Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vấn đề về công nhận và thi hành tại việt nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài luận văn ths luật 60 38 60

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THU HÀ

VẤN ĐỀ VỀ CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH
TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
CỦA TỊA ÁN NƯỚC NGỒI

Cơng trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Trung Tín

Phản biện 1:

Phản biện 2:
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2007.

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2007

Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội





MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Mở đầu
Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG

6

NHẬN VÀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN
SỰ CỦA TỊA ÁN NƯỚC NGỒI

1.1.

Khái niệm công nhận và thi hành các bản án, quyết định
dân sự của Tịa án nước ngồi

6

1.1.1.

Khái niệm bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi

6


1.1.2.

Định nghĩa công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của Tịa án nước ngồi

11

1.2.

Trình tự thủ tục và điều kiện công nhận và thi hành bản án,
quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi

13

1.2.1.

Trình tự và thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi

14

1.2.2.

Các điều kiện cơng nhận và thi hành bản án, quyết định dân
sự của Tòa án nước ngoài

16

1.2.3.


Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về công nhận và thi
hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi

18

1.2.3.1. Cơng nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa
án nước ngồi tại Anh và xứ Wale

18

1.2.3.2. Cơng nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa
án nước ngồi tại Cộng hịa Liên bang Đức

21

1.2.3.3. Cơng nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa
án nước ngồi tại Singapo

22


1.2.3.4. Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa

24

án nước ngồi tại Thái Lan
1.2.3.5. Cơng nhận và thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước

25


ngồi tại Pháp
1.2.3.6. Cơng nhận và thi hành bản án, quyết định của Tịa án nước

29

ngồi tại Thụy Điển
1.3.

Cơ sở pháp luật của việc công nhận và thi hành Tại Việt

30

Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
1.3.1.

Khái niệm chung

30

1.3.2.

Các điều ước quốc tế

36

1.3.2.1. Điều ước quốc tế đa phương

36


1.3.2.2. Điều ước quốc tế đa phương

40

1.3.3.

42

Nguồn pháp luật quốc nội về công nhận và thi hành bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi
Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CƠNG

47

NHẬN VÀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI

2.1.

Các điều ước quốc tế

47

2.2.

Các văn bản pháp luật

58


2.2.1.

Hiến pháp năm 1992

61

2.2.2.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định về công nhận và

62

thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi
tại Việt Nam
2.2.2.1. Trình tự và thủ tục xét đơn u cầu cơng nhận và thi hành tại

62

Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi
2.2.2.2. Các điều kiện để được công nhận và thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi

77


2.2.3.

Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004


87

2.2.4

Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí
và lệ phí Tịa án

88

2.3.

Việc thực thi pháp luật về cơng nhận và thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi

89

Chương 3: HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG NHẬN VÀ THI

98

HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TỊA ÁN
NƯỚC NGỒI TẠI VIỆT NAM

3.1.

Về các điều ước quốc tế

98

3.2.


Về các văn bản pháp luật

102

3.2.1.

Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

103

3.2.2.

Xây dựng Luật thi hành án

106

3.2.3.

Hiến pháp năm 1992 cần sửa đổi, bổ sung

108

2.3.4.

Sửa đổi Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về
án phí, lệ phí Tịa án

109


2.3.

Về thực thi pháp luật việc công nhận và thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi

110

KẾT LUẬN

113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

117


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đến nay, Nhà nước ta
đã thi hành chính sách mở cửa, từng bước thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Đứng trước xu thế hội
nhập tồn cầu hóa hiện nay, bên cạnh việc chủ động phát triển đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội bằng sức mạnh của mình, Nhà nước ta cịn chủ
trương khơng ngừng mở rộng các quan hệ quốc tế trên cơ sở hợp tác cùng có
lợi, tạo điều kiện cho việc thiết lập các giao lưu dân sự quốc tế ngày càng phát
triển, đưa nền kinh tế Việt Nam hòa nhập, phát triển cùng sánh vai với các
nước trong khu vực cũng như khẳng định vị thế của mình trên thế giới.
Việt Nam đã là thành viên thuộc khối ASEAN, một tổ chức có vị thế

của khu vực Đông Nam Á và năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thể hiện sự
rộng mở hơn của Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Chúng ta đã ký kết và gia
nhập các điều ước quốc tế đa phương, song phương trên nhiều lĩnh vực nhằm
thúc đẩy sự phát triển của đời sống xã hội, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân. Điều đó khẳng định chủ trương của nhà nước ta là mở
rộng quan hệ quốc tế, cùng các quốc gia thực hiện mục tiêu chung là tiến tới
ổn định, hịa bình và bình đẳng trên cơ sở hợp tác cùng có lợi, tơn trọng chủ
quyền quốc gia của nhau trong quan hệ quốc tế với các quốc gia khác. Tất cả
hướng tới sự hịa bình, ổn định và thịnh vượng.
Trong bối cảnh đó, các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngồi phát triển. Sự phát triển các quan hệ ấy cũng kéo theo sự gia tăng các
tranh chấp dân sự, các yêu cầu dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi.

1


Để bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên thúc đẩy quan hệ dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài phát triển theo hướng phù hợp với chính sách
đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, việc phân định thẩm quyền quốc tế và xác
định chọn luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp và vụ việc dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi một cách phù hợp có một ý nghĩa rất quan
trọng. Song có một khâu cũng khơng kém phần quan trọng là việc cơng nhận
và thi hành quyết định mang tính chất dân sự của Tịa án nước ngồi tại Việt
Nam và của Tịa án Việt Nam tại nước ngồi. Bởi vì, nếu khâu này giải quyết
khơng tốt thì các khâu trước đó như trên đã nêu dù có giải quyết tốt đến đâu
cũng có thể chỉ có ý nghĩa về mặt đạo đức.
Chính vì vậy, trong thời gian qua, bên cạnh việc quan tâm giải quyết
vấn đề phân định thẩm quyền quốc tế và chọn luật áp dụng để giải quyết các
vấn đề trên, Nhà nước ta đã dành sự quan tâm thích đáng tới việc giải quyết

vấn đề cơng nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định mang tính chất dân sự
của Tịa án nước ngồi.
Tuy nhiên, thực tế giải quyết việc công nhận và thi hành tại Việt Nam
quyết định của Tịa án nước ngồi cịn gặp nhiều lúng túng như: hiểu thế nào
là quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi (?); trình tự, thủ tục cơng nhận và
thi hành cịn có nhiều vấn đề nan giải (?); các điều kiện công nhận và thi hành
tại Việt Nam quyết định của Tịa án nước ngồi cịn chưa được vận dụng một
cách phù hợp.
Các cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề trên bao gồm Giáo
trình tư pháp quốc tế của Khoa Luật (do PGS.TS Nguyễn Bá Diến chủ biên),
Trường Đại học quốc gia Hà Nội; Giáo trình tư pháp quốc tế (do TS. Bùi
Xuân Nhự chủ biên), Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình tư pháp quốc tế (do
TS. Bùi Trung Tín chủ biên), Đại học Huế, Nxb Cơng an nhân dân); Giáo
trình Tố tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình
Luật quốc tế của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội...; các bài tạp chí
chuyên ngành luật học như Tạp chí Luật học, Dân chủ và pháp luật, Tạp chí

2


Tòa án nhân dân, Nhà nước và pháp luật…, một số luận văn như luận văn cao
học: về công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa
án nước ngồi; Luận văn tiến sĩ luật học về đổi mới và hoàn thiện khung pháp
luật kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam...
Các cơng trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện pháp luật
Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, vấn đề công nhận và thi hành bản án,
quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi chưa được nghiên cứu một cách hệ
thống.
Trong thời gian từ năm 1980 đến nay Nhà nước ta đã ký được 15 hiệp
định tương trợ tư pháp trong đó có qui định thực hiện tương trợ về vấn đề

công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại
Việt Nam và ngược lại. Để thực hiện các hiệp định này, pháp luật quốc gia có
những qui định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành công nhận và thi
hành bán án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi tại Việt Nam. Trước
khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu lực, vấn đề công nhận và thi
hành quyết định của Tịa án nước ngồi được qui định tại Pháp lệnh về cơng
nhận và thi hành quyết định của Tịa án nước ngoài năm 1993. Khi Bộ luật tố
tụng dân sự 2004 có hiệu lực thì đây là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan
nhà nước có thẩm quyền áp dụng nhằm bảo bệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
công dân, pháp nhân trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi khi tranh
chấp đó được Tịa án nước ngoài giải quyết. Tuy nhiên, việc áp dụng các qui
định trong các văn bản kể trên về việc công nhận và thi hành bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi cịn gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu có hệ thống vấn đề công nhận và thi
hành các bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi tại Việt Nam vẫn
đang là một nhu cầu bức xúc trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng đòi hỏi
cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.

3


Xuất phát từ những cơ sở nêu trên, tác giả đã lựa chọn: "Vấn đề về
công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi" làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
2.1. Mục đích
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về công nhận và thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi;
- Xây dựng các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn
đề trên.

2.2. Nhiệm vụ
- Luận văn phân tích cơ sở lý luận của việc công nhận và thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi;
- Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về công nhận và thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi;
- Phân tích các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về vấn đề công nhận
và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan hệ về công nhận và thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi. Đây là vấn
đề rất rộng bao gồm các khía cạnh ngoại giao, lịch sử, xã hội học, pháp lý. Tác
giả dừng ở việc xem xét các khía cạnh pháp lý từ góc độ của tư pháp quốc tế.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở và phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể như lịch sử, thống kê, phân tích, tổng
hợp, so sánh.
5. Điểm mới của luận văn

4


- Phân tích một số vấn đề lý luận và nêu ra những hạn chế, bất cập của
pháp luật Việt Nam về việc công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngồi.
- Chỉ ra những hạn chế cịn tồn tại trong việc thực hiện q trình cơng
nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài
- Đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công
nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
6. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài công nhận và thi

hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nƣớc ngồi
Luận văn có một số ý nghĩa thực tiễn sau:
- Góp phần làm rõ hơn các cơ sở lý luận của việc công nhận và thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi.
- Có giá trị tham khảo đối với các cơ quan lập pháp trong q trình
hồn thiện pháp luật về việc công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi.
- Có giá trị tham khảo đối với các cơ quan hành pháp và tư pháp trong
hoạt động công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngồi.
- Có giá trị tham khảo cho giảng dạy và học tập chuyên đề về việc
công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi.
- Có giá trị nâng cao kiến thức và tri thức của các cá nhân và pháp
nhân Việt Nam cũng như nước ngồi về việc cơng nhận và thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 9 mục.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH
BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TỊA ÁN NƢỚC NGỒI

1.1. KHÁI NIỆM CƠNG NHẬN VÀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƢỚC NGOÀI


1.1.1. Khái niệm bản án, quyết định dân sự của Tịa án nƣớc ngồi
Về mặt lý luận và thực tiễn tư pháp quốc tế, bản án, quyết định dân sự
của Tịa án một nước khơng đương nhiên có hiệu lực thi hành trên lãnh thổ
nước ngồi, chúng chỉ có hiệu lực trong phạm vi quốc gia đó. Các bản án,
quyết định đối với cá nhân, pháp nhân nước ngoài liên quan đến vụ việc dân
sự muốn được thi hành phải tuân theo một thủ tục tư pháp đặc biệt để được
cơng nhận và thi hành. Điều này hồn tồn xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản
của tư pháp quốc tế. Xuất phát từ tính chất của chế độ chính trị, kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia mà tư pháp quốc tế của mỗi nước có những hệ nguyên tắc
riêng của mình. Phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế các
nước, tư pháp quốc tế Việt Nam cũng có các nguyên tắc cơ bản như: nguyên
tắc bình đẳng về mặt pháp lý giữa chế độ sở hữu khác nhau; nguyên tắc
không phân biệt đối xử giữa công dân Việt Nam (nước sở tại) và người nước
ngoài, giữa người nước ngoài với nhau trên lãnh thổ Việt Nam; nguyên tắc
công nhận quyền miễn trừ của quốc gia; nguyên tắc có đi có lại [15, tr. 1317].
Đây là nguyên tắc đặc thù của tố tụng dân sự quốc tế. Theo các nguyên
tắc này, khi giải quyết các vụ việc dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngồi, về mặt tố tụng, Tịa án có thẩm quyền chỉ áp dụng luật tố tụng của
nước mình (trừ trường hợp ngoại lệ được qui định trong pháp luật của từng

6


nước hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước đó tham gia). Đây là quan
điểm được tất cả các quốc gia trên thế giới thừa nhận.
Hiện nay với xu thế tồn cầu hóa, các quan hệ giao lưu dân sự, kinh
tế, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình… ngày càng đa dạng và phong
phú. Từ đó địi hỏi các qui phạm pháp luật của tư pháp quốc tế ngày càng
được hoàn thiện và điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội phát sinh trong
quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế, đó là các quan hệ xã

hội mang tính dân sự có yếu tố nước ngồi.
Vấn đề cơng nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi được các quốc gia đặc biệt quan tâm và không ngừng hoàn thiện
các quy định pháp luật về vấn đề này. Xét về bản chất, việc công nhận và thi
hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài thuộc thẩm quyền của
cơ quan tư pháp của mỗi quốc gia và tuân theo trình tự, thủ tục đặc biệt, nhân
danh cho nhà nước mình để xem xét cơng nhận và thi hành một bản án, quyết
định của Tòa án nước ngồi, tức là mang tính quyền lực của quốc gia đó cho
phép bản án, quyết định được thực thi trên lãnh thổ của quốc gia mình.
Sở dĩ đặt vấn đề về công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân
sự của Tịa án nước ngồi là do sự phát triển giao lưu dân sự quốc tế làm cho
vụ việc, án kiện dân sự có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều. Những bản án,
quyết định dân sự cần phải được thực hiện ở nước ngoài hoặc đối tượng của
vụ tranh chấp là tài sản đang ở nước ngồi, nếu nước ngồi hữu quan khơng
cơng nhận thì không thể thi hành được bản án, quyết định dân sự đó. Nếu bản
án, quyết định dân sự khơng được thi hành thì lợi ích chính đáng của các bên
đương sự không được bảo vệ và ảnh hưởng đến quá trình ổn định và phát
triển các quan hệ giao lưu dân sự quốc tế.
Thực tiễn tư pháp trong nhiều năm qua đã chứng minh rằng muốn đẩy
mạnh quan hệ kinh tế, buôn bán quốc tế, để thu lợi nhuận, các nước muốn bảo
vệ lợi ích chính đáng của cơng dân, pháp nhân của nhà nước mình thì cũng

7


phải tơn trọng và bảo vệ lợi ích của cơng dân, pháp nhân của nhà nước nước
ngoài. Muốn làm được việc đó thì việc xem xét cơng nhận và thi hành bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được đặt ra.
Trước tiên, cần phải hiểu về khái niệm "Tịa án nước ngồi". Tịa án
nước ngồi là cơ quan tài phán được thành lập và hoạt động theo pháp luật

nước ngồi - tương tự như Tịa án quốc gia sở tại.
Tòa án là một trong những cơ cấu thiết chế của nhà nước, đại diện cho
nhà nước thực thi những nhiệm vụ và chức năng do pháp luật qui định.
Bản án, quyết định dân sự của tòa án là bản án, quyết định mà Tòa án
nhân danh nhà nước để giải quyết các tranh chấp hoặc vụ việc phát sinh trong
các quan hệ xã hội được pháp luật qui định.
Theo quan niệm và thực tiễn của các nước, bản án, quyết định dân sự
của Tịa án nước ngồi là những bản án, quyết định mang tính chất tài sản và
phi tài sản do Tịa án nước ngồi tun hoặc đưa ra. Vậy bản án, quyết định
này sẽ bao gồm các bản án dân sự như sở hữu, mua bán, tặng cho, thế chấp,
cầm cố tài sản, thừa kế, quyền tác giả, phát minh sáng chế, đền bù thiệt hại
trong hợp đồng và ngoài hợp đồng; bản án, quyết định về hơn nhân và gia
đình, lao động, kinh tế, vấn đề cấp dưỡng; quyết định về tài sản trong vụ án
hình sự, quyết định về giải quyết tranh chấp thương mại trong buôn bán quốc
tế... Theo quan điểm của các nước trên thế giới thì bản án, quyết định dân sự
của Tòa án là kết quả của việc áp dụng trình tự, thủ tục tố tụng dân sự để giải
quyết vụ việc dân sự của Tịa án, ngồi ra bản án, quyết định của Tịa án nước
ngồi về các vấn đề dân sự còn bao gồm cả các bản án, quyết định về các vấn
đề khác theo pháp luật quốc gia qui định.
Một quốc gia hữu quan được yêu cầu công nhận và thi hành quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi sau khi tiến hành các trình tự thủ tục xem
xét các điều kiện tính hợp pháp và hiệu lực của bản án do Tòa án nước ngoài
tuyên, việc xác nhận hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước

8


ngoài tức là xác nhận quyền năng dân sự cũng như các quyền năng khác và
nghĩa vụ của các bên đương sự trong bản án ở mức độ như bản án, quyết định
do Tịa án nước mình tun. Việc cơng nhận và thi hành các bản án, quyết

định dân sự của Tịa án nước ngồi là thể hiện thái độ của nhà nước hữu quan
đối với quá trình xét xử và tính hệ quả của q trình đó sẽ được áp dụng ở
nước mình. Việc thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước
ngồi sau khi được công nhận sẽ được áp dụng theo một quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sẽ như là một bản án, quyết định của Tòa án
trong nước và tuân theo pháp luật thi hành của quốc gia có tịa án xem xét và
cơng nhận. Như vậy, xét về mặt hình thức thì bản án, quyết định dân sự của
Tịa án ngồi sau khi được cơng nhận và thi hành sẽ như là bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nước sở tại.
Rõ ràng sự thay đổi khách quan các quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng
về chủ thể, khách thể, tính chất về quyền và nghĩa vụ của bên theo hướng tự
do ý chí, bình đẳng thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm về tài sản đã khơng cịn
tiêu chí để phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự, tiêu chí của hợp
đồng cũng tương tự, những ngành luật này đều có nội dung bản chất pháp lý tính tự nguyện, bình đẳng thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm về tài sản và
chính những đặc điểm chung này của bản chất pháp lý, những quan hệ pháp
luật với nội dung là cơ sở cho một hình thức tố tụng gọi chung là "tố tụng dân
sự" và tất nhiên đối với mỗi loại bản án thì sẽ có những ngun tắc, thủ tục
riêng là do đặc trưng của ngành luật đó.
Ở các quốc gia khác nhau có cách hiểu về luật dân sự khơng giống
nhau. Có quốc gia chỉ phân chia hệ thống pháp luật của mình ra làm hai bộ
phận là Luật công và Luật tư. Luật công là Luật điều chỉnh những quan hệ
liên quan tới công quyền (một bên là đại diện cho nhà nước). Đó là luật bao
gồm Luật nhà nước, Luật hành chính, Luật hình sự. Luật tư là là Luật điều
chỉnh các quan hệ không liên quan tới công quyền (các bên đều là cá nhân,
pháp nhân; trong trường hợp nếu một bên là cơ quan nhà nước tham gia thì

9


khi đó cơ quan ấy tham gia quan hệ với tư cách là một pháp nhân công quyền

chứ không phải là người đại diện cho cơng quyền). Đó là Luật dân sự hiểu
theo nghĩa rộng (Luật này bao gồm Luật dân sự hiểu theo nghĩa hẹp, Luật
thương mại, Luật lao động, Luật hơn nhân và gia đình...). Có quốc gia phân
chia pháp luật của mình ra làm các ngành Luật khác nhau như: Luật nhà nước,
Luật hành chính, Luật dân sự... Dù cho các văn bản pháp luật có khác nhau về
tên gọi, dù cho cách phân chia các ngành luật, các bộ phận pháp luật có khác
nhau trong khoa học pháp lý..., song ở các quốc gia đều hầu như giống nhau ở
cách quan niệm về các phương pháp điều chỉnh cơ bản đối với các nhóm quan
hệ đặc thù như: Lĩnh vực luật nhà nước - hành chính được áp dụng chủ yếu
phương pháp mệnh lệnh, lĩnh vực luật hình sự - phương pháp quyền uy, lĩnh
vực Luật dân sự theo nghĩa rộng (luật tư) - thỏa thuận, tự định đoạt.
Do vậy, các bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi về cơ
bản cũng là các bản án, quyết định về lĩnh vực quan hệ mà pháp luật điều
chỉnh bằng các biện pháp dựa trên sự thỏa thuận, định đoạt của đương sự như
quan niệm của quốc gia sở tại. Tuy nhiên, do chế độ chính trị - xã hội, trình
độ phát triển, phong tục, tập quán, truyền thống... ở các quốc gia khác nhau,
cho nên có những vụ việc ở quốc gia này coi là tội phạm (hình sự) song ở
quốc gia khác lại coi là dân sự (ví dụ: quan hệ về mua bán súng đạn). Do vậy,
vấn đề đặt ra ở đây là bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài ở đây
được hiểu là bản án, quyết định "dân sự" theo pháp luật của quốc gia có Tịa
án tuyên hay ra quyết định hay theo pháp luật của quốc gia sở tại (nơi bản án,
quyết định cần được công nhận và thi hành) (?). Theo chúng tôi, việc bản án,
quyết định đó có phải là bản án, quyết định dân sự hay khơng của Tịa án
nước ngồi cần phải được hiểu là theo pháp luật nước ngoài nơi bản án, quyết
định dân sự đó được tuyên hoặc đưa ra. Bởi việc gọi nó theo đúng tên là một
chuyện cịn việc cơng nhận và thi hành hay khơng là chuyện khác. Ví dụ, nếu
theo pháp luật quốc gia nơi cần công nhận và thi hành, bản án và quyết định
trên bị coi là các bản án, quyết định mang tính hành chính hoặc hình sự thì
chúng có thể vì thế mà không được công nhận và thi hành.


10


Vấn đề tiếp theo là quyết định dân sự nào của Tịa án nước ngồi được
coi là bản án dân sự, quyết định dân sự nào của Tòa án nước ngồi được coi là
"quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi" (?). Trong q trình giải quyết
tranh chấp dân sự hoặc các yêu cầu dân sự của cá nhân, pháp nhân, Tịa án
nước ngồi cũng như Tịa án quốc gia sở tại có thể đưa ra các quyết định khác
nhau (ví dụ: quyết định đình chỉ vụ kiện, quyết định áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời, quyết định về thực chất vụ việc...) Vậy bản án, quyết định
dân sự của Tịa án nước ngồi ở đây là các quyết định nào (?). Theo chúng tôi,
việc công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước
ngồi ở đây cần được hiểu là các quyết định dân sự về thực chất vụ việc. Vấn
đề tiếp theo là quyết định dân sự nào trong số quyết định ấy được coi là "bản
án", quyết định nào - "quyết định". Theo quan điểm chung, khi Tòa án giải
quyết các tranh chấp mang tính chất dân sự giữa các bên đương sự, phán
quyết cuối cùng về thực chất vụ việc mà Tịa án nước ngồi đưa ra được gọi
là bản án dân sự của Tòa án nước ngồi (ví dụ, các phán quyết về các tranh
chấp dân sự như: về quyền sở hữu, hợp đồng dân sự, sở hữu trí tuệ, thừa kế,
bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng...). Khi Tòa án giải quyết các yêu cầu dân
sự, quyết định cuối cùng về thực chất vụ việc mà Tịa án nước ngồi đưa ra
được gọi là quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi (ví dụ, quyết định về
hạn chế năng lực hành vi dân sự, quyết định tuyên bố một người mất tích...).
Bản án dân sự của Tịa án nước ngồi là bản án được tun ngồi lãnh
thổ của nước được u cầu cơng nhận; bản án dân sự của Tịa án nước ngồi
là kết quả của quá trình giải quyết một vụ án dân sự tuân theo trình tự tố tụng
dân sự do pháp luật nước tuyên bản án qui định.
Quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi là quyết định được tun
ngồi lãnh thổ nước được yêu cầu công nhận. Quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi thể hiện sự cơng nhận việc thỏa thuận của các đương sự tại Tòa án

nước tuyên đó; hoặc là phần quyết định về tài sản trong bản án hình sự, hành
chính trong bản án của Tòa án nước tuyên phán quyết.

11


1.1.2. Định nghĩa công nhận và thi hành bản án, quyết định dân
sự của Tịa án nƣớc ngồi
Về ngun tắc các bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi
chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của nước đã tun bản án, quyết định
đó mà thơi. Nếu muốn có hiệu lực tại nước khác thì cần phải thông qua một
thủ tục pháp lý rất đặc biệt đó là thủ tục cơng nhận và thi hành. Có những bản
án, quyết định dân sự chỉ cần được công nhận khơng cần cho thi hành nhưng
có những bản án, quyết định địi hỏi phải được cơng nhận và thi hành. Để hiểu
rõ về bản chất công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài để làm cơ sở lý luận giúp chúng ta nghiên cứu sâu về vấn đề này
trước tiên cần làm rõ định nghĩa về công nhận bản án, quyết định dân sự của
Tịa án nước ngồi.
Về khái niệm "cơng nhận bản án, quyết định dân sự của tịa án nước
ngồi", theo Từ điển Việt Nam: "công nhận" là sự thừa nhận trước mọi người
một điều gì đó là phù hợp với sự thật, với lẽ phải hoặc với thể lệ, luật pháp,
cịn "thi hành" là việc làm cho điều gì đó trở thành có hiệu lực trên thực tế
điều đã được chính thức quyết định [46, tr.299, 510].
Qua các nghiên cứu trên có thể đưa ra khái niệm chung về công nhận
và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi là hành vi của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận hiệu lực của bản án, quyết định đó
như bản án, quyết định mà tịa án nước mình tun và đưa bản án, quyết định
đó ra thi hành trên thực tế.
Hiện nay các quốc gia đẩy mạnh sự hợp tác trên nhiều lĩnh vực tạo
thuận lợi cho các cá nhân, pháp nhân trong nước liên kết, hợp tác với cá nhân,

pháp nhân của các nước khác. Điều đó đã làm cho các vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngồi rất phát triển. Các bản án, quyết định dân sự đó cần được thi
hành khi người phải thi hành cứ trú hoặc làm việc hoặc nơi có tài sản liên
quan đến thi hành án là pháp nhân có trụ sở chính ở nước ngồi (trừ trường
pháp luật có qui định khác).

12


Do vậy, nếu bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi tun
có hiệu lực, song khơng được thi hành trên thực tế thì quyết định ấy sẽ trở nên
vô nghĩa, nếu bên phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Như vậy chúng
ta có thể khơng những khơng bảo vệ được quyền lợi và lợi ích của đương sự,
khơng bảo vệ được lợi ích của nhà nước mà cịn khơng phát triển được các
quan hệ dân sự quốc tế trong thời kỳ tồn cầu hóa hiện nay. Nếu điều đó xảy
ra chúng ta phải chấp nhận một thực tế xã hội: có vi phạm pháp luật nhưng
không bị xử lý, không làm phát sinh hậu quả pháp lý bất lợi cho các chủ thể
của các xử sự đó. Sự mất an tồn pháp lý này sẽ kìm hãm các quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngồi (theo nghĩa rộng) phát triển.
Việc cơng nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngồi là ý chí của một quốc gia có chủ quyền. Theo lý luận của Công
pháp quốc tế, không một quốc gia nào hay tổ chức quốc tế nào có thể ép buộc
một quốc gia có chủ quyền phải cơng nhận và thi hành bản án, quyết định dân
sự của Tịa án nước ngồi trên lãnh thổ của mình. Nhưng xét trên bình diện
quốc tế, tại Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 24/10/1970 về
nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác
giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, thì các quốc gia Chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật quốc tế hiện đại - phải có nghĩa vụ hợp
tác với nhau mà trong đó có sự hợp tác về pháp luật nhằm đấu tranh, đẩy lùi
các hành vi vi phạm pháp luật. Hơn thế, cũng xuất phát từ nguyên tắc bình
đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, quốc gia có thể vì mục đích của mình

có quyền quyết định trong từng trường hợp công nhận và thi hành tại lãnh thổ
của mình các bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi.
Xét trên cơ sở lý luận về nhà nước và pháp luật thì bất kỳ nhà nào
cũng phải có chức năng xã hội, nâng đỡ các chủ thể pháp luật được tự do,
bình đẳng cùng có lợi khi tham gia vào bất kỳ một quan hệ xã hội nào đó mới
là kế sách trị quốc thích hợp.

13


1.2. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC VÀ ĐIỀU KIỆN CƠNG NHẬN VÀ THI HÀNH
BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƢỚC NGOÀI

Sau khi bản, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi được đưa ra
cần được cơng nhận và thi hành tại quốc gia sở tại, bản án - quyết định đó có
thể được cơng nhận và thi hành theo hai cách:
Thứ nhất, bên phải thi hành tự nguyện thi hành, trong thời gian mà pháp
luật qui định (đối với bản án, quyết định không cần quốc gia sở tại công nhận.
Thứ hai, bên phải thi hành không tự nguyện thực thi bản án, quyết
định cần được công nhận và thi hành cưỡng bức tại quốc gia sở tại.
Trong trường hợp thứ hai, bản án - quyết định của Tịa án nước ngồi
cần được cơ quan có thẩm quyền của quốc gia sở tại công nhận và thi hành
cưỡng chế. Đối với trường hợp bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước
ngồi cần được cơng nhận (ví dụ như việc ly hơn) trong mọi trường hợp việc
công nhận trên cần được tiến hành bởi quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
1.2.1. Trình tự và thủ tục công nhận và thi hành bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nƣớc ngồi
Để u cầu Tịa án nước sở tại công nhận và thi hành bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi, đương sự phải gửi đơn đến cơ quan có
thẩm quyền (theo qui định của pháp luật nước được yêu cầu công nhận).

Trong khoảng thời gian nhất định (theo pháp luật nước được u cầu cơng
nhận) cơ quan có thẩm quyền đó sẽ chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền
của nước được yêu cầu công nhận xem xét.
Theo qui định của hầu hết các nước trên thế giới đều có những qui
định sau:
Thứ nhất, đối với yêu cầu công nhận và thi hành, là người được thi
hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ, nếu người phải thi hành cư trú tại
nước được yêu cầu công nhận bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi hoặc

14


tài sản có liên quan đến việc thi hành có tại nước được yêu cầu công nhận bản
án, quyết định vào thời điểm cơ quan có thẩm quyền nhận đơn yêu cầu.
Thứ hai, đối với yêu cầu không công nhận những bản án, quyết định
của Tịa án nước ngồi khơng có yêu cầu thi hành tại nước được yêu cầu cơng
nhận là đương sự, người có lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện
hợp pháp của họ.
Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
Tịa án nước ngồi phải có những nội dung sau:
- Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi hành
hoặc người đại diện hợp pháp của người đó; nếu người được thi hành là pháp
nhân thì phải ghi tên gọi đầy đủ và địa chỉ trụ sở chính của pháp nhân đó;
- Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi hành
án; nếu người phải thi hành án là pháp nhân thì ghi tên gọi đầy đủ và địa chỉ
trụ sở chính của pháp nhân đó. Trong trường hợp người phải thi hành khơng
cư trú hoặc làm việc tại nước được yêu cầu công nhận hoặc pháp nhân khơng
có trụ sở chính tại nước được u cầu cơng nhận thì phải ghi rõ địa chỉ nơi có
tài sản liên quan đến việc thi hành tại nước được yêu cầu công nhận bản án,
quyết định của Tịa án nước ngồi.

- Nội dung u cầu của người được thi hành. Trong trường hợp bản
án, quyết định của Tịa án nước ngồi đã được thi hành một phần thì phải ghi
rõ phần đã được thi hành và phần còn lại phải thi hành tiếp.
Việc xét đơn yêu cầu công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của Tịa án nước ngồi thuộc thẩm quyền của Tịa án hay của cơ quan nào đó
là do pháp luật mỗi nước qui định tại pháp luật quốc gia.
Ví dụ: ở Pháp thì pháp luật qui định cơ quan có thẩm quyền xét đơn
yêu cầu công nhận và thi hành bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi là
Tịa án; ở Anh thì pháp luật qui định bản án, quyết định dân sự của Tòa án

15


nước ngồi muốn được cơng nhận và thi hành phải được đăng ký tại Tòa án
tối cao của Anh ở Luân Đôn; ở các nước Đông Âu và Nga qui định việc công
nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi được thực
hiện trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.
Như vậy, những qui định về thể thức, trình tự, nội dung của vấn đề
công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi thì
tùy điều kiện quốc gia ở mỗi thời điểm chính trị, lịch sử cũng như các mối
giao lưu dân sự quốc tế sẽ có những qui định phù hợp nhưng về cơ bản đều
dựa trên những qui định chung đã được tư pháp quốc tế ghi nhận.
1.2.2. Điều kiện công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của Tòa án nƣớc ngoài
Cho đến nay, pháp luật của mỗi nước tuy ở mức độ và hình thức khác
nhau đều có qui định điều kiện công nhận và thi hành bản án, quyết định dân
sự của Tịa án nước ngồi trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc
tế cũng như các nguyên tắc đặc thù của tố tụng dân sự quốc tế.
Về nguyên tắc chung các điều kiện mà các quốc gia áp dụng để xem
xét công nhận và thi hành một bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước

ngồi bao gồm:
- Bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi đã có hiệu lực
pháp luật theo pháp luật của nước nơi đã tuyên;
Theo điều kiện này, bản án, quyết định dân sự chỉ có giá trị pháp lý
trên thực tế khi có hiệu lực pháp luật. Đây là điều kiện được qui định trong
pháp luật của nhiều quốc gia. Bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật
thì chưa có tính chất bắt buộc các bên có quyền và nghĩa vụ phải chấp hành.
Khi bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi được u cầu cơng nhận
tại một nước khác thì nước được u cầu cơng nhận chỉ cơng nhận bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật của nước đã tuyên. Bởi nếu
một bản án, quyết định khơng có hiệu lực pháp luật tại nước đã tuyên thì ngay

16


cả việc được chấp hành tại nước đó cũng khơng được công nhận làm sao thể
được công nhận tại nước ngồi. Điều kiện này đưa ra nhằm tơn trọng qui định
pháp luật nước ngoài, tuân thủ nguyên tắc Luật quốc tế.
Ví dụ: Pháp luật nước nước Anh qui định các bản án, quyết định dân
sự muốn được đăng ký tại Tòa án Tối cao của Vương quốc Anh ở Luân Đôn
phải bảo đảm một số yêu cầu nhất định trong đó có qui định: bản án, quyết
định dân sự đó phải có hiệu lực pháp luật theo quyết định của nước đã tuyên;
Trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa các nước Đông Âu với
nhau hay giữa các nước Đơng Âu với Nga cũng có qui định về điều kiện công
nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi trong đó có
ghi nhận: Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi đó phải có hiệu
lực theo pháp luật của nước đã tun...
- Tịa án nước ngồi là Tịa án có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp theo
pháp luật của nước nơi bản án, quyết định dân sự đó được yêu cầu công nhận;
Mỗi vụ việc, tranh chấp xảy ra được giải quyết tại Tịa án có thẩm

quyền theo qui định của pháp luật từng nước. Chẳng hạn, tranh chấp về bất
động sản thì Tịa án nơi có bất động sản là cơ quan có thẩm quyền giải quyết;
Việc xác định thẩm quyền giữa các Tòa án tránh được sự chồng chéo
trong việc thực hiện giữa các Tòa án, giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các
vụ việc dân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo
vệ quyền lợi chính đáng của mình, giảm bớt phiền phức cho đương sự...Theo
đó mà các quốc gia qui định điều kiện: Tịa án nước ngồi xét xử vụ tranh
chấp là Tịa án có thẩm quyền theo qui định của pháp luật nước được yêu cầu
công nhận.
- Tịa án của nước ngồi khi xét xử vụ án đã bảo đảm đầy đủ các
quyền tố tụng cho đương sự theo pháp luật của nước nơi đó;
Quyền lợi hợp pháp của các đương sự chỉ được bảo vệ khi các quyền
tố tụng của họ được bảo đảm nghiêm chỉnh theo pháp luật, nếu bớt đi một

17


quyền năng nào thì quyền lợi của họ đã bị vi phạm. Việc Tòa án nước đã
tuyên bảo đảm các quyền tố tụng cho đương sự thể hiện sự khách quan, công
bằng, minh bạch trong khi giải quyết vụ việc. Như vậy, bảo đảm tốt nhất cho
các bên đương sự thể hiện nguyện vọng của mình, đưa ra các chứng cứ, lý lẽ,
lập luận để bảo vệ được quyền lợi của mình, hiểu được hơn quyền và nghĩa vụ
của mình. Điều kiện này được các quốc gia rất tán thành nên được ghi nhận
trong pháp luật quốc gia hay điều ước quốc tế. Ví dụ pháp luật Đức, pháp luật
Mỹ... có qui định điều kiện này.
- Trước khi bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi có hiệu
lực pháp luật, chưa có bản án, quyết định dân sự nào về cùng một vụ việc hay
tranh chấp đó đã được Tòa án nơi được yêu cầu tuyên hoặc công nhận;
Một vụ việc hay tranh chấp chỉ được giải quyết một lần, khơng thể có
cùng một vụ việc mà được giải quyết tại nhiều nơi, điều này bảo đảm được

quyền lợi cho các bên đương sự, không gây chồng chéo cho các cơ quan giải
quyết. Điều kiện này không những bảo vệ được quyền lợi chính đáng cho các
bên đương sự mà còn đảm bảo được trật tự pháp luật.
- Việc công nhận bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi
khơng trái với pháp luật và trật tự công cộng nơi được yêu cầu công nhận và
thi hành bản án, quyết định dân sự đó.
Chủ quyền quốc gia là một quyền tối thượng của mỗi quốc gia mà
theo Luật quốc tế các quốc gia khác có nghĩa vụ phải tôn trọng. Một bản án
hay quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi khơng thể được cơng nhận khi
nó đi ngược lại pháp luật và trật tự công cộng tại nước được yêu cầu công
nhận. Pháp luật quốc gia và trật tự cơng cộng chính là nguyên tắc cơ bản của
mỗi quốc gia là nền tảng của pháp luật quốc gia nên việc công nhận một bản
án, quyết định của Tịa án nước ngồi trái với pháp luật và trật tự công cộng
nơi được yêu cầu công nhận là trái với nguyên tắc cơ bản của quốc gia nó sẽ
gây hậu quả xấu đối chính quốc gia cơng nhận. Chính vì thế đây là điều kiện

18


không thể thiếu trong qui định pháp luật của các quốc gia như Anh, Pháp,
Đức, Mỹ, các nước Đông Âu...
1.2.3. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về vấn đề công nhận
và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nƣớc ngồi
1.2.3.1. Cơng nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa
án nước ngoài tại Anh và xứ Wales [47]
Điểm đầu tiên trong việc quyết định một bản án của nước ngoài có thể
có hiệu lực tại Anh hay khơng là phải xem xét bản án đó có phải là của nước
là thành viên của công ước Bruxelles hoặc công ước Lugano (gọi tắt là Công
ước) hay một công ước khác hay không.
Theo các Công ước Bruxelles và Lugano và đạo luật về quyền tài

phán dân sự và bản án năm 1982, trừ một số trường hợp ngoại lệ nhất định.
Một bản án được ban hành ở bất kỳ một nước nào là thành viên của Cơng ước
có thể có hiệu lực tại bất kỳ một nước thành viên khác của công ước. Một bản
án phải là quyết định của một tòa án và có thể là một phán quyết về việc đền
bù chi phí. Các bản án tạm thời cũng có thể có hiệu lực, kể cả lệnh của Tịa án
hiện hành thông báo cho tất cả các bên. Các công ước đã được thể chế hóa
thành Luật pháp của nước Anh bởi đạo luật về quyền tài phán dân sự và bản
án năm 1982. Các bản án được Tòa án các nước ký công ước phải được đăng
ký và cho thì hành ở Anh và Wales, các thủ tục đăng ký chủ yếu được qui
định như sau:
- Bác yêu cầu thi hành phải nộp đơn xin đăng ký bản án nước ngồi
dưới hình thức một bản giải trình có tun thệ với chánh án của Tòa án.
- Nếu Chánh án của Tịa án đã bằng lịng với đơn đó, ơng ta sẽ ra lệnh
đăng ký bản án nước ngoài, lệnh đó phải qui định thời hạn để bên phải thi
hành có thể xin kháng nghị việc đăng ký. Lệnh đăng ký cũng phải nêu rõ rằng
việc thi hành bản án sẽ không được thực hiện cho đến khi hết thời hạn đó.

19


Thông báo về giấy đăng ký phải được gửi cho bên phải thi hành và
phải nêu rõ đầy đủ chi tiết của bản án đã được đăng ký. Bên phải thi hành
phải được Tòa án nhắc nhở về quyền kháng án của mình.
- Nếu các bên phải thi hành khơng kháng án trong thời gian qui định
thì Tịa án sẽ ra lệnh phải thi hành bản án.
Các Công ước qui định rằng mỗi nước thành viên của Công ước phải
công nhận các bản án của nước thành viên khác của công ước (gọi tắt là bản
án công ước). Thông thường thì khơng có việc xem xét lại vụ việc trước khi
bản án được cơng nhận. Thực tế thì các vụ việc thường không được phân biệt
một cách dễ dàng và có nhiều vấn đề mà bên phải thi hành có thể xem xét khi

cố gắng chống lại một bản án Cơng ước, ví dụ: bản án có phải là bản án cơng
ước hay khơng? Cơng ước có hiệu lực tại nước ban hành và tại nước thi hành
vào thời điểm xin thi hành hay khơng; bản án có được đưa ra bởi Tịa án hay
khơng; việc Tịa án nước ngồi nắm quyền tài phán có vi phạm các qui định
của Công ước điều chỉnh quyền tài phán đối với các tranh chấp hay khơng.
Khơng có bản án nước ngồi nào có thể được thi hành nếu: bản án đó
đi ngược lại chính sách chung (trật tự chung) của nước Anh; bản án được đưa
ra một cách sai trái và người phải thi hành không được cung cấp tài liệu khởi
tố trong thời gian chuẩn bị bào chữa của mình; bản án mâu thuẫn với một bản
án giữa cùng các bên được đưa ra ở nước Anh hay ở xứ Wales hay ở bất kỳ
một nước thành viên nào của Công ước và bản án đó có thể được cơng nhận ở
nước Anh; bản án có liên quan đến thu nhập, thuế quan, hay các vấn đề hành
chính, tình hình hoặc khả năng pháp lý của con người, các quyền đối với tài
sản phát sinh từ việc kết hôn, di chúc và thừa kế, phá sản hoặc khơng có khả
năng trả nợ, an ninh xã hội, hoặc việc xét xử của trọng tài. Nếu nước ra bản án
không phải là một bên ký kết của cả hai Cơng ước thì người ta phải xem xét
có một thỏa thuận song phương theo đạo luật hành chính tư pháp năm 1920
(gọi tắt là Đạo luật năm 1920), các nước tham gia ký kết thỏa thuận song

20


×