Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỊ YẾN

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM NHIỀU TỘI
TRONG l UẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỊ YẾN

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM NHIỀU TỘI
TRONG lUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Tuyết Mai

Hà nội - 2014

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trịnh Thị Yến

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
1


MỞ ĐẦU

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH

8

PHẠT ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM
NHIỀU TỘI

1.1.

Các khái niệm cơ bản liên quan đến quyết định hình phạt đối

8

với người chưa thành niên phạm nhiều tội
1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội

8

1.1.2. Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm

9

nhiều tội
1.2.


Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

13

Chương 2:

22

THỰC TIỄN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM
NHIỀU TỘI

2.1.

Khái quát quy định của pháp hình sự Việt Nam về quyết định

22

hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội thời
kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
2.1.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước

22

khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999


4

26


2.2.

Quy định của bộ luật hình sự năm 1999 liên quan đến quyết

30

định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội
Chương 3:

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT

43

HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
PHẠM NHIỀU TỘI VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

3.1.

Thực tiễn áp dụng quy định của bộ luật hình sự về quyết định

43

hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội

3.2.

Hồn thiện pháp luật về quyết định hình phạt đối với người

61

chưa thành niên phạm nhiều tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam
3.2.1. Sự cần thiết của việc hồn thiện pháp luật về quyết định hình

61

phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội trong Bộ
luật hình sự Việt Nam
3.2.2. Một số đề xuất hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt

65

Nam năm 1999 về quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm nhiều tội
KẾT LUẬN

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

80

5



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

1.1

So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước

16

2.1

Tương quan giữa tổng số vụ án đã xét xử trên toàn quốc

44

bảng

và tổng số vụ án có bị cáo là người chưa thành niên đã bị
xét xử trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2007- 2012
2.2

Tương quan giữa tổng số bị cáo đã xét xử trên toàn quốc

44


với tổng số vụ án có bị cáo là người chưa thành niên đã bị
xét xử trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2007- 2012
2.3

Các vụ án hình sự có bị cáo là người chưa thành niên và
kết quả giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
từ năm 2007 đến năm 2012

6

45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý mọi mặt
đời sống xã hội bằng pháp luật. Pháp luật với tư cách là nhân tố điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội ln tác động đến các quan hệ xã hội nói chung và các
đối tượng mà nó điều chỉnh nói riêng. Để pháp luật phát huy được vai trò, tác
dụng và giá trị to lớn của nó, cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật có
tính khoa học đảm bảo tác động có hiệu quả đến các đối tượng mà pháp luật
điều chỉnh.
Trong những năm gần đây, thực trạng người chưa thành niên phạm tội
ngày một gia tăng. Số vụ án có người chưa thành niên phạm tội ngày càng
nhiều, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ngày càng cao. Tình
hình phạm tội nêu trên khơng chỉ gây ảnh hưởng đến sự ổn định của một đất
nước, mà còn tác động rất lớn đến đời sống tâm lí của cả xã hội nói chung và
của người thành niên nói riêng, làm hoang mang, mất niềm tin, tác động xấu
đến việc hình thành nhân cách và lí tưởng sống của thế hệ trẻ. Có những vụ án

đã trở thành nỗi ám ảnh, một "hiện tượng" của cuộc sống. Điển hình vụ án Lê
Văn Luyện (2010) cướp tiệm vàng, giết cả nhà chủ tiệm tại Bắc Giang; vụ án
My sói (2010) cùng đồng bọn thực hiện hàng loạt các tội phạm hiếp dâm, hiếp
dâm trẻ em, cướp tài sản tại Hà Nội...Đứng trước thực trạng đó, Nhà nước ta
đã sử dụng luật hình sự như một cơng cụ hữu hiệu, sắc bén để đấu tranh
phòng ngừa, chống tội phạm và để giáo dục, cải tạo người chưa thành niên
phạm tội trở thành cơng dân có ích cho gia đình và cộng đồng.
Bộ luật hình sự Việt Nam đã dành hẳn một chương quy định về người
chưa thành niên phạm tội và qua các lần sửa đổi bổ sung thì ngày càng hồn
thiện hơn. Tuy nhiên khi áp dụng vào thực tế vẫn còn bộc lộ những nhược

7


điểm, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của xu thế hội nhập cũng như yêu
cầu đấu tranh có hiệu quả với tình trạng tội phạm người chưa thành niên. Việc
áp dụng quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội
trong thực tiễn xét xử những năm vừa qua còn rất lúng túng, chưa thống nhất
trong việc áp dụng các quy định của pháp luật. Do những quy định của luật
chưa rõ ràng, chưa cụ thể, thiếu hoặc chưa có các văn bản pháp luật hướng
dẫn. Vì lý do trên cần phải sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hình
sự về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội cho
hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu thực tiễn khách quan.
Vì vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm nhiều tội trong pháp luật hình sự Việt Nam và
thực tiễn áp dụng để nhằm từng bước hoàn thiện các quy định về quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, nâng cao hiệu quả
của việc áp dụng hình phạt đối với họ là vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận
và thực tiễn.
Với nhận thức trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Quyết định hình phạt

đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội trong luật hình sự Việt Nam"
làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ trước đến nay có rất nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học về các
vấn đề liên quan đến quyết định hình phạt, cụ thể như:
Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có đề tài của các tác giả Dương Tuyết
Miên, Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội, 2003.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện có các đề tài của các tác giả Nguyễn
Tiến Hoàn, Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật
hình sự Việt Nam, Khoa Luật - Trường đại học Quốc Hà Nội, 2013; Nguyễn Thị
Thu Hiền, Hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên

8


phạm tội, Khoa Luật - Trường đại học Quốc Gia Hà Nội, 2010; Nguyễn Kim
Hiền, Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật
hình sự Việt Nam - Những vẫn đề lý luận và thực tiễn xét xử, Khoa Luật Trường đại học Quốc Gia Hà Nội, 2009; Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Khoa
Luật - Trường đại học Quốc Gia Hà Nội, 2007 v.v...
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chun khảo, bình luận có các cơng
trình sau: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Các nghiên cứu chuyên khảo về phần
chung luật hình sự, tập 1, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2000; Trịnh Quốc
Toản (2007) "Chương XVIII - Những đặc thù về trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội" trong sách Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(phần Chung) do GS.TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội; Trịnh Quốc Toản (Chủ biên - 2007), Tội phạm do người chưa
thành niên thực hiện trên địa bàn Hà Nội, thực trạng và giải pháp, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội; TS. Lê Văn Đệ, Định tội danh và quyết định hình phạt

trong luật hình sự Việt Nam; TS. Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết
định hình phạt, Nxb.Lao động - xã hội, Hà Nội, 2007; v.v...
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có
đề cập đến hình phạt như: Dương Tuyết Miên (2002), "Quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội", Tạp chí Luật học, số 4; Nguyễn Minh Hải
(2009), "Về nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt và đối với người chưa thành niên phạm tội", Tạp chí tịa
án nhân dân, số 16; Nguyễn Khắc Quang (2012), "Quyết định hình phạt trong
trường hợp người chưa thành niên chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt",
Tạp chí Kiểm sát, số Tân Xn, "Quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với
người chưa thành niên phạm tội", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 7; v.v…
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có một số cơng trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về quyết định hình

9


phạt. Những nghiên cứu về quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm nhiều tội mới chỉ dừng lại ở các cơng trình nghiên cứu chung
chung dưới góc độ các các bài viết đăng trên tạp chí, chưa có cơng trình
nghiên cứu nào phân tích sâu về quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm nhiều tội.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm nhiều tội trong luật hình sự Việt Nam" là địi hỏi khách
quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý
luận nội dung cơ bản của những quy định về quyết định hình phạt đối với

người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, xác định những
bất cập để đề xuất những giải pháp cụ thể, góp phần tiếp tục hồn thiện những
quy định này trong thời gian tới. Đồng thời, luận văn cũng nhằm giải quyết
một số vướng mắc trong việc áp dụng các quy phạm của chế định quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội góp phần nâng cao
hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện nói riêng và tội phạm nói chung ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ
Với mục đích nghiên cứu như đã đề cập ở trên, luận văn tập trung vào
việc giải quyết những nhiệm vụ sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của chế định này
trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, đồng thời so sánh chế định quyết
định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội theo luật
hình sự Việt Nam với chế định này của một số nước trên thế giới, từ đó làm
sáng tỏ bản chất pháp lý của những quy định về quyết định hình phạt trong
trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội theo luật hình sự Việt Nam.

10


Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu việc áp dụng các quy phạm pháp luật
của chế định quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên
phạm nhiều tội trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta. Trên cơ sở
phân tích, đánh giá những số liệu thống kê trên thực tế, những thiếu sót,
khuyết điểm và những vướng mắc của việc áp dụng pháp luật hình sự liên
quan đến chế định quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành
niên phạm nhiều tội tác giả đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần tạo
sự nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất.
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn
đề xung quanh quyết định hình phạt đối với người chưa thành nhiên phạm

nhiều tội trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá
tình hình áp dụng quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
nhiều tội trong thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp và những bất cập trong
việc áp dụng quy định này. Từ đó kiến nghị những hướng hoàn thiện luật thực
định và nâng cao hiệu quả áp dụng quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm nhiều tội trong thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chế định quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội theo luật hình sự Việt Nam
dưới góc độ của luật hình sự và nghiên cứu thực tiễn áp dụng quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội trên địa bàn cả nước trong
thời gian từ năm 2009 - 2013.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số

11


08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: Phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương
pháp quy nạp; phương pháp thống kê để tổng hợp các tri thức khoa học luật
hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện

lý luận và thực tiễn, vì đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về quyết định hình phạt trong trường hợp
người chưa thành niên phạm nhiều tội, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề
quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới quyết định hình phạt trong
trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội trong luật hình sự Việt
Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Đảm bảo sự nhận thức thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự về
quyết định hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội;
nêu ra các mâu thuẫn, bất cập trong các quy định hiện hành về quyết định hình
phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội; chỉ ra những sai
sót trong q trình áp dụng các quy định của luật hình sự, tìm nguyên nhân
khắc phục.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả áp dụng quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
nhiều tội trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp
hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật,

12


các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư
pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn
phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ đang
công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành
án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng
pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm nhiều tội.
Chương 2: Thực tiễn quy định của pháp luật hình sự Việt Nam liên
quan đến quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều
tội và đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật.

13


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM NHIỀU TỘI
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM NHIỀU TỘI

1.1.1. Ngƣời chƣa thành niên phạm tội
Thuật ngữ người chưa thành niên được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực
khác nhau với các cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu.
Theo tâm lý học, người chưa thành niên là người chưa hoàn thiện cả về mặt
thể chất và tâm lý, có một số đặc điểm tâm sinh lý đặc trưng như ham hiểu
biết, thích khẳng định mình song thiếu khả năng tự kiềm chế, non nớt về tri
thức xã hội, dễ bị ảnh hưởng tiêu cực song dễ giáo dục, uốn nắn. Theo cách
nhìn trong luật học thì người chưa thành niên là những người chưa trưởng
thành đầy đủ cả về thể chất và tinh thần. Vì vậy thường không cho phép người
chưa thành niên tự quyết định hoặc tự mình tham gia vào một số quan hệ xã
hội nhất định cũng như trao cho họ đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như

người đã thành niên. Thuật ngữ người chưa thành niên phạm tội được sử dụng
trong pháp luật hình sự để chỉ những người chưa thành niên đã thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự. Ở góc độ chung, xác định người chưa thành niên phạm tội dựa trên
độ tuổi của người đó. Đây là người chưa đủ độ tuổi theo pháp luật quốc gia
xác định là thành niên, song đã đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với
các hành vi đã thực hiện là tội phạm.
Như vậy, có thể đưa ra một định nghĩa về người chưa thành niên phạm
tội như sau: Người chưa thành niên phạm tội là người chưa thành niên thực
hiện tội phạm; tức là người chưa đủ tuổi được coi là thành niên - theo pháp
luật quốc gia quy định - đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.

14


Người chưa thành niên phạm tội được dựa trên hai tiêu chí là người
chưa đủ tuổi được coi là thành niên và đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Vệc quy định độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự được ghi nhận trong pháp luật hình sự của các
quốc gia. Tuy nhiên việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự giữa các
quốc gia có thể khác nhau hoặc trùng nhau. Một số quốc gia quy định tuổi
chịu trách nhiệm hình sự là 7 tuổi như Singapore, Jamaica… song trong pháp
luật hình sự một số quốc gia khác như Peru, Colombia…, tuổi chịu trách
nhiệm hình sự là 18 tuổi trùng với tuổi xác định là thành niên - thậm chí phạm
vi khái niệm người chưa thành niên phạm tội là rỗng. Đặc biệt có quốc gia
quy định sự khác biệt giữa nam và nữ trong tuổi chịu trách nhiệm hình sự như
tại Ấn Độ và Pakistan, tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 18 tuổi đối với nam và
16 tuổi đối với nữ [Dẫn theo 37]. Việc xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự
có tính chất hết sức quan trọng, địi hỏi sự cân nhắc rất kỹ tất cả các khía cạnh

pháp lý và các đặc điểm phát triển tâm sinh lý của lứa tuổi. Về quy định độ
tuổi người đã thành niên ở hầu hết các quốc gia đều tương đối thống nhất là
người đủ 18 tuổi được coi là người đã thành niên.
1.1.2. Quyết định hình phạt đối với ngƣời chƣa thành niên phạm
nhiều tội
Quyết định hình phạt là một cơng việc quan trọng trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự của Tịa án. Khi tìm hiểu về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm nhiều tội:
Thứ nhất, cần bàn về khái niệm quyết định hình phạt. Ở nước ta, trước
đây thuật ngữ quyết định hình phạt cịn có tên gọi là lượng hình. Sau khi Bộ
luật hình sự năm 1985 được ban hành và có hiệu lực pháp luật, thuật ngữ
lượng hình được thay bằng thuật ngữ quyết định hình phạt. Cho tới nay, ở
Việt Nam vẫn chưa có một văn bản pháp luật hình sự nào xác định khái niệm
quyết định hình phạt. Trong khoa học luật hình sự đã có nhiều tác giả đưa ra

15


khái niệm quyết định hình phạt. Đa số các tác giả cho rằng: Quyết định hình
phạt là việc Tịa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính
và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để
áp dụng cho người phạm tội. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, trong khoa
học luật hình sự cũng có ý kiến cho rằng khái niệm quyết định hình phạt cần
được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa hẹp và nghĩa rộng [71, tr. 68]. Quyết định
hình phạt như trên chỉ là theo nghĩa hẹp là việc Tịa án lựa chọn loại hình phạt
cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ
cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội. Cịn theo nghĩa
rộng thì quyết định hình phạt bao gồm các hoạt động: Xác định người phạm
tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt khơng, xác định
khung hình phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung

hình phạt hoặc dưới khung đó [70, tr. 65-66].
Quyết định hình phạt được đặt ra đối với trường hợp người phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự và bị áp dụng hình phạt. Đối với hình phạt
chính, đa số hình phạt quy định cho các tội phạm là chế tài lựa chọn. Do vậy,
nếu trong khung hình phạt có nhiều loại hình phạt khác nhau thì quyết định
hình phạt là việc lựa chọn một hình phạt cụ thể trong các hình phạt đó và xác
định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi cho phép để áp dụng đối với người
phạm tội. Trường hợp hình phạt mà Tịa án tun cho bị cáo là cảnh cáo, trục
xuất, tù chung thân hoặc tử hình thì quyết định hình phạt thực chất chỉ là việc
lựa chọn hình phạt mà khơng có bước xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng
cho người phạm tội. Đối với hình phạt bổ sung, việc quyết định hình phạt tương
tự như quyết định hình phạt chính. Đó là việc lựa chọn hình phạt bổ sung (có thể
là một hoặc nhiều loại nếu luật quy định có thể áp dụng nhiều loại hình phạt
bổ sung) và xác định mức hình phạt trong phạm vi cho phép để áp dụng kèm
theo hình phạt chính. Tuy nhiên quyết định hình phạt chính vẫn là nội dung
cơ bản của quyết định hình phạt và quyết định bản chất khái niệm hình phạt.

16


Thứ hai, khái niệm phạm nhiều tội. Phạm nhiều tội là trường hợp một
người có nhiều hành vi phạm tội hoặc chỉ có một hành vi phạm tội nhưng đã
thỏa mãn từ hai cấu thành tội phạm khác nhau trở lên và bị xét xử cùng một
lần về các tội phạm đó. Như vậy, chỉ coi là phạm nhiều tội khi có đầy đủ các
dấu hiệu sau:
1) Một người phạm từ hai tội trở lên;
2) Các tội đó chưa bị đưa ra xét xử;
3) Các tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, khơng
thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự;
4) Bị đưa ra xét xử cùng một lần.

Người phạm nhiều tội có thể thực hiê ̣n nhiề u hành vi pha ̣m tô ̣i khác
nhau hoă ̣c có thể chỉ thực hiê ̣n mô ̣t hành vi pha ̣m tô ̣i.
Trong trường hợp người phạm nhiều tội qua viê ̣c thực hiê ̣n nhiều hành
vi phạm tội khác nhau, các hành vi thỏa mãn các cấu thành tội phạm khác
nhau có thể xảy ra độc lập , nhằm mục đích khác nhau , khơng có quan hệ hữu
cơ với nhau hoặc cùng nhằm một mục đích , có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Các tội phạm có thể (thơng thường) được quy định tại các điều luật khác nhau
hoă ̣c cá biệt đươ ̣c quy đinh
̣ trong cùng một điều luật.
Ví dụ: Vụ án Trần Xuân Tân phạm tội trộm cắp tài sản và cố ý gây
thương tích tại Thành phố Hồ Chí Minh. Theo nội dung vụ án, vào đầu năm
2008, Tân thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe máy trị giá 13 triệu đồng và
bị chủ xe cùng người dân phát hiện, đuổi bắt khiến Tân phải bỏ lại xe tháo
chạy. Khi bị chủ xe đuổi kịp, Tân rút dao bấm đâm vào đùi chủ xe gây thương
tật 26% vĩnh viễn. Như vậy, Tân đã phạm 2 tội qua 2 hành vi phạm tội khác
nhau. Trong đó, hành vi cố ý gây thương tích 26% vừa thỏa mãn cấu thành tội
phạm cố ý gây thương tích vừa được xem là tình tiết hành hung để tẩu thốt tình tiết tăng nặng định khung của tội phạm trộm cắp tài sản. Hành vi phạm

17


tội cố ý gây thương tích là hành vi tiếp liền, xuất phát từ việc thực hiện hành
vi phạm tội trộm cắp tài sản bị phát hiện.
Trong trường hợp người phạm nhiều tội qua việc thực hiện một hành
vi phạm tội, hành vi phạm tội này thỏa mãn đồng thời nhiều cấu thành tội
phạm khác nhau do một cấu thành tội phạm chưa thu hút hết các tình tiết có ý
nghĩa về mặt pháp lý hình sự của hành vi phạm tội, từ đó, một hành vi phạm
tội này (tồn bộ hoặc một phần các hành vi thực hiện cụ thể) lại cấu thành tội
thứ hai. Các trường hợp cụ thể có thể xảy ra là:
1) Một hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu của hai cấu thành tội

phạm cụ thể khác nhau trở lên;
Ví dụ: A thực hiện hành vi dùng súng quân dụng bắn chết B do có
hiềm khích và mâu thuẫn, hành vi của A đã đồng thời cấu thành tội giết người
và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.
2) Một hành vi phạm tội đồng thời thỏa mãn hai cấu thành tội phạm
đồng phạm của hai tội cụ thể khác nhau trở lên;
Ví dụ: B cho C mượn mã tấu mà biết C dùng để giết người và cướp
tiệm vàng, hành vi của B đã cấu thành đồng phạm tội phạm giết người và
đồng phạm tội phạm cướp tài sản;
3) Một hành vi phạm tội vừa thỏa mãn cấu thành tội phạm cụ thể vừa
thỏa mãn cấu thành tội phạm đồng phạm của tội cụ thể khác.
Ví dụ: D là cán bộ hải quan đã nhận tiền của tư thương để mặc cho họ
buôn lậu, D vừa là chủ thể độc lập của tội nhận hối lộ vừa là chủ thể đồng
phạm của tội bn lậu.
Trong khoa học hình sự, phạm nhiều tội cũng được phân biệt với tái
phạm, tái phạm nguy hiểm; phạm tội nhiều lần, phạm tội có tính chất chun
nghiệp; tội liên tục, tội kéo dài, tội ghép. Các tình tiết được phân biệt này đều
thuộc một tội đang bị xét xử, quyết định hình phạt trong các trường hợp này
đều thuộc về quyết định hình phạt đối với một tội.

18


Từ phân tích trên tác giả đưa ra khái niệm: Quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội là quyết định hình phạt trong trường hợp bị cáo
đã phạm từ hai tội trở lên, những tội đó chưa bị đưa ra xét xử, chưa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và bị đưa ra xét xử cùng một lần.
Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều
tội Tịa án quyết định hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể, sau đó tổng hợp
hình phạt chung của các tội phạm đó.

1.2. CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI

Việc xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội địi hỏi
trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội phải được giảm nhẹ
so với người đã thành niên trong trường hợp phạm tội tương đương về tính
chất nguy hiểm và các tình tiết có ý nghĩa pháp lý khác; mức giảm nhẹ phụ
thuộc vào lứa tuổi. Như vậy, loại hình phạt áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội được lựa chọn về tính chất có mức độ ít nghiêm khắc hơn và
mức hình phạt dành cho họ cũng nhẹ nhàng hơn; các điều kiện miễn hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội được thay thế bằng các biện pháp tư
pháp đặc thù dễ dàng hơn (nếu hiểu quyết định hình phạt theo nghĩa rộng).
Bên cạnh đó, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ở các
độ tuổi khác nhau có sự phân hóa về mức độ nặng, nhẹ xuất phát từ cơ sở tâm
sinh lý và nhận thức phát triển mau lẹ ở người ở người chưa thành niên, (do
đó) đặc điểm mỗi nấc thang lứa tuổi chưa thành niên là rất khác nhau.
Hình phạt dành cho người chưa thành niên phạm tội phải được giảm nhẹ
với mức độ giảm nhẹ phù hợp với từng độ tuổi chưa thành niên so với người đã
thành niên ở trường hợp phạm tội tương tự. Đây là sự nhấn mạnh nguyên tắc
nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội đồng thời là sự cụ thể hóa
nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự giữa người đã thành niên phạm tội với

19


người chưa thành niên phạm tội và giữa những người chưa thành niên phạm tội
ở các độ tuổi khác nhau.
Dựa trên nguyên tắc hình phạt dành cho người chưa thành niên phạm tội
phải được giảm nhẹ hơn so với hình phạt người đã thành niên phạm tội và hình
phạt dành cho người chưa thành niên phạm nhiều tội phải nặng hơn hình phạt

người chưa thành niên phạm một tội nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc bao
trùm, mang tính chỉ đạo, thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta
trong quá trình xử lý vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên. Hình phạt được
tuyên cần bảo đảm nguyên tắc tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi đã thực hiện. Phạm nhiều tội thường có mức độ nguy
hiểm cho xã hội cao hơn phạm một tội, do đó, hình phạt được quyết định buộc
người phạm tội phải chấp hành ở đây thường nặng hơn trường hợp phạm một
tội. Điều này cũng chính là nội dung cụ thể của ngun tắc cơng bằng trong
quyết định hình phạt được áp dụng cho trường hợp phạm nhiều tội.
Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thường được thể
hiện qua mức độ gây thiệt hại và mức độ lỗi. Phạm nhiều tội thường để lại
một mức độ thiệt hại lớn hơn so với phạm tội đơn lẻ. Đa số các trường hợp
phạm nhiều tội có mối liên hệ mật thiết giữa các tội với nhau; việc thực hiện
tội này là tiền đề, cơ sở cho việc thực hiện tội khác và thường được người
phạm tội tính tốn trước hoặc ngay trước khi có hành vi xâm phạm khách thể.
Ngoài ra, mức độ lỗi của phạm nhiều tội thường cao hơn phạm một tội, ý chí
quyết tâm phạm tội cao hơn, kéo dài hơn để thực hiện nhiều hành vi, xâm
phạm nhiều điều cấm của pháp luật. Do đó, trách nhiệm hình sự của người
phạm nhiều tội thường cao hơn so với trách nhiệm hình sự của người phạm
một tội bắt nguồn từ nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự tương xứng
giữa tính chất và mức độ nghiêm khắc của hình phạt với tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi - nguyên tắc chung của luật hình sự.

20


Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng, một thực tế tồn tại ở
tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới đều giải quyết vấn đề
người chưa thành niên phạm tội theo những mức độ, cách thức khác nhau như
đưa ra các quy định về người chưa thành niên nói chung và người chưa thành

niên phạm tội nói riêng, cũng như các chế tài xử lý người chưa thành niên phạm
tội phù hợp với điều kiện kinh tế- văn hóa - xã hội, phong tục, tập quán, pháp
luật của mỗi quốc gia.
Thứ nhất, về kỹ thuật lập pháp việc quy định về chính sách xử lý hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội có thể được các quốc gia quy định thành
một chương riêng hoặc nằm rải rác ở các điều luật trong pháp luật hình sự của
mỗi nước.
Bộ luật hình sự nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dành một
chương riêng (chương X) quy định về chính sách xử lý đối với người chưa thành
niên phạm tội.
Cũng giống như ở Việt Nam, Bộ luật hình sự của Liên bang Nga năm
1996, sửa đổi bổ sung năm 2010 cũng xây dựng một chương riêng quy định
trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội với những điều luật
tương đồng với pháp luật hình sự Việt Nam. Cụ thể được nhà làm luật điều
chỉnh trong phần V chương 14 với 10 điều luật (từ Điều 87- 96).
Không giống như pháp luật hình sự Liên bang Nga, pháp luật hình sự
của Thái Lan khơng quy định chính sách hình sự đối với người chưa thành niên
thành hệ thống chương, điều khoản cụ thể mà nó được nằm rải rác ở những điều
luật khác nhau.
Bộ luật hình sự Trung Hoa năm 1997 khơng có quy định một chương
riêng biệt đối với trường hợp người chưa thành niên phạm tội, các quy định này
nằm rải rác ở các điều luật khác nhau.
Thứ hai, về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Các quốc gia quy định cụ
thể độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự và việc quy định về mức

21


khởi điểm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội
ở mỗi quốc gia không giống nhau.

Bảng 1.1: So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước
Quốc gia

Tuổi chịu
trách nhiệm
hình sự

Anh-xứ Wales

10

Đức

14

Namibia

10

Angiêri

13

Hy lạp

13

Hà Lan

12


Inđơra

16

Hồng Kơng

16

Niu Dilân

10

Áchentina

16

Hunggary

14

Bắc Ailen

10

Ácmênia

14

Ấn Độ


7

Na Uy

15

Ơxtrâylia

10

Irắc

9

Philippin

9

Áo

14

Ailen

12

Ba Lan

13


Adecbaidan

14

Ixraen

13

Bồ Đào Nha

16

Bácbađốt

7

Italia

14

Rumani

16

Bêlarút

14

Giamaica


7

Nga

14

Bỉ

16

Hàn Quốc

14

Nhật Bản

14

Bôxnia

14

Côoét

7

Xingapo

7


Bulgari

14

Libăng

12

Nam Phi

10

Canada

12

Libi

8

Tây Ba Nha

14

Đảo Xâyman

8

Malaixia


10

Thụy sĩ

7

Chilê

16

Mêhicô

6

Thái Lan

7

Trung Quốc

14

Đan Mạch

15

Thổ Nhĩ Kỳ

12


Cơlơmbia

18

Ai cập

15

Ucraina

14

Cuba

16

Phần Lan

15

Hoa kỳ

6+/N

Quốc gia

Tuổi chịu
trách nhiệm
hình sự


Quốc gia

Tuổi chịu
trách nhiệm
hình sự

Nguồn: Neal Hezel, so sánh giữa các quốc gia về tư pháp người chưa
thành niên, Ủy ban tư pháp thanh thiếu niên của Anh và Xứ Weles-YJB,
www.yjb.gov.uk.
Điều 68 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: Người chưa thành niên từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ

22


14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là
tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự.
Bộ luật hình sự của Liên bang Nga quy định trách nhiệm hình sự của
người chưa thành niên là lúc thực hiện tội phạm đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18
tuổi (Điều 87).
Theo Điều 72 Bộ luật hình sự Thái Lan, thì một đứa trẻ chưa đến 7 tuổi
cũng bị áp dụng hình phạt vì những tội đã được pháp luật quy định.
Bộ luật hình sự nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa quy định độ tuổi
của người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi.
Thứ ba, về nguyên tắc xử lý và phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Pháp luật hình sự Việt Nam quy định khi xét xử chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp người chưa thành niên nhận thức được sai lầm và tuân thủ quy định của

pháp luâ ̣t. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình
sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại khơng
lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận
giám sát, giáo dục. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên
phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp
cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm
về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Đây là quy định phù hợp
với pháp luật quốc tế về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm
tội. Theo nguyên tắc này thì khơng phải mọi trường hợp người chưa thành niên
phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự
chỉ được đặt ra khi nó thật sự cần thiết và xuất phát từ yêu cầu phòng ngừa tội
phạm. Ngay kể cả khi người chưa thành niên phạm tội và bị truy cứu trách
nhiệm hình sự thì họ vẫn có khả năng khơng bị áp dụng hình phạt.
Cũng giống như pháp luật hình sự nước ta, Bộ luật hình sự Liên bang
Nga cũng quy định về chế định miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt

23


có điều kiện đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo đó, "người chưa
thành niên bị kết án về tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng có thể được
Tịa án miễn hình phạt và áp dụng các biện pháp giáo dụng bắt buộc" (Điều 92).
Tiếp thu và kế thừa những thành tựu của nền tư pháp hình sự người chưa
thành niên, với các hình thức: Cảnh cáo, giao cho cha mẹ hoặc người thay cha
mẹ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, buộc bồi thường thiệt hại gây ra,
hạn chế sự nhàn rỗi và đặt ra những đòi hỏi riêng đối với cư xử người chưa
thành niên (Điều 90, 91).
Thứ tư, về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chính sách: Khơng
xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi

áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án hạn chế áp
dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên
phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành
niên phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa
thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Khơng áp dụng
hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
Bộ luật hình sự Liên bang Nga khơng áp dụng hình phạt tù chung thân,
tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội (Điều 89), đối với hình phạt tước
tự do (tù giam, tù có thời hạn) theo Điều 89 Bộ luật hình sự Liên bang Nga,
người chưa thành niên cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với người
trưởng thành và chỉ áp dụng đối với người từ 16 tuổi trở lên: " Phạt giam được
quyết định đối với người bị kết án chưa thành niên đủ 16 tuổi khi tuyên án, thời
hạn từ 1 tháng đến 4 tháng (đối với người trưởng thành thời hạn phạt giam từ từ
1 tháng đến 6 tháng - Điều 55); "Phạt tù được quyết định đối với người bị kết án
chưa thành niên với thời hạn không quá 10 năm…" (đối với người trưởng thành
thời hạn phạt tù không quá 20 năm - Điều 57). Về việc hướng dẫn quyết định
hình phạt, ngồi việc tn theo ngun tắc chung (tính có lỗi của hành vi phạm

24


tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ) Bộ
luật hình sự Liên bang Nga cũng qui định nguyên tắc riêng khi quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội: "… cần tính đến điều kiện sống và
giáo dục của họ, mức độ phát triển tâm lý, những đặc điểm khác về nhân thân
cũng như ảnh hưởng của người lớn đối với họ".
Bộ luật hình sự nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa năm 1997 quy
định rất cụ thể các loại tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là tội giết người hoặc cố ý gây thương tích
dẫn đến thương tích nặng hoặc chết người, hiếp dâm, cướp giật, mua bán chất

ma túy, đốt nhà, đặt bom, đầu độc. Khi quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội Tịa án quyết định giảm nhẹ hình phạt so với người
đã thành niên. Hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, tước đi mạng
sống của người phạm tội không được áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là việc xử lý người chưa thành niên
tại Việt Nam là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Theo Điều 72 Bộ luật hình sự Thái Lan, thì một đứa trẻ chưa đến 7 tuổi
cũng bị áp dụng hình phạt vì những tội đã được pháp luật quy định. Trẻ em từ
7 đến 14 tuổi nếu phạm tội cũng bị xét xử và có thể chịu hình phạt tù nhưng
Tòa án sẽ quyết định biện pháp xử lý đặc biệt bằng cách đưa vào một trường
cải tạo hoặc gửi trẻ em đó cho một người hay một cơ quan nào mà Tịa án
thấy có khả năng thích hợp với việc cải tạo, giáo dục trẻ em đó (Điều 74 Bộ
luật hình sự Thái Lan).
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội:
Pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới như Nga, Trung Quốc, Nhật
Bản, Thái Lan… đều không quy định cụ thể trường hợp quyết định hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội. Khi đề cập đến quyết định hình

25


×