (iii) các thành viên trong HĐQT có thể hồn tồn
độc lập trong việc thông qua các quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh doanh,
tuyển dụng người quản lý, trong việc giám sát tính trung thực và hiệu quả của
hoạt động quản lý và trong việc miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết [38].
Các định nghĩa này cho thấy, QTCT nhằm bảo vệ lợi ích của các bên liên
quan chính trong các doanh nghiệp kinh doanh. QTCT trước hết bao gồm các

12


thiết chế điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ sở hữu với nhau và giữa họ với bộ
máy điều hành trong những doanh nghiệp quy mô lớn mà sở hữu và điều hành đã

bắt đầu tách rời.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, một cơng ty có nhiều đối tượng
hưởng lợi và những đối tượng này được phân chia thành các nhóm lợi ích xung
đột với nhau. Việc quản trị sẽ cân bằng các ảnh hưởng đó một cách tối ưu cho
cơng ty nhằm phát huy được tính hiệu quả, cơng khai, minh bạch, góp phần bảo
vệ nhà đầu tư tốt hơn và cải thiện sức mạnh cạnh tranh cho chính bản thân cơng
ty. Điều này cho thấy, thuật ngữ “QTCT” hoàn toàn khác với cách hiểu “quản trị
kinh doanh” thường được hiểu là tri thức và kỹ năng của những người quản lý.
Quản trị kinh doanh chính là áp dụng các nguyên tắc và lý luận của khoa học
quản trị vào việc quản trị một cơ sở kinh doanh là một q trình, một hoạt động
có hướng đích, có tổ chức của chủ thể quản trị (nhà quản trị) lên đối tượng quản
trị (cấp dưới) để điều hành, phối hợp các nguồn lực (tài sản hữu hình, tài sản vơ
hình, thời gian và các mối quan hệ) trong điều kiện cạnh tranh thị trường nhằm
đạt được mục đích kinh doanh với hiệu quả cao.
Đối với các ngân hàng, quản trị tốt phải bao gồm 5 yếu tố chủ yếu, bao
gồm: (i) sự công bằng: giữa các cổ đơng, tạo điều kiện cho cổ đơng đóng góp ý
kiến về mục tiêu của ngân hàng và tiếp cận các nguồn thông tin; (ii) minh bạch
thông tin: nhất là về tầm nhìn chiến lược, các chính sách, tình hình tài chính, cơ
cấu quản lý, cổ đơng, quản trị rủi ro; (iii) tinh thần trách nhiệm: cần phân định
trách nhiệm rõ ràng giữa các phịng ban, xây dựng các thơng số đánh giá hoạt
động và hệ thống khen thưởng rõ ràng; (iv) sự tuân thủ: các ngân hàng cần hoạt
động kinh doanh một cách thận trọng, đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành;
(v) sự độc lập: ngân hàng cần đưa ra quyết định khách quan, không chịu áp lực
của các bên liên quan, phải ngăn ngừa sự chi phối của các cổ đông và tránh phát
sinh các xung đột lợi ích.
Nếu như trước đây, NHTM Nhà nước chiếm phần lớn thị phần (theo báo
cáo của NHNN năm 2007, 05 NHTM thuộc sở hữu Nhà nước chiếm khoảng 80%

13



tổng sản phẩm của các NHTM, các khoản cho vay của NHTM thuộc sở hữu nhà
nước chiếm gần 80% trong tổng số dư nợ ngân hàng) thì đến nay, cùng với sự
củng cố và phát triển của NHTMCP và quá trình cổ phần hóa các NHTM Nhà
nước (VietcomBank, VietinBank và BIDV), vị thế và vai trò của hệ thống
NHTMCP đã thay đổi, giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống các TCTD.
Bên cạnh đó, quy định cho phép chuyển đổi hình thức các doanh nghiệp,
kể cả doanh nghiệp nước ngồi theo quy định tại Nghị định số 101/2006/NĐ-CP
ngày 21/09/2006 của Chính phủ về đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký chuyển
đổi giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi theo
quy định của LDN và Luật Đầu tư. Do đó, việc cho phép ngân hàng liên doanh
và ngân hàng 100% vốn nước ngoài chuyển đổi sang hình thức NHTMCP là xu
hướng tất yếu trong tương lai.
Trong NHTMCP, quản trị, điều hành nhằm điều khiển và kiểm soát hoạt
động của ngân hàng. Quản trị không đơn thuần chỉ là việc quản trị, thực hiện các
quyết định và tổ chức nội bộ của các ngân hàng mà còn là việc quản trị thanh
khoản (khả năng thanh tốn và quy mơ của ngân hàng), quản trị tài sản có (tích
sản), quản trị tài khoản nợ (tiêu sản), quản trị vốn, quản trị tín dụng với nội dung
cơ bản là phân tích tín dụng [29, tr.12,13]. Trong việc quản trị, thực hiện quyết
định và tổ chức nội bộ sẽ bao gồm nhiều hoạt động: hoạch định việc thực hiện
các quyết định trong ngân hàng; kiểm tra (gồm có việc thực hiện các báo cáo,
kiểm tốn, thanh tra ngân hàng) và tổ chức nội bộ. Trong hoạt động tổ chức nội
bộ của ngân hàng sẽ bao gồm việc tổ chức cơ cấu từ cấp cao (hội sở) đến từng ủy
ban chức năng, các chi nhánh hoạt động và việc tổ chức các cơ quan quản lý,
điều hành trong ngân hàng.
Như vậy, quản trị có thể hiểu là việc tổ chức nội bộ; đưa ra và thực hiện
các quyết định của ĐHĐCĐ thông qua HĐQT, đồng thời quản lý, kiểm soát hoạt
động điều hành của ngân hàng.
Điều hành là các hoạt động nghiệp vụ được tiến hành nhằm duy trì hoạt
động bình thường, ổn định, phát triển của ngân hàng, thường được tiến hành bởi


14


những chủ thể có quyền lực nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động quản trị và điều hành khơng hồn tồn tách biệt mà
có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, trong quản trị có điều hành, trong điều hành thể
hiện yếu tố quản trị. Có thể coi điều hành là hoạt động triển khai kết quả của
quản trị. Quản trị và điều hành là hai mặt hoạt động của ngân hàng; chúng hỗ trợ
nhau tạo nên hiệu quả của hoạt động ngân hàng. Nếu như QTCT tập trung vào
các cơ cấu và các quy trình của cơng ty nhằm đảm bảo sự cơng bằng, minh bạch,
tính trách nhiệm và giải trình thì điều hành cơng ty tập trung vào các cơng cụ cần
thiết để tổ chức thực hiện các hoạt động của cơng ty. Nói cách khác, trong khi
điều hành phần nhiều mang tính nghiệp vụ thì quản trị mang tính tổ chức nội bộ.
Phạm vi đề tài này đề cập đến những vấn đề liên quan đến quản trị và
những quy định pháp luật có liên quan, cụ thể là những quy định pháp luật liên
quan đến tổ chức nội bộ của HĐQT và quy chế của thành viên HĐQT độc lập.
1.1.2.2. Đặc điểm quản trị NHTMCP
Các NHTMCP - bản chất là các doanh nghiệp, song là các doanh nghiệp
đặc biệt, cung cấp các dịch vụ về tài chính nhằm thu lợi nhuận, do vậy hoạt động
quản trị không những tác động đến giá trị của ngân hàng và giá vốn của họ mà
còn tác động đến giá vốn của các doanh nghiệp và hộ gia đình mà họ cho vay
vốn. Công tác quản trị tại ngân hàng sẽ tác động trực tiếp không chỉ đến giá trị
của ngân hàng mà cịn tới vị thế và uy tín của ngân hàng. Nói một cách tổng quát,
vấn đề quản trị tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng, là thước
đo cho khả năng chống đỡ cổi thành phần của HĐQT. Các thành viên
HĐQT khơng điều hành có thể mất đi sự sắc bén của mình nếu họ ngồi
trong HĐQT q lâu. Một cơng ty có thể cần phải áp đặt giới hạn nhiệm
kỳ, hoặc là cho toàn bộ HĐQT, hoặc là cho một tỷ lệ phần trăm nào đó,
việc tái bổ nhiệm một thành viên HĐQT khơng phải là tự động mà cần

phải được các cổ đông và thành viên HĐQT quyết định một cách thấu
đáo.
Chẳng hạn theo luật của Pháp, nhiệm kỳ thành viên HĐQT có thể không
quá 06 năm trừ phi ĐHĐCĐ quyết định gia hạn nhiệm kỳ này, và các
thành viên HĐQT từ 70 tuổi trở lên không được chiếm quá 1/3 tổng số
thành viên HĐQT. Liên quan đến vấn đề này, Quy tắc QTCT của Pháp
(Vienot II) quy định thời hạn nhiệm kỳ của một thành viên HĐQT, được đề
ra trong các quy chế nội bộ, không nên vượt quá 04 năm, để cho phép các
cổ đơng có thể thực hiện việc bầu chọn với một mức độ thường xuyên hiệu
quả.
Như vậy, các lý thuyết và thông lệ tốt về QTCT đều khẳng định việc giới
hạn nhiệm kỳ đối với thành viên HĐQT độc lập. Theo đó, khác với các thành viên
HĐQT khác, cần giới hạn nhiệm kỳ của thành viên độc lập: không quá 01 nhiệm

83


kỳ (khơng q 05 năm) để đảm bảo tính độc lập của vị trí này trong HĐQT cũng
như tạo điều kiện cho các cổ đông thực hiện quyền bầu chọn chủ thể này.
Do đó, các quy định pháp luật về quản trị NHTMCP và quy định, quy chế
nội bộ của các NHTMCP cần điều chỉnh nhiệm kỳ của thành viên HĐQT độc lập
theo định hướng nêu trên.
3.2.2.4. Quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐQT độc lập
Sự thiếu vắng những quy định đặc thù về quyền và nghĩa vụ của thành viên
HĐQT độc lập trong NHTMCP là một trong những nguyên nhân dẫn đến những
nhận thức, hiểu biết chưa đúng đắn và đầy đủ về vai trò của thành viên này trong
cơ cấu quản trị NHTMCP. Minh chứng như: thực trạng những cổ đông nhỏ lẻ, cổ
thiểu số không thực hiện quyền đề cử thành viên độc lập vào HĐQT (do chưa nhận
thức được vai trò của thành viên này đối với quyền, lợi ích hợp pháp của mình);
các NHTMCP không quy định bất kỳ nội dung nào về quyền, nghĩa vụ đối với

thành viên HĐQT độc lập; thành viên HĐQT độc lập khơng thể hiện được vai trị
độc lập trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình liên quan đến các
vấn đề: về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cổ đơng nhỏ lẻ, về minh bạch cơng
khai hóa các thơng tin có liên quan đến sở hữu, quản trị, xung đột lợi ích...
Các quy định pháp luật hiện hành và quy định, quy chế nội bộ của các
NHTMCP đang tương đồng với nhau về nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của thành viên HĐQT, không phân biệt giữa thành viên độc lập và các thành viên
khác của HĐQT trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
Các thông tin được các NHTMCP cơng bố liên quan đến tình hình QTCT,
về thực hiện, chức năng nhiệm vụ của HĐQT đều cũng khơng có nội dung đề cập
đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của thành viên HĐQT độc lập (ngoài việc
thống kê số lượng các buổi họp HĐQT của thành viên độc lập). Thực tế này cũng
lý giải cho việc gần như khơng có căn cứ nào để đánh giá hiệu quả hoạt động của
thành viên HĐQT độc lập trong các NHTMCP hiện nay.
Căn cứ vào các thông lệ tốt về QTCT và thực tiễn hoạt động quản trị của
các NHTMCP hiện nay cho thấy việc có những quy định riêng về quyền và nghĩa

84


vụ của thành viên HĐQT độc lập là thực sự cần thiết, có ý nghĩa về nhiều mặt như:
thay đổi nhận thức, hiểu biết của các chủ thể về vai trò của thành viên HĐQT độc
lập; nâng cao hiệu quả hoạt động thực tế của thành viên HĐQT độc lập đối với
hiệu quả hoạt động quản trị NHTMCP.
Theo đó, các quy định pháp luật cần bổ sung các nội dung mang tính
nguyên tắc chung (các NHTMCP cần cụ thể và chi tiết hóa trong các văn bản quy
định, quy chế quản trị nội bộ) về quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐQT độc lập
(ngoài các quyền và nghĩa vụ được quy định chung cho tất cả các thành viên
HĐQT), đặc biệt là trong các vấn đề như sau:
- Giám sát hoạt động công bố thông tin của NHTMCP theo quy định của

pháp luật và đảm bảo về tính kịp thời, chính xác của các thơng tin được cơng bố.
Hệ thống cơng bố thơng tin tốt nâng cao tính minh bạch là đặc điểm then
chốt của việc giám sát hiệu quả, và chỉ khi nào có cơng khai, minh bạch, khi đó
mới có trách nhiệm giải trình. Thực tiễn tại các NHTMCP cho thấy hoạt động của
công bố, minh bạch các thơng tin vẫn cịn mang tính hình thức, chưa đảm bảo coi
trọng việc công bố thông tin kịp thời và chính xác về mọi vấn đề quan trọng liên
quan đến tình hình tài chính, tình hình hoạt động, sở hữu và quản trị công ty.
- Tham gia vào quá trình xây dựng cơ chế chi trả thù lao cho các thành viên
HĐQT, BKS và Ban GĐ của NHTMCP thông qua việc tham gia vào Ủy ban về
lương thưởng (khuyến nghị của các thông lệ tốt về QTCT là thành viên độc lập
nên là chủ tịch của ủy ban này). Thực trạng lãnh đạo của các ngân hàng được chi
trả mức thù lao rất cao là một trong những vấn đề gây ra bức xúc hàng đầu cho các
cổ đông nhỏ lẻ, cổ đông thiểu số của ngân hàng và diễn ra trong thời gian dài
nhưng vẫn chưa có cơ chế kiểm soát việc này do mức thù lao này chủ yếu được
thông qua bởi các cổ đông lớn, cổ đông chi phối của ngân hàng (biểu quyết thông
qua cuộc họp của HĐQT và ĐHĐCĐ).
- Giám sát hoạt động của của người quản lý, điều hành NHTMCP trong
việc quyết định các vấn đề liên quan đến: giao dịch của những người này và người
có liên quan với ngân hàng; cấp tín dụng hạn mức lớn đối với một số khách hàng;

85


quyết định phân bổ lợi nhuận của ngân hàng, ...
Các quy định đặc thù về quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐQT độc lập
là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo cho các thành viên này thể hiện được vai
trị của mình trong hoạt động quản trị NHTMCP, góp phần đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các cổ đông, sự phát triển ổn định của các NHTMCP.
3.2.2.5. Thù lao của thành viên HĐQT độc lập
Các quy định pháp luật hiện hành không bắt buộc các NHTMCP phải quy

định riêng về vấn đề thù lao của thành viên HĐQT độc lập mà trao quyền tự chủ
cho các ngân hàng. Tuy nhiên, Điều lệ và các quy định quản trị nội bộ của các
NHTMCP lại khơng có bất kỳ quy định này cụ thể hóa, chi tiết hóa việc xác định,
và chi trả các khoản thù lao riêng đối với thành viên HĐQT độc lập mà chỉ quy
định mang tính chất “sao chép” nội dung của các quy định pháp luật như:
ĐHĐCĐ quyết định mức thù lao của HĐQT (trên cơ sở đề xuất của HĐQT).
Trên thực tế, các thông tin về chi trả thù lao cho thành viên HĐQT độc lập
hầu như không thể tiếp cận. ĐHĐCĐ thường niên của các NHTMCP đều thông
qua một định mức thù lao chung cho HĐQT (theo đề xuất của HĐQT) và việc
phân bổ khoản thù lao này thuộc về thẩm quyền của HĐQT. Điều này có nghĩa là
thù lao của các thành viên độc lập sẽ được quyết định thông qua biểu quyết tại
cuộc họp của HĐQT (theo đa số) và các thành viên điều hành, không độc lập
chiếm đa số sẽ định đoạt khoản thù lao đối với thành viên độc lập – vốn là thiểu
số trong cơ cấu HĐQT.
Do đó, cần bổ sung các quy định pháp luật về thù lao đối với thành viên
độc lập theo hướng yêu cầu các quy định nội bộ của NHTMCP phải thiết lập một
quy chế riêng về thù lao của HĐQT, trong đó có sự phân biệt về thù lao của
thành viên độc lập, thành viên điều hành và thành viên không điều hành.
Theo các thông lệ tốt về QTCT: Mức lương thưởng dành cho các thành
viên HĐQT cần phải như nhau đối với tất cả các thành viên HĐQT không điều
hành. Hơn nữa, các khoản thù lao mà công ty trả cho họ cần mang tính cạnh
tranh, tức là đủ để thu hút những cá nhân có năng lực. Mức thù lao cần được đưa

86


ra sao cho không quá thấp hoặc không quá cao so với mức các công ty cạnh tranh
khác trong ngành chi trả. Việc xây dựng một định mức lương thưởng hợp lý cho
các thành viên HĐQT là một điều đặc biệt quan trọng để khơng gây tổn hại tới
tính độc lập của các thành viên HĐQT độc lập. Dù là độc lập hay không, phán

quyết của một thành viên HĐQT của cá nhân ấy chiếm phần lớn thu nhập của cá
nhân ấy. Một thành viên HĐQT sống dựa vào thù lao cho cơng việc của mình
trong HĐQT của cơng ty sẽ chịu ơn cơng ty và có thể sẽ đưa ra những phán
quyết mang tính thiên vị.
Lý tưởng nhất, cơng việc này nên được giao cho một ủy ban lương thưởng
với toàn bộ thành viên là thành viên HĐQT độc lập, hoặc giao cho các thành viên
HĐQT độc lập. Công ty nên công khai kế hoạch lương thưởng của công ty và
mức thưởng của từng thành viên HĐQT, hoặc từng khoản riêng lẻ hoặc là tổng
hợp các khoản, trong báo cáo thường niên của công ty. Điều này dễ thực hiện
nhất khi tất cả các thành viên HĐQT đều nhận được một mức lương thưởng như
nhau với một tuyên bố đơn giản trong báo cáo thường niên: “Tất cả các thành
viên HĐQT không điều hành đêu được nhận mức thù lao là ... mỗi năm”.
3.2.3. Các giải pháp bổ trợ
Để các quy định về thành viên Hội đồng quản trị độc lập có thể được áp
dụng rộng rãi, phát huy được hiệu quả và mục đích ban hành, bên cạnh việc xây
dựng và hồn thiện pháp luật, khơng thể bỏ qua các biện pháp hỗ trợ việc thực thi
pháp luật. Có thể nói, các biện pháp này là chất xúc tác giúp cho các quy định về
thành viên Hội đồng quản trị độc lập đi vào hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp. Khi đó, những hiệu quả mà những quy định về thành viên Hội đồng quản
trị độc lập sẽ góp phần vào việc hồn thiện khung pháp lý về Quản trị công ty ở
Việt Nam về cả lý luận và thực tiễn.
3.2.3.1. Tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt
động quản trị NHTMCP
Theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan quản lý nhà nước (cụ thể là Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày

87


11/11/2013 của Chính phủ và Quyết định số 48/2015/QĐ-TTg ngày 08/10/2015

của Thủ tướng Chính phủ), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước là các cơ quan quản lý trực tiếp về hoạt động quản trị công ty
của các NHTMCP, cụ thể:
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ,
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng; và
- Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực
hiện chức năng quản lý, giám sát công ty đại chúng và các vấn đề liên quan đến
quản trị công ty.
Căn cứ vào thực trạng các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn về
quản trị NHTMCP nói chung, về thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP, để
hoàn thiện quy chế pháp lý về thành viên HĐQT và nâng cao hiệu quả áp dụng
trong các NHTMCP, các cơ quan quản lý nhà nước về quản trị NHTMCP nói
trên cần tăng cường vai trị quản lý thơng qua các hoạt động:
a. Hồn thiện các quy định về thành viên HĐQT độc lập
Như đã phân tích về thực trạng các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
về quản trị NHTMCP, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tăng cường vai trò,
trách nhiệm đối với chất lượng các văn bản này, cụ thể:
- Tiến hành rà sốt/đề xuất với Chính phủ rà sốt về hiệu lực pháp lý của
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về quản trị NHTMCP, cụ thể là đối
với Nghị định 59/2009/NĐ-CP và Thông tư 06/2010/TT-NHNN, đặc biệt là hiệu
lực pháp lý của các quy định về tổ chức, quản trị NHTMCP (bao gồm cả các quy
định về thành viên HĐQT độc lập trong NHTMCP) đã được luật hóa tại Luật các
TCTD năm 2010.
- Điều chỉnh, bổ sung các quy định pháp luật đặc thù về thành viên HĐQT
độc lập (như đã kiến nghị tại mục 3.2 ở trên) trong các văn bản ban hành mới/văn
bản sửa đổi, bổ sung về tổ chức, quản trị NHTMCP để hoàn thiện
b. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động công bố thơng tin về tình hình
quản trị cơng ty của các NHTMCP

88



×