Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 139 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ TÚ OANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

LUẬN VĂN ThS LUẬT

HÀ NỘI 2007


MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU
CHƢƠNG 1. LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VÀ QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.1. Giáo dục – đào tạo và vai trò của giáo dục - đào tạo
1.1.1. Quan niệm về giáo dục và đào tạo
1.1.1.1. Quan niệm về giáo dục
1.1.1.2. Quan niệm về đào tạo
1.1.2. Vị trí, vai trị của giáo dục – đào tạo đối với sự phát triển của xã hội
1.1.2.1. Giáo dục – đào tạo là động lực, là đòn bẩy mọi sự phát triển
của xã hội, của đất nước
1.1.2.2. Giáo dục – đào tạo là thước đo sự phát triển của một đất
nước
1.1.2.3. Giáo dục - đào tạo là yếu tố quan trọng đảm bảo cho
sự thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước


1.1.3. Quan điểm, phương hướng, chính sách và mục tiêu của Đảng và
Nhà nước về giáo dục - đào tạo
1.1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục - đào tạo
1.1.3.2. Quan điểm, phương hướng, chính sách và mục tiêu của
Đảng
và Nhà nước về giáo dục - đào tạo
1.1.3.3. Phương hướng và chính sách phát triển giáo dục- đào tạo
của Đảng và Nhà nước đối với từng cấp học
1.1.3.4. Mục tiêu phát triển giáo dục – đào tạo
1.2. Quan niệm về quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục - đào tạo
1.2.1. Quản lý
1.2.2. Quản lý nhà nước
1.2.3. Quản lý nhà nước về giáo dục- đào tạo
1.2.4. Quản lý nhà trường
1.3. Hệ thống các cơ quan quản lý và nội dung quản lý nhà nƣớc về giáo
dục – đào tạo
1.3.1. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
1.3.1.1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục

Trang
1
7
7
7
7
8
10
11
12

13

13
13
15

23
24
28
28
30
31
32
34
34
34


1.3.1.2. Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ
34
thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục
1.3.1.3. Bộ, cơ quan ngang Bộ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào 36
tạo
thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục theo thẩm quyền
1.3.1.4. ủy ban nhân dân các cấp
1.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
1.3.3. Phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
1.3.3.1. Bộ Giáo dục và Đào tạo
1.3.3.2. ủy ban nhân dân các cấp
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ GIÁO DỤCĐÀO

TẠO Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
2.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong quản lý và cải cách giáo dục - đào
tạo
2.1.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về giáo dục của Liên Bang Nga
2.1.2. Kinh nghiệm cải cách giáo dục ở nước Cộng Hoà Nhân dân
Trung Hoa
2.1.3. Kinh nghiệm phát triển giáo dục của Hàn Quốc trong những
năm đầu thế kỷ XXI
2.1.4. Kinh nghiệm đổi mới giáo dục ở SINGAPORE
2.1.5. Kinh nghiệm phát triển giáo dục Hoa Kỳ
2.2. Thực trạng giáo dục - đào tạo và quản lý nhà nƣớc về giáo dục–đào tạo
ở nƣớc ta hiện nay
2.2.1. Những thành tựu của giáo dục-đào tạo ở nước ta trong thời gian
qua
2.2.1.1. Hệ thống giáo dục - đào tạo
2.2.1.2. Quy mô giáo dục – đào tạo
2.2.1.3. Chất lượng giáo dục
2.2.1.4. Công bằng xã hội trong giáo dục
2.2.1.5. Cơng tác xã hội hố giáo dục - đào tạo
2.2.2. Nhược điểm
2.2.2.1. Những tồn tại, yếu kém chung của nền giáo dục
2.2.2.2. Những tồn tại, yếu kém trong quản lý nhà nước về giáo dục
- đào tạo
2.2.3. Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập của giáo dục - đào

36
36
39
40
45

52

52
52
56
59
61
64
67
67
68
73
75
76
77
79
79
85
91


tạo và quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo
2.2.3.1. Nguyên nhân mang yếu tố chủ quan
2.2.3.2. Nguyên nhân khách quan
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với quản lý nhà nƣớc về giáo dục - đào tạo
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ GIÁO
DỤC - ĐÀO TẠO
3.1. Những căn cứ để đề xuất các giải pháp
3.2. Những nguyên tắc để xây dựng các giải pháp
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc

về giáo dục - đào tạo
3.3.1. Hoàn thiện thể chế pháp luật
3.3.2. Các giải pháp mang tính tổ chức
3.3.3. Hồn thiện cơ chế phân cấp cho các trường đại học và các cơ sở
giáo dục
3.3.4. Giải pháp nhằm nâng cao quản lý nhà nước đối với chất
lượng giáo dục - đào tạo
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91
93
93
98
98
100
104
104
114
119
122
125
127


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục - đào tạo có vai trị hết sức quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã
hội ở mỗi một quốc gia. Lí luận cũng như thực tiễn ở nhiều nước phát triển trên thế
giới như Nhật Bản, Thuỵ Sỹ, Singapo đã chỉ rõ rằng: Phát triển một nguồn nhân lực

chất lượng cao vừa là biện pháp hàng đầu để xây dựng và phát triển một đất nước
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đặc biệt, đối với những nước chậm phát
triển, những nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam và nhiều nước ở
châu Á, châu Phi, Nam Mỹ… Một đất nước dù có nguồn tài lực, vật lực phong phú,
dồi dào nhưng nguồn nhân lực chất lượng thấp thì đất nước ấy khó lịng tiến nhanh,
tiến kịp các nước phát triển, khó lịng tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố để
đưa đất nước nhanh chóng hội nhập với nhân loại. Hiện nay, lồi người đang bước
vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức, nhân lực chất lượng cao
càng trở thành nhân tố quyết định cho sự phát triển của một đất nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
đã nêu: “Thực sự coi giáo dục - đào tạo cùng khoa học – công nghệ là nhân tố quyết
định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư
cho phát triển”.
Đồng thời Nghị quyết cũng chỉ rõ: “Giáo dục - đào tạo hiện nay phải có một
bước chuyển nhanh chóng về chất lượng và hiệu quả đào tạo đáp ứng yêu cầu của
đất nước thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, phải nâng cao chất lượng và bảo
đảm số lượng giáo viên cho hệ thống giáo dục, tiêu chuẩn hoá và hiện đại hoá các
điều kiện dạy và học”.
Trong tài liệu “Việt Nam con người phát triển đến năm 2020” của Bộ khoa
học - công nghệ và môi trường trước đây và hiện nay là Bộ khoa học và công nghệ:
“Bất kể quốc gia nào nếu tiếp thu được những bài học của thị trường, tạo lập được
những phẩm chất cho phép cạnh tranh trong một thế giới kinh tế khơng biên giới thì
mới có cơ hội thành cơng. Những phẩm chất đó bao gồm: Một dân cư được giáo

1


dục tốt; một nguồn nhân lực dựa trên trí tuệ và một quỹ tri thức dồi dào; một hệ
thống thông tin hiệu quả; một cơ cấu tài chính linh hoạt; một đội ngũ các nhà doanh

nghiệp có năng lực… vào một thế giới. Như vậy đòi hỏi một nguồn nhân lực có
trình độ cao, để thích ứng, khi đó yếu tố giáo dục - đào tạo sẽ là một nguồn lực chủ
yếu tạo thế cạnh tranh của các nước khi bước vào thế kỷ XXI”.
Hội nghị quốc tế tại Bắc Kinh (Trung Quốc) tháng 11 năm 1990 đã kết luận:
Sự giàu có và thịnh vượng ngày càng phụ thuộc vào tri thức và kỹ năng. Các nước
phát triển chưa bao giờ đổi mới và sáng tạo như bây giờ. Những nước này đang làm
cho thế giới tràn ngập những sản phẩm và dịch vụ mới dựa trên sức mạnh của chất
xám và sự sáng tạo của họ, sự thịnh vượng về mặt kinh tế của họ dựa trên sử dụng
tài sản trí tuệ và các nguồn lực về các ngành nghệ thuật, các ngành khoa học và
công nghệ đồng thời dựa vào sự phát triển của lực lượng lao động rất lành nghề và
thường xuyên học hỏi. “Cơ sở hoạt động trí tuệ và tổ hợp giáo dục (Gồm các trường
Đại học, Cao đẳng, cơ sở nghiên cứu…) ngày càng có vai trị quyết định trong sự
phát triển xã hội đã đóng vai trị thực hiện sứ mệnh trên”. Kết luận này đã nêu bật
sứ mệnh cao cả của giáo dục đại học (Từ gọi theo điều 38 của Luật giáo dục Việt
Nam năm 2005).
Một mặt giáo dục - đào tạo là hoạt động mang tính xã hội rộng lớn - đặc biệt
kể từ khi Đảng và Nhà nước ta chủ truơng xã hội hóa giáo dục – có liên quan trực
tiếp đến lợi ích, quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân, mọi thành phần kinh tế –
xã hội; Mặt khác, nó là yếu tố tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc
gia. Như vậy, giáo dục - đào tạo ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải đi trước một bước,
phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Một khâu quan trọng trong
việc quan tâm đến phát triển giáo dục là quản lý giáo dục mà trước hết phải là quản
lý nhà nước về giáo dục. Bởi lẽ, chỉ có thơng qua quản lý nhà nước về giáo dục mới
thực hiện được các chủ trương, chính sách của quốc gia, mới xây dựng được quy
hoạch chiến lược phát triển, mới thực hiện được các mục tiêu giáo dục…. Như vậy,
quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo có thể coi là khâu then chốt để thực hiện
thắng lợi mọi hoạt động giáo dục. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thấy rằng: Để quản

2



lý nhà nước về giáo dục - đào tạo có hiệu lực, hiệu quả phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố như đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, trình độ,
tư duy và nhận thức của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý giáo dục, về sự tiến bộ
của khoa học và công nghệ… Trong chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 do
Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê duyệt nhận
định rằng: quản lý là một khâu yếu và là nguyên nhân của những yếu kém khác
trong giáo dục nước ta. Để tìm ra các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về giáo
dục - đào tạo, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý nhà nƣớc về giáo dục và đào
tạo – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo – thực trạng và giải pháp hoàn thiện
là một đề tài rất rộng, bao quát mọi vấn đề quản lý của nhà nước liên quan đến lĩnh
vực giáo dục - đào tạo, bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên, các
cấp học: Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo; Giáo dục phổ thơng có tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp
chuyên nghiệp và dạy nghề; Giáo dục đại học và sau đại học (gọi chung là giáo dục
đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Như vậy giáo dục - đào tạo nói chung và quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo nói
riêng có nhiều vấn đề đáng quan tâm. Tuy nhiên, trong giới hạn của một luận văn
thạc sĩ, tác giả chỉ nêu những nét khái quát nhất trong quản lý nhà nước về giáo dục
- đào tạo cũng như đưa ra các giải pháp có tính chung nhất để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo mà không đi sâu nghiên cứu theo
từng cấp học và bậc học.
3. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, những vấn đề liên quan đến giáo dục - đào tạo đã
thu hút khơng ít sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà khoa học, đặc biệt các
nhà nghiên cứu, các Viện khoa học, các trường đại học…Đã có nhiều cơng trình
khoa học được cơng bố trên các sách báo, tạp chí, nghiên cứu về phương hướng,
giải pháp để phát triển một nền giáo dục toàn diện, lấy cơ sở để phát triển nguồn


3


nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Có thể kể tên một số cơng trình sau:
- Phạm Minh Hạc: Phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế – xã hội,
Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, Hà Nội năm 1994;
- Đỗ Văn Chấn – Một số vấn đề phương pháp luận quản lý giáo dục thành
tựu và xu hướng kinh tế học giáo dục, Hà Nội năm 1996;
- Chính sách và kế hoạch trong quản lý Giáo dục – Nhà xuất bản giáo dục
năm 1999 của Đặng Bá Lãm và Phạm Thành Nghị;
- Phạm Văn Đồng – Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội năm 1999;
- Phạm Minh Hạc – Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1999;
- Phạm Thành Nghị: Quản lý chất lượng giáo dục đại học, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2000;
- Quản lý – Quản lý giáo dục tiếp cận từ những mơ hình – Trường cán bộ
quản lý giáo dục - đào tạo Trung ương I của Đặng Quốc Bảo năm 2000;
- Đặng Xuân Hải - Bổ túc kiến thức quản lý hành chính nhà nước và quản lý
nhà nước về giáo dục và đào tạo, Hà Nội năm 2002;
- Phạm Minh Hạc - Nhân tố mới về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm
2002;
- Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI (sách tham khảo) của nhóm tác giả:
Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Đặng Bá Lãm, Nghiêm Đình Vỳ, Nhà xuất bản chính
trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002;
- Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài của tập thể tác giả Nghiêm Đình Vỳ,
Nguyễn Đắc Hưng, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002;

- Quản lý nguồn lực tài chính trong giáo dục ở nhà trường – Hà Nội năm
2003 của Đặng Quốc Bảo, Phạm Quang Sáng;

4


- Phát triển nhà trường, một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Đặng Quốc
Bảo năm 2003 trong cuốn tài liệu phục vụ lớp cao học quản lý giáo dục;
- Đậu Hồn Đơ - Nguyễn Cơng Giáp - Đào Văn Vy: Phân cấp quản lý giáo
dục ở Việt Nam, thực trạng và xu hướng, Hà Nội năm 2003;
- Phạm Minh Hạc – Về giáo dục, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội
năm 2003;
- Một số cơ sở pháp lý của vấn đề quản lý nhà nước và quản lý giáo dục của
Đặng Xuân Hải, Hà Nội năm 2004;
- Xã hội hố giáo dục nhìn từ góc độ Pháp luật của Lê Quốc Hùng, Nhà xuất
bản tư pháp, Hà Nội năm 2004;
- Quản lý nhà nước về giáo dục – lý luận và thực tiến của tác giả Đặng Bá
Lãm, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2005;
- Giáo dục những lời tâm huyết của Nhà xuất bản Thơng tấn, Hà Nội năm 2006;
Ngồi ra cịn có các bài đăng trên các báo, tạp chí như: Bài viết của Phạm
Thành Nghị “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực giáo dục - đào
tạo”, tạp chí giáo dục số 11 năm 2004; Bài viết của PGS.TS Mạc Văn Trang “Quản
lý nguồn nhân lực trong giáo dục - đào tạo - những vấn đề cần nghiên cứu” – trong
quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất
bản Khoa học giáo dục, Hà Nội năm 2004; Đặng Quốc Bảo với bài viết “Khái niệm
quản lý giáo dục” – tạp chí phát triển giáo dục số 1 năm 1997; Bài viết của Đặng
Xuân Hải “Nhận diện khái niệm quản lý và lãnh đạo trong q trình điều khiển một
nhà trường”, tạp chí phát triển giáo dục số 4 năm 2002; Gần đây nhất, tại trường
Cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo Trung ương I từ năm 2000-2002, TS. Đặng
Xuân Hải cũng triển khai một đề tài: Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục và đào

tạo thông qua một đề tài cấp bộ là: “Vai trò của nhà nước trong việc nâng cao quyền
tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường đại học”...
Nhìn chung những cơng trình nghiên cứu nói trên về giáo dục, quản lý nhà
nước về giáo dục chủ yếu được nhìn nhận từ góc độ của quản lý nhà nước về giáo
dục và đào tạo, hoặc từ góc độ xã hội học của vấn đề. Do đó, mới chỉ đề cập một

5


cách chung nhất và khái quát nhất về vấn đề, mà chưa xem xét vấn đề một cách hệ
thống, đặc biệt là ít phân tích về thể chế pháp luật từ góc nhìn của khoa học luật.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng của giáo dục - đào tạo và quản lý nhà nước
về giáo dục - đào tạo để thấy được các ưu điểm và khuyết điểm của giáo dục - đào
tạo nước ta. Từ đó, luận văn sẽ đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả trong quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo.
Để thực hiện mục đích đặt ra, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. Đó là: Những
vấn đề lý luận về giáo dục - đào tạo và lý luận quản lý nhà nước về giáo dục – đào
tạo; kinh nghiệm của một số quốc gia có nền giáo dục - đào tạo tương đối tốt để có
thể vận dụng những hạt nhân hợp lý của họ vào thực tiễn giáo dục - đào tạo ở nước
ta;
Thứ hai, nghiên cứu các nội dung của quản lý nhà nước về giáo dục - đào
tạo. Đồng thời phải làm sáng rõ thực trạng của giáo dục - đào tạo cũng như quản lý
nhà nước về giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay để tìm ra các giải pháp phù hợp;
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các nguyên tắc xây dựng nền giáo dục nước
nhà đã được Đảng và Nhà nước ta chỉ rõ (giai đoạn từ năm 2001 đến 2020). Luận
văn đưa ra được các giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
giáo dục - đào tạo của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về giáo dục - đào tạo, kết hợp với lý thuyết và thực tiễn của quản lý nhà
nước về giáo dục - đào tạo.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sẽ sử dụng các phương pháp phân
tích, so sánh, thống kê dựa trên những tư liệu khảo sát, so sánh và minh hoạ bằng
biểu đồ.
6. Kết cấu của luận văn

6


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia thành ba chương:
- Chương I. Một số vấn đề lí luận về giáo dục - đào tạo và quản lý nhà nước
về giáo dục - đào tạo;
- Chương II. Quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay;
- Chương III. Các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
giáo dục - đào tạo.
CHƢƠNG 1. LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VÀ QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.1. Giáo dục - đào tạo và vai trò của giáo dục- đào tạo
1.1.1. Quan niệm về giáo dục và đào tạo
1.1.1.1.

Quan niệm về giáo dục

Giáo dục sinh tồn và phát triển cùng với sự tồn tại của lịch sử lồi người; duy
trì, bảo tồn và phát triển các sáng tạo mà con người đã tích luỹ được. Giáo dục là tất
yếu vĩnh hằng của xã hội loài người. Ở đâu đó có con người thì ở đó có giáo dục, ở

đâu đó cịn có con người thì cịn có sự truyền đạt những kinh nghiệm của xã hội loài
người. Bất kỳ một chế độ xã hội nào, một thời đại nào cũng phải xây dựng một nền
giáo dục, để đào tạo ra những con người phù hợp với chế độ xã hội ấy. Giáo dục là
môi trường chủ yếu, tốt nhất để chuyển tải những tư tưởng thống trị xã hội.
Giáo dục là quá trình giúp cho mỗi cá nhân tích luỹ kiến thức, mở mang trí
tuệ, hình thành nhân cách, phẩm chất trí lực, để bảo tồn, phát triển văn minh của cá
nhân, của tập thể, của xã hội và của nhân loại. Triết học Mác xít khẳng định rằng
“về mặt hiện thực, bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã hội” [ 23, tr.
85]. Tâm lý học và giáo dục học macxít cũng đã chứng minh rằng mỗi con người tự
tạo ra bản chất của mình bằng con đường lĩnh hội và sáng tạo vốn kinh nghiệm
chung của lồi người. “Q trình giáo dục chính là q trình lãnh đạo tổ chức, dẫn
dắt các dạng hoạt động dạy và hoạt động học: hoạt động học tập, hoạt động vui
chơi, hoạt động lao động, hoạt động giao lưu, v.v” [23, tr. 85]. Như vậy, giáo dục
đồng nghĩa với sự chọn lọc, phát triển văn minh nhân loại. Đó là một q trình loại

7


bỏ những thói hư, tật xấu, những hủ tục, lạc hậu để tiếp thu cái tốt, cái hay, cái mới
văn minh, tiến bộ.
Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển
tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được
những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra [50, tr. 349].
Giáo dục là một quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm
chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, nó
được thể hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch
sử – xã hội của loài người [27, tr. 120].
Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện
pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và
lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và

phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị
cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội [43, tr. 105].
Đây là một hoạt động đặc trưng và tất yếu của xã hội loài người, là điều kiện
khơng thể thiếu được để duy trì và phát triển con người và xã hội. Giáo dục là một
quá trình tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội, mà con người được giáo dục là
nhân tố quan trọng nhất, vừa là động cơ, vừa là mục đích của phát triển xã hội.
Trải qua hàng ngàn năm thực hành, thử nghiệm, giáo dục học phương Đông
đã tổng kết được 4 mặt cơ bản nhất của hoạt động giáo dục là: giáo dục đạo đức
(đức học), giáo dục trí tuệ (trí dục), giáo dục thể chất (thể dục), giáo dục thẩm mĩ
(mĩ học) [43, tr. 105].
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc trưng của xã hội loài người.
Giáo dục nảy sinh cùng với xã hội loài người, trở thành một chức năng sinh hoạt
không thể thiếu được và không bao giờ mất đi ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội.
Giáo dục là một bộ phận của quá trình tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội,
một trong những nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt.
Giáo dục mang tính lịch sử cụ thể, tính chất, mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương

8


pháp và tổ chức giáo dục biến đổi theo các giai đoạn phát triển của xã hội, theo các
chế độ chính trị – kinh tế của xã hội.
1.1.1.2.

Quan niệm về đào tạo

Đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh
hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, v.v. một cách có hệ thống nhằm
chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân cơng
lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát

triển nền văn minh của loài người [48, tr. 735].
Đào tạo tức là “làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn
nhất định” [50, tr. 259].
Đào tạo là quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những kinh
nghiệm, những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên môn, đồng thời
bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi
vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước [43, tr. 76].
Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường, gắn với giáo dục
đạo đức, nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo (trình độ học vấn) của một
người còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự học và tham gia các
hoạt động xã hội, lao động sản xuất rồi tự rút kinh nghiệm của người đó quyết định.
Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành q trình tự đào tạo một cách tích
cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao.
Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và lao động, người ta phân biệt đào
tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ cho nhau với
những nội dung do các đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng
khoa học, kỹ thuật và văn hố của đất nước. Khái niệm giáo dục nhiều khi bao hàm
gồm cả khái niệm đào tạo. Có nhiều dạng đào tạo: Đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên
sâu, đào tạo cơ bản. đào tạo lại, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa...
Hình thức tổ chức đào tạo cơ bản là các cơ sở giáo dục chính quy trong hệ
thống giáo dục quốc dân, ngồi ra cịn có các hình thức đào tạo khơng chính quy

9


ngày càng được mở rộng như đào tạo tại chức, đào tạo từ xa, đào tạo cấp tốc... nhằm
đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.
Ngày nay đào tạo khơng cịn chỉ là q trình chuyển giao một chiều, mà còn
bằng những phương tiện dạy - học hiện đại mà các cơ quan đào tạo đang dần dần
tiến tới hợp tác song phương với người học để giúp họ chủ động, tích cực, tự giác

chiếm lĩnh lấy tri thức, tự trang bị hành trang nghề nghiệp, chun mơn. Đó là quá
trình đào tạo được chuyển biến thành quá trình tự đào tạo của người học. Chỉ khi
nào đạt được chuyển biến như vậy thì hiệu quả đào tạo mới cao và mới có lợi ích
thiết thực cho bản thân và xã hội.
Giáo sư Phạm Minh Hạc cũng đã chỉ ra rằng: “quá trình đào tạo bao gồm việc
giáo dục và giáo dưỡng, dạy dỗ và tập luyện, hình thành và phát triển nhân cách học
sinh. Đó là hoạt động truyền thụ và hoạt động lĩnh hội của thầy và trò, của xã hội và
thế hệ trẻ, của cha mẹ và con cái, v.v.. Quá trình này mở đầu bằng những yêu cầu
của xã hội cụ thể hoá theo từng giai đoạn vào mục tiêu và phương thức đào tạo và
khâu cuối cùng của quá trình ấy là những phẩm chất nhân cách của học sinh (bao
hàm cả năng lực hành động), được bộc lộ trong khi các em thực hiện chức năng của
mình trong xã hội. Quá trình đào tạo bao giờ cũng là vịng trịn khép kín có “mối
hàn” là hoạt động sản xuất xã hội” [23, tr. 85].
Đào tạo ở nước ta được phân cấp thành các bậc: đào tạo nghề nghiệp, đào tạo
trung cấp, đào tạo đại học và đào tạo sau đại học.
1.1.2.

Vị trí, vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển của xã hội

Giáo dục - đào tạo giữ vai trò đặc biệt cần thiết đối với sự phát triển của mỗi
con người và của cả xã hội. Vốn con người bao gồm tồn bộ thể lực, trí lực, phẩm
chất về đạo đức, về nhân cách. Vốn đó nhờ giáo dục - đào tạo mà có. Nó làm cho
con người trở nên có ích, có giá trị, có chất lượng, góp phần tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội bởi mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội đều do con người sáng tạo ra.
Tại Đại hội đồng lần thứ 27 của UNESCO (tháng 11 năm 1993), các báo cáo đã
nói nhiều đến vai trị quan trọng của giáo dục - đào tạo trong thế kỷ XXI là chìa
khóa tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn; vai trò của giáo dục - đào tạo là đòn bẩy

10



mạnh mẽ nhất mà chúng ta cần có để tiến vào tương lai; giáo dục là quyền cơ bản
nhất của con người, giáo dục – đào tạo là điều kiện tiên quyết để thực hiện nhân
quyền, dân chủ, hợp tác trí tuệ, bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau...
Vì vậy, phải quan niệm lại một cách đầy đủ hơn vai trị của giáo dục - đào tạo
trong cơng cuộc phát triển con người, phát triển đất nước, phát triển nhân loại trong
thời đại mới: giáo dục không phải chỉ là tích tụ tri thức mà cịn là thức tỉnh tiềm
năng sáng tạo to lớn trong mỗi người, cho phép tất cả chúng ta phát triển tất cả tiềm
năng, đóng góp tốt hơn cho xã hội. Vai trò của giáo dục - đào tạo được thể hiện qua
một số điểm cơ bản sau đây:
1.1.2.1. Giáo dục - đào tạo là động lực, là đòn bẩy mọi sự phát triển của xã
hội, của đất nước
Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng: Xã hội ngày càng phát triển. Sự
phát triển của xã hội lồi người nói chung, của một quốc gia nói riêng chịu sự chi
phối của nhiều yếu tố, các yếu tố này được gọi là nguồn lực. Có nhiều nguồn lực tác
động đến sự phát triển của xã hội, đất nước, trong đó nhân lực, tài lực, vật lực là
những nguồn lực chủ yếu. Trong ba nguồn lực này, đến lượt mình, nhân lực trở
thành nguồn lực chủ đạo, có tính quyết định. Vai trị to lớn của nhân lực xuất phát
từ hai cơ sở: Một là, thuộc tính của tài lực, vật lực: Tài lực và vật lực có thuộc tính
là chúng chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, chỉ trở thành sức mạnh khi nào có sự can
thiệp của con người. Con người can thiệp như thế nào, đúng hay sai, đúng sai ở mức
độ nào thì tài lực, vật lực sẽ tác động trở lại tích cực hay tiêu cực và ở những mức
độ nhất định đến môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và cuộc sống của con
người. Thực tiễn đã chứng minh cho chúng ta một bài học đắt giá từ việc con người
đã phá rừng bừa bãi; Hai là, vai trò, vị thế của nguồn nhân lực trong đời sống xã
hội.
Trong xã hội, con người tồn tại với hai tư cách: Vừa là chủ thể của xã hội vừa
là khách thể của xã hội. Với tư cách là chủ thể của xã hội, con người trực tiếp tham
gia vào mọi hoạt động nhằm phát triển xã hội, đất nước. Xã hội, đất nước phát triển
như thế nào, theo hướng nào tuỳ thuộc vào chính chủ thể xã hội. Với tư cách này,


11


con người là động lực, là đòn bẩy của mọi sự phát triển xã hội. Với tư cách là khách
thể của xã hội, mọi hoạt động đều nhằm vào phục vụ con người, phát triển con
người. Như vậy, con người là mục tiêu của mọi sự phát triển.
Con người chỉ có thể đảm đương được vai trị to lớn như vừa nêu trên khi nào
con người phải có chất lượng cao. Con người có chất lượng cao theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khố VII phải có đầy đủ
bốn phẩm chất:
-

Phát triển về trí tuệ;

-

Cường tráng về thể chất;

-

Phong phú về tâm hồn;

- Trong sáng về đạo đức [3, tr. 8].
Có nhiều lĩnh vực góp phần tạo nên bốn phẩm chất này ở con người Việt Nam
mới như y tế, văn hoá, đạo đức..., song lĩnh vực quan trọng bậc nhất là giáo dục.
Chính giáo dục - đào tạo với chức năng của mình trực tiếp mang lại cho con người
Việt Nam những phẩm chất trên đây. Trong ý nghĩa ấy, giáo dục – đào tạo là động
lực, là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của xã hội, của đất nước.
1.1.2.2. Giáo dục - đào tạo là thước đo sự phát triển của một đất nước

Thực tiễn của nhiều nước trên thế giới đã cho chúng ta thấy: Hai đất nước có
cùng xuất phát điểm ban đầu như nhau về kinh tế – xã hội, cùng trình độ phát triển
như nhau, nhưng chỉ sau một thời gian có sự cách biệt nhau về kinh tế- xã hội; một
nước phát triển nhanh, có trình độ khoa học kỹ thuật cao, một nước ngược lại rơi
vào trì trệ, phát triển chậm chạp, thậm chí tụt hậu dần. Đi tìm ngun nhân của điều
này, người ta dễ nhận ra rằng nước nào chú trọng, quan tâm đến giáo dục - đào tạo
thì sẽ phát triển nhanh, và ngược lại. Theo tinh thần ấy, giáo dục - đào tạo là thước
đo sự phát triển của một quốc gia, một dân tộc. Trình độ dân trí, trình độ khoa học
kỹ thuật và cơng nghệ thể hiện trình độ phát triển của đất nước. Tổng kết kinh
nghiệm lịch sử dân tộc ta, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 – 1783) đã từng khái quát
thành một quy luật “phi công bất túc, phi nông bất ổn, phi thương bất hoạt, phi trí
bất hưng”. Từ bài học của tổ tiên, xuất phát từ thực tiễn của đất nước, chủ tịch Hồ

12


Chí Minh đã khẳng định lại mơt lần nữa giá trị của tri thức, của giáo dục “một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu” [40, tr. 6]. Vì thế, trong “Thư gửi học sinh nhân ngày
khai trường” đầu tiên của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, tháng 9 năm 1945,
Người đã căn dặn: “Non sông Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc
năm châu hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các cháu [40, tr.
8].
Từ năm 1994 trở về trước, khi phân loại sự phát triển của các nước trên thế
giới, Liên Hợp Quốc chỉ dùng một chỉ số duy nhất là GDP/đầu người và Mỹ luôn
được xếp đầu tiên, là nước phát triển nhất. Nhưng từ năm 1994, Liên Hợp Quốc đã
dùng năm chỉ số (trong đó có hai chỉ số về giáo dục): Tuổi thọ, tỷ lệ người lớn biết
chữ, số năm đi học, GDP đầu người và chỉ số phát triển nhân lực. Trong 173 nước
của Liên Hợp Quốc có 53 nước phát triển, vị trí 1,2,3 thuộc về lần lượt Canada,
Thuỵ Sĩ, Nhật Bản, Mỹ nằm ở vị trí thứ 9 [47].
1.1.2.3. Giáo dục - đào tạo là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự thắng lợi của

cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đang đẩy mạnh cơng cuộc cơng
nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố là một cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật và công nghệ. Để cơng cuộc ấy được thành cơng, một địi hỏi bắt buộc là phải
đào tạo được một đội ngũ lao động có trình độ khoa học kỹ thuật và cơng nghệ cao,
có tay nghề thành thạo, phục vụ đắc lực và kịp thời cho các lĩnh vực kinh tế – xã
hội; phải có một nền khoa học kỹ thuật và cơng nghệ hiện đại,..Trong khi đó, trình
độ dân trí của nhân dân ta còn thấp, lực lượng lao động đã qua đào tạo và tỷ lệ cơng
nhân bậc cao cịn q ít ỏi, nền khoa học kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu và chưa
đáp ứng được đòi hỏi của các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Bất cập trên đây chỉ có thể khắc phục được trước hết và chủ yếu phải bắt đầu từ
sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Cần phải đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục và
phải coi “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng

13


thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hố, là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững” [20, tr. 108 – 109].
1.1.3.

Quan điểm, phương hướng, chính sách và mục tiêu của Đảng và

Nhà nước về giáo dục - đào tạo
1.1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục - đào tạo.
Lý luận Mác – Lê Nin coi giáo dục có vai trị quan trọng trong cách mạng xã

hội chủ nghĩa. Khi đề cập đến vấn đề tổng quát của lịch sử phát triển loài người.
Marx chỉ rõ: ở mỗi giai đoạn phát triển đều đòi hỏi một sức mạnh lao động xã hội
nhất định. Sức lao động đó là: “Tồn bộ các sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh
thần ở trong cơ thể con người, ở trong nhân cách sinh động của con người, những
sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần mà con người phải cho hoạt động để sản
xuất ra những vật có ích’’ [5, tr. 9]. Sức mạnh này do đâu mà có? Marx chỉ ra, đó là
do đào tạo. Trên nền tảng tư tưởng giáo dục của Marx về phổ cập giáo dục phổ
thông kỹ thuật tổng hợp và việc kết hợp với lao động sản xuất, Lê Nin đã phát triển
hoàn chỉnh lý luận về bản chất kinh tế của giáo dục. Theo Lê Nin, giáo dục xã hội
chủ nghĩa vừa là mục đích kinh tế, vừa là sức mạnh của kinh tế. Giáo dục trong các
nước xã hội chủ nghĩa biểu hiện cả hai mặt của quy luật kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa xã hội.
Ngay sau khi cách mạng tháng mười thành công, đất nước ở trong hồn cảnh
cực kỳ khó khăn vì bị chiến tranh tàn phá, Lê Nin đã chỉ ra: “Muốn thoát khỏi cảnh
thiếu thốn, cảnh cùng khổ đen tối nhất thì phải có suy nghĩ, phải có văn hố, phải
giỏi”. Người coi: “Điều kiện để nâng cao năng suất lao động trước hết chính là trình
độ tiến bộ của nền giáo dục và văn hố của đơng đảo quần chúng nhân dân” [5, tr.
25]. Lê Nin coi giáo dục xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội
phải chăm lo sự phát triển của giáo dục và của ngành giáo dục, ngồi kinh phí cấp
phát của nhà nước, còn phải biết khai thác lực lượng vật chất của xã hội phục vụ
cho công tác đào tạo, Lê Nin là người đầu tiên nêu ra nguyên tắc quản lý này với hệ

14


thống giáo dục. Trong “Dự án cương lĩnh của Đảng cộng sản Nga” tháng 2/1919,
Lê Nin nêu: “Làm cho nhân dân lao động tích cực tham gia vào sự nghiệp giáo dục
quốc dân, phát triển những hội đồng giáo dục quốc dân, động viên những người có
văn hố tham gia vào quá trình giáo dục” [5, tr. 28].
Vấn đề lý luận này cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sinh động và

phát triển sáng tạo trong tiến trình cách mạng ở nước ta. Tháng 9/1945, ngay sau
khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Hồ chủ tịch đã nêu ra mục tiêu của chế
độ mới là làm cho mọi người “Ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Để đạt mục tiêu này, Người cho rằng: “Một trong những công việc phải thực hiện
cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”.
Với hồn cảnh đất nước cịn nghèo nàn, trình độ học vấn của nhân dân cịn thấp
kém, chính quyền cách mạng vừa giành được đã bị kẻ thù uy hiếp, phá hoại, Hồ
Chủ tịch vạch ra nhiệm vụ chiến lược là : “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc
ngoại xâm”. Trong những năm chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược, mặc dù
công tác lãnh đạo kháng chiến rất bận rộn và khẩn trương, Hồ Chủ tịch vẫn thường
xuyên quan tâm việc phát triển nền giáo dục mới, hướng hoạt động của giáo dục
vào việc đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ “kháng chiến và kiến
quốc”, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống mới.
Nhằm giúp cho cán bộ giáo dục thấy rõ nhiệm vụ nặng nề, vẻ vang của ngành
trước hoàn cảnh mới của cách mạng, trong lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè
của ngành giáo dục tháng 4/1956, Hồ Chủ tịch nói rõ: “Khơng có giáo dục, khơng
có cán bộ thì cũng khơng nói gì đến kinh tế văn hố. Trong việc đào tạo cán bộ,
giáo dục là bước đầu. Tuy khơng có gì đột xuất nhưng rất vẻ vang”. Người nhắc
nhở tồn Đảng, tồn dân: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
phải trồng người”. Người u cầu tồn xã hội: Phải chăm sóc nhà trường về mọi
mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục lên những bước phát triển mới. Người chỉ thị cho
ngành giáo dục” “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt”
để “thời gian không xa đạt những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật” [5 , tr. 62].

15


1.1.3.2. Quan điểm, phương hướng, chính sách và mục tiêu của Đảng và Nhà
nước về giáo dục - đào tạo
a. Quan điểm của Đảng ta đối với việc phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln đề cao vai trị của giáo dục - đào tạo, đã có nhiều chủ trương, chính
sách phát triển giáo dục - đào tạo. Từ tất cả các Văn kiện, Nghị quyết của Đại hội
Đảng toàn quốc, đặc biệt là Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI [17], lần
thứ VII [18], lần thứ VIII [19], lần thứ IX [20], Nghị quyết 4 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII [3], Nghị quyết 2 Ban chấp hành trung ương Đảng khố VIII
[4]... Chúng ta có thể nhận thấy Đảng ta đã đưa ra một hệ thống quan điểm chỉ đạo
phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Dưới đây, tác giả chỉ trình bày những nội
dung chính của một số quan điểm chỉ đạo cơ bản.
* Một là, thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu:
Quan điểm này được khẳng định và nhấn mạnh trong nhiều văn kiện quan
trọng: Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung năm 2001 (Điều 35); Văn kiện
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII [18], Nghị quyết 2 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII [4, tr. 3], Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX [20, tr. 108].
“Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu” [42], cùng với khoa học công nghệ,
giáo dục - đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu” [18, tr. 82], “điều đó có nghĩa
là sự nghiệp giáo dục và chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta có tầm quan
trọng hàng đầu, các cơ quan có thẩm quyền và mọi người, mọi tầng lớp nhân dân
trong cả nước đều phải coi trọng như vậy và phải làm đúng như vậy” [21, tr. 1011], “hàng đầu là hàng thứ nhất và có nghĩa là đi trước một bước” [21, tr. 13].
Khẳng định vị thế quốc sách hàng đầu của giáo dục - đào tạo là khẳng định vai
trị có tính quyết định của giáo dục - đào tạo đối với quá trình phát triển kinh tế – xã
hội đất nước, là thừa nhận giáo dục - đào tạo “đóng vai trị then chốt trong tồn bộ
sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, là động lực đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới’’ [18, tr. 87],
là “nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội” [4, tr. 31] và “phát

16


triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự

nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người” – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, “tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững” [20, tr. 108 - 109].
Quan điểm này đã cụ thể hoá “chiến lược con người” mà Đảng ta đã đưa ra từ
Đại hội VI. Xuất phát từ Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
ta ln ln hướng mục tiêu, lý tưởng của mình về người dân, tất cả do dân, của dân
và vì dân. Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực khơng những có tác dụng quyết định đến
sự tăng trưởng kinh tế - xã hội mà còn gắn liền trực tiếp đến những người dân.
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, giáo dục - đào tạo sẽ trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân, làm cho người dân Việt Nam trong giai đoạn cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước là người dân phát triển tồn diện về trí tuệ, thể chất, tâm hồn,
đạo đức. Từ đó, mỗi người dân nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của mình
vừa góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Thơng qua đó cũng cho chúng ta thấy sự nhạy bén của Đảng ta khi xây dựng
chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo. Chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo mà
Đảng ta đưa ra trong các văn kiện, đặc biệt trong Nghị quyết II của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII vừa mở đường cho sự phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước nói chung, vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Thời đại mà đất
nước ta đang đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, là thời đại khoa học kỹ thuật
và công nghệ phát triển nhanh, mạnh như vũ bão, thời đại trong đó con người, trước
hết là chất xám của con người trở thành một lực lượng vật chất quyết định sự phát
triển về xã hội và tăng trưởng về kinh tế của một đất nước. Giáo dục - đào tạo – lĩnh
vực đưa lại chất xám cho con người - được đặt lên hàng đầu.
Để giáo dục - đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu phải “thực hiện chính
sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo’’ [4, tr. 31], “có các giải pháp mạnh
để phát triển giáo dục” [4, tr. 31 – 32].

17



Ưu tiên ưu đãi cho giáo dục - đào tạo khơng có nghĩa là dành cho giáo dục đào tạo một tỷ lệ ngân sách lớn nhất, là cấp cho đội ngũ giáo viên và những người
làm công tác giáo dục một mức lương cao, thậm chí rất cao. Ưu tiên ưu đãi cho giáo
dục được hiểu như sau:
Một là, Nhà nước các cấp từ trung ương xuống địa phương có trách nhiệm ưu
tiên đầu tư thoả đáng, hợp lý cho giáo dục, khuyến khích và tạo nhiều điều kiện
thuận lợi thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục.
Hai là, chính quyền các cấp, các tổ chức đồn thể xã hội, tồn dân cùng góp
cơng góp sức chăm lo sự nghiệp giáo dục, khơng khốn trắng sự nghiệp to lớn và
phức tạp này cho ngành giáo dục - đào tạo.
Ba là, chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể xã hội thực sự chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ giáo viên và những người làm công tác giáo
dục theo hướng an cư lạc nghiệp.
Đồng thời, các giải pháp đưa ra phải đủ mạnh, phải tạo ra sự thay đổi căn bản
chất lượng giáo dục theo hướng phát triển đi lên, phù hợp với xu hướng phát triển
của nền giáo dục hiện đại. Trước mắt, tập trung vào giải quyết những vấn đề cốt lõi,
nóng bỏng của giáo dục nước ta hiện nay: Vấn đề quy mô, chất lượng và hiệu quả
giáo dục, vấn đề cơ cấu giáo dục – cơ cấu nhân lực – cơ cấu kinh tế,...
* Hai là, giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và
của toàn dân
Quan điểm này xuất phát từ mục đích và lý tưởng cách mạng của Đảng và từ
bản chất của Nhà nước ta là của dân, do dân, vì dân. Từ đây, trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, quản lý xã hội, các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta
luôn luôn hướng đến nhân dân, vừa phải phát huy được mọi tiềm năng của nhân
dân, vừa đảm bảo quyền lợi cho nhân dân. Đối với các lĩnh vực gắn liền trực tiếp
đến đời sống vật chất và tinh thần của từng người dân như giáo dục - đào tạo, y tế,
văn hoá,... xuất phát điểm trên càng được coi trọng, đề cao.
Tư tưởng chỉ đạo của quan điểm này là: xây dựng một xã hội học tập, tạo điều
kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ khơng phân biệt là cán bộ, Đảng


18


viên, công chức, viên chức nhà nước, thành viên của các tổ chức đoàn thể xã hội
hay từng người dân, không phân biệt là người chưa đi học, chưa biết đọc biết viết
hay là người có trình độ cao được học thường xuyên, học suốt đời. “mọi người đi
học, đi học thường xuyên, đi học suốt đời” [4, tr. 32] là thực hiện “giáo dục cho mọi
người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập” như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX đã đề ra [20, tr. 109]. Trong q trình ấy, nhà nước giữ vai trị chủ đạo trong phát
triển sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hố, khuyến khích, huy động và tạo điều
kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục.
Điều 12 Luật Giáo dục được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua ngày 14/6/2005 khi nói về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đã khẳng
định: “Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và
của toàn dân; Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục;
thực hiện đa dạng hố các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích,
huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo
dục; mọi tổ chức, gia đình và cơng dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục,
phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục
lành mạnh và an tồn”.
Giáo dục - đào tạo khơng chỉ là công việc của nhà trường mà là công việc
chung của tồn xã hội. Từng người dân, từng gia đình, từng tâp thể, tổ chức Đảng,
chính quyền các cấp, các tổ chức kinh tế – xã hội, các tổ chức quần chúng cùng xây
dựng cộng đồng trách nhiệm đối với sự phát triển giáo dục - đào tạo và phối hợp tạo
dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Các phương tiện truyền thông đại chúng phối
hợp với ngành giáo dục - đào tạo trong việc xây dựng và chuyển tải các chương
trình giáo dục và phổ biến kiến thức đến mọi người. Cần phối hợp giữa nhà trường
với gia đình và xã hội trong sự nghiệp “trồng người” thông qua nhiều hình thức hoạt
động như hoạt động của Hội đồng giáo dục các cấp, Hội khuyến học, Hội cha mẹ
học sinh, các quỹ bảo trợ học đường và các hình thức tổ chức khác.

Mọi người tham gia giáo dục - đào tạo bằng cách tự mình học tập thường
xuyên, suốt đời. Nêu gương học tập phải trở thành truyền thống của mỗi gia đình,

19


mỗi tổ chức, mỗi địa phương và toàn dân tộc. Tạo dựng một xã hội học tập, ở đó
mọi người học tập và được tạo điều kiện để học tập, phải là mục tiêu cao cả của sự
nghiệp giáo dục - đào tạo.
Để thực hiện giáo dục là sự nghiệp của tồn Đảng, của Nhà nước và của tồn
dân thì một mặt Nhà nước tăng cường đầu tư từ ngân sách cho giáo dục - đào tạo.
Mặt khác, người học, người sử dụng lao động, các tổ chức kinh tế – xã hội hăng hái
đóng góp nguồn lực cho giáo dục - đào tạo, coi đó là trách nhiệm và nghĩa vụ đối
với xã hội; dần dần hình thành thói quen chi trả một phần kinh phí của giáo dục đào tạo, ở cấp bậc học càng cao phần chi trả đó càng lớn. Trong những năm gần
đây, nhà nước đã liên tục tăng nguồn ngân sách để đầu tư cho giáo dục. Năm 2000,
ngân sách nhà nước chi cho giáo dục – đào tạo là 14,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 15%
trong tổng ngân sách nhà nước. Con số chi cho giáo dục - đào tạo năm 2004 là 34,4
nghìn tỷ đồng, chiếm 17,1% tổng số ngân sách nhà nước. Trong năm 2005, chi phí
cho giáo dục của Việt Nam chiếm 8,3% GDP (trong khi một nước phát triển như
Mỹ chỉ có 7,2%) [29]. Căn cứ vào số liệu thống kế của cuốn “Việt Nam – nghiên
cứu tài chính cho giáo dục” do Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Ngân hàng Thế giới xuất
bản năm 1996 thì: “chi tiêu của các hộ gia đình cho giáo dục - đào tạo ở mọi cấp
chiếm khoảng 43% tổng chi tiêu dành cho giáo dục trong năm 1994. Trong đó trên
dưới 50% chi phí cho giáo dục phổ thơng do học sinh đóng góp; Tỷ lệ đầu tư cho
giáo dục Đại học của ngân sách nhà nước là 69,3%, nhân dân đóng góp là 30,7%;
Đối với Trung học chuyên nghiệp, ngân sách nhà nước đầu tư là 67,8%, nhân dân
đóng góp là 32,2%. Tỷ lệ kinh phí do nhân dân đóng góp ở bậc học phổ thông cao
hơn cả: tiểu học là 44,5%, trung học cơ sở là 48,7%, trung học phổ thông là 51,5%.
Đối với giáo dục dạy nghề, nhân dân đóng góp là 62,1%” (Báo nhân dân số ra ngày
1/11/2005). Như vậy, Nhà nước và nhân dân đã tích cực đầu tư cho giáo dục - đào

tạo, thể hiện rõ chủ trương nhà nước và nhân dân “cùng làm” trong giáo dục - đào
tạo.
Xã hội hoá giáo dục - đào tạo khơng phải là giải pháp tài chính tạm thời mà là
phương thức phát triển giáo dục – đào tạo lâu dài và toàn diện.

20


Tư tưởng chỉ đạo của chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay
nhằm khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực; tiếp tục đổi mới một cách có
hệ thống và đồng bộ; tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục;
phục vụ đắc lực cơng nghiệp hố, hiện đạo hoá đất nước, chấn hưng đất nước, đưa
đất nước phát triển nhanh và bền vững, mau chóng sánh vai được với các nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới.
* Ba là, xây dựng một nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học,
hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Tại Điều 3, khoản 1 Luật Giáo dục năm 2005 có ghi: “Nền giáo dục Việt Nam
là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy
chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”.
Mục tiêu là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, giàu mạnh và tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Đối với giáo dục, mục tiêu đó phải thể hiện trên cả hai phương diện
nhân cách và xã hội.
Về mặt nhân cách, giáo dục phải đóng vai trị chủ đạo trong việc hình thành
con người lao động và có khả năng lao động tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã
hội. Đó là con người phát triển tồn diện. có đạo đức, tri thức, sức khoẻ và thẩm
mỹ, phát triển được năng lực cá nhân, có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên lập
thân, lập nghiệp, có ý thức cơng dân, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh.
Về mặt xã hội, mục tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải được thể
hiện trong giáo dục vĩ mơ. Việc tổ chức, quản lý, các chính sách giáo dục - đào tạo

phải theo hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công
lập trong hệ thống giáo dục quốc dân; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo, tạo cơ hội bình đẳng để ai ai cũng được học hành, nhất là bảo đảm cho
những đối tượng là con em những gia đình có cơng với nước. Nhà nước và xã hội
có cơ chế, chính sách giúp đỡ con em những gia đình nghèo học giỏi hoặc những
người khuyết tật đều có cơ hội và điều kiện học tập, khuyến khích những người học

21


×