Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đánh giá quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.86 KB, 17 trang )

MỤC LỤC


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 đã bổ sung
thêm nhiều điểm mới hơn so với luật cũ. Xuất phát từ quan hệ tài sản của vợ chồng
còn nhiều quy định chưa phù hợp với thực tế, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã
chú trọng thay đổi những quy định về phần này. Sự thay đổi rõ nhất đó là Luật Hơn
nhân và Gia đình 2014 đã quy định riêng biệt chế độ tài sản của vợ chồng là: tài sản
theo luật định và tài sản theo thỏa thuận. Trong chế độ tài sản của vợ chồng theo
luật định có quy định: tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ chồng, ngồi
ra cịn có quy định về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hoặc thỏa
thuận nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
Để làm rõ hơn vấn đề trên, em xin được lựa chọn và phân tích Đề bài tập số
3: “Đánh giá quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định trong Luật
Hơn nhân và Gia đình năm 2014”.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Các khái niệm liên quan
Chế độ tài sản theo luật định là chế độ tài sản mà trong đó pháp luật quy
định cụ thể về căn cứ xác định tài sản của vợ chồng, các quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng đối với tài sản đó và việc thực hiện các giao dịch giữa vợ, chồng và người
thứ ba.
Tài sản chung của vợ, chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa
kế chung, được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản
chung; quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hơn là tài sản chung của
vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng

2




hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng (Điều 33 Luật hơn nhân và gia
đình 2014).
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hơn,
tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được
chia riêng cho vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài
sản chung, tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo
quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng (Điều 43 Luật hơn nhân
và gia đình 2014).
2. Đặc điểm chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
Thứ nhất, về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này, thì các bên
phải có mối quan hệ hơn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau. Do đó,
các bên trong quan hệ này khơng những phải đáp ứng đủ điều kiện về năng lực chủ
thể trong quan hệ pháp luật dân sự mà còn phải đảm bảo đủ điều kiện kết hôn được
quy định trong luật hơn nhân và gia đình.
Thứ hai, chế độ tài sản của vợ chồng được phát sinh tại thời điểm bắt đầu
quan hệ hôn nhân và chấm dứt khi hôn nhân kết thúc. Như vậy, chế độ này chỉ tồn
tại trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ ba, vợ chồng không thể thay đổi chế độ tài sản của vợ, chồng theo luật
định. Theo đó, vợ, chồng khơng thể bằng thoả thuận của mình để thay đổi các quy
tắc chi phối quan hệ tài sản vợ chồng mà pháp luật đã đặt ra.
Thứ tư, tài sản vợ chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng, pháp luật
quy định rạch ròi quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài sản. Tuy
nhiên, để đảm bảo duy trì cuộc sống chung cũng như quyền lợi của vợ, chồng,
người thứ ba liên quan pháp luật đã dự liệu một số trường hợp tạo thành đặc thù
riêng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản của
mình. Đối với khối tài sản chung, khi vợ chồng sử dụng để đáp ứng những nhu cầu
thiết yếu của gia đình thì pháp luật coi đó là sự thỏa thuận đương nhiên giữa hai vợ
3



chồng trừ trường hợp bắt buộc phải có văn bản thỏa thuận của vợ, chồng. Đối với
tài sản riêng, thông thường vợ, chồng có quyền tự định đoạt tài sản riêng của mình
theo quy định của pháp luật.
3. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý nghĩa nhằm
xác định loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Dù vợ, chồng lựa
chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hay chế độ tài sản theo luật định thì các loại tài
sản của vợ chồng luôn được pháp luật quy định rõ và vợ, chồng có nghĩa vụ tn
thủ.
Ngồi ra, việc phân định loại tài sản cịn có ý nghĩa trong việc xác định
quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng tương ứng với loại tài sản đó.
Khi xảy ra tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng hoặc giữa vợ, chồng và
người thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định tạo cơ sở pháp lý để giải
quyết các tranh chấp đó, bảo về quyền và lợi ích chính đáng về tài sản cho các bên
vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ, chồng.
II. NỘI DUNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT ĐỊNH
Chế độ tài sản theo luật định được pháp luật quy định tại Luật hơn nhân và
gia đình 2014 và được cụ thể, chi tiết hơn tại Nghị định 126/2014/NĐ-CP. Tài sản
của vợ chồng được phân chia thành tài sản chung và tài sản riêng được pháp luật
quy định như sau:
1. Tài sản riêng của vợ, chồng
1.1. Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng
Tài sản riêng của vợ, chồng được xác lập dựa vào thời điểm tài sản đó phát
sinh trước khi kết hơn. Về căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng Điều 43 Luật
Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định như sau:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hơn;
tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được
4



chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản
phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp
luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng
của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được
thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”

Đối với tài sản mà mỗi người có trước khi kết hơn:
Mỗi người có thể tạo ra một khối tài sản hoặc có được tài sản thông qua các
giao dịch dân sự trước khi kết hôn, những tài sản này thuộc quyền sở hữu riêng của
mỗi bên và được pháp luật thừa nhận, bảo hộ. Những tài sản này không phải do vợ,
chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, không chịu sự tác động bởi lợi ích chung của
gia đình. Do vậy, vợ chồng có thể xác lập quyền sở hữu của mình đối với những tài
sản phát sinh trước khi kết hôn.
Đối với tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân:
Đây là khối tài sản mà vợ, chồng nhận được trong thời kì hơn nhân mà người
tặng cho, người để lại thừa kế chỉ định rõ ràng khối tài sản tặng cho, thừa kế chỉ
dành cho vợ hoặc chồng. Tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng
trong thời kỳ hôn nhân thường do những người thân thuộc của mỗi bên cho vợ,
chồng được hưởng giá trị tài sản đó (Ví dụ: tài sản do cha, mẹ cho riêng con trong
ngày cưới, cha mẹ một bên khi chết để lại di chúc cho con mình là người vợ, chồng
được hưởng,...). Những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng
trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ, chồng.
Đối với tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và
40:
Đây là khối tài sản mà vợ, chồng nhận được trong thời kì hơn nhân mà người
tặng cho, người để lại thừa kế chỉ định rõ ràng khối tài sản tặng cho, thừa kế chỉ
dành cho vợ hoặc chồng. Khoản 1 Điều 40 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy

định:
5


“Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia,
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài
sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản
cịn lại khơng chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.”

Như vậy, phần tài sản chung được chia cho mỗi bên vợ hoặc chồng là tài sản
riêng của người đó.
Đối với tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng:
Theo đó, khoản 20 Điều 3 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
“Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám
bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc
sống của mỗi người, mỗi gia đình”.
Trong cuộc sống thường ngày, mỗi người đều cần đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của bản thân như quần áo, thực phẩm,… Như vậy, pháp luật quy định về tài sản
phục vụ nhu cầu thiết yếu là hoàn toàn thiết thực và phù hợp với thực tế cuộc sống.
Đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng:
Theo Nghị định 126/2014/NĐ-CP, vợ, chồng có tài sản riêng và những hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng cũng được xem là tài sản riêng của vợ, chồng:


Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ, chồng

có được từ tài sản riêng của mình.
• Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu
được từ việc khai thác tài sản riêng của mình.


Đối với tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật:
Ngoài ra, vợ, chồng tồn tại tài sản riêng khơng liên quan đến quan hệ hơn
nhân:


Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở



hữu trí tuệ.
Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của
Tịa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.

6




Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về
ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân
của vợ, chồng.

Đối với thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Theo Nghị định 126/2014/NĐ-CP, ngồi thu nhập chính, vợ hoặc chồng cịn
tồn tại những thu nhập khác. Những khoản thu nhập này được xem là thu nhập
khác, riêng biệt của vợ, chồng:


Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp quy


định tại Khoản 3 Điều 11 của Nghị định này.
• Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật
Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị
bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật ni dưới nước.
• Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng
Về quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng:
Điều 44 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định:
“1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình;
nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng khơng thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng
không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó.
Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản.
3. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của
người đó.
4. Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng
đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự
đồng ý của chồng, vợ.”
Đối với tài sản riêng của vợ, chồng, người cịn lại có nghĩa vụ giữ gìn, bảo
quản, nếu gây thiệt hại, hư hỏng thì phải có nghĩa vụ bồi thường theo đúng pháp
7


luật. Vợ và chồng có quyền nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung. Khoản 4 Điều 4 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 đã hạn chế quyền chiếm
hữu của vợ, chồng vì lợi ích chung của gia đình: “Trong trường hợp vợ, chồng có
tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia
đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ”.
Về nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng:
Điều 45 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ của vợ,

chồng đối với tài sản riêng như sau:
“Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hơn;
2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường
hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng
theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện khơng vì nhu cầu của
gia đình;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.”

Luật Hơn nhân và Gia đình hiện hành đã đảm bảo được quyền tự định đoạt
của cá nhân đối với tài sản của mình. Vợ, chồng có thể tự đảm bảo khối tài sản
riêng của mình, tránh xảy ra xung đột, tranh cấp về tài sản.
2. Tài sản chung của vợ, chồng
2.1. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ, chồng
Điều 213 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về sở hữu chung của vợ chồng:
“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng hoặc định
đoạt tài sản chung.

8


4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết
định của Toà án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận theo quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng
theo chế độ tài sản này.”

Luật Dân sự và Luật Hơn nhân và Gia đình đều có chung một đối tượng điều
chỉnh là nhóm quan hệ nhân thân và tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Trong đó, Bộ luật Dân sự 2015 có một số quy định cụ thể về vấn đề sở hữu, chiếm
hữu, định đoạt và thừa kế tài sản còn Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định rõ
ràng hơn về loại tài sản được xác định là tài sản chung của vợ, chồng.
Đối với chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, tài sản chung là tài sản
được xác lập trong thời kỳ hôn nhân. Theo khoản 13 Điều 3 Luật Hơn nhân và Gia
đình 2014 quy định: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ
chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Do vậy,
việc xác định tài sản chung của vợ, chồng sẽ tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
phán quyết ly hơn của Tịa án có hiệu lực hoặc đến ngày vợ hoặc chồng chết hoặc bị
tuyên bố là đã chết.
Theo đó, Điều 33 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 quy định cụ thể hơn
về chế định tài sản chung của vợ chồng như sau:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và
thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.

9


2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có
tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung
Về nguyên tắc, vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, xây dựng, phát triển và duy trì khối tài
sản chung. Điều 29 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định về nguyên tắc chung
về chế độ tài sản của vợ, chồng như sau:
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao
động có thu nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.”

Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung được
thể hiện trong xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản
chung của vợ và chồng. Vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc
quản lí và sử dụng tài sản chung. Điều 37 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy
định về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng như sau:
“Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản
chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

10


5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì
cha mẹ phải bồi thường;

6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”

Tùy vào hồn cảnh riêng của từng gia đình mà sự đóng góp của vợ, chồng
vào khối tài sản chung là khác nhau. Có thể vợ hoặc chồng không trực tiếp lao động
mà làm nội trợ, trơng nom nhà cửa,… thì quyền sở hữu, định đoạt tài sản chung của
họ vẫn ngang bằng với người cịn lại.
Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ bình đẳng
giữa vợ và chồng đối với tài sản chung nhằm mục đích bảo về khối tài sản chung,
tránh trường hợp tổn thất do một trong hai người tùy ý sử dụng, tiêu hao; đồng thời
quy định này cịn đảm bảo sự bình đẳng giữa vợ, chồng trong gia đình.
2.3. Chia tài sản chung của vợ, chồng theo luật định
Chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Trong thời kỳ hơn nhân,
vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường
hợp quy định tại Điều 42 của Luật hơn nhân và gia đình 2014; nếu khơng thỏa thuận
được thì có quyền u cầu Tịa án giải quyết.Trong trường hợp vợ, chồng có u
cầu thì Tịa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại
Điều 59 của Luật hơn nhân và gia đình 2014.
Hậu quả pháp lý: Về quan hệ nhân thân, sau khi chia tài sản chung, quan hệ
vợ chồng vẫn tồn tại. Dù vợ chồng sống chung hay ở riêng cũng không làm hạn chế
các quyền nhân thân giữa vợ, chồng. Về quan hệ tài sản, Điều 14 Nghị định
126/2014/NĐ-CP quy định: việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.
Chia tài sản chung của vợ, chồng khi ly hơn:
Trường hợp có văn bản thỏa thuận phân chia tài sản vợ chồng khi ly hôn:

11


Nếu hai vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản phân chia tài sản chung thì Tịa

án xem xét xem văn bản này có hiệu lực hay khơng. Trường hợp văn bản thỏa thuận
trên khơng bị Tịa án tun bố vơ hiệu tồn bộ thì việc phân chia tài sản chung của
vợ chồng được áp dụng theo các nội dung thỏa thận ghi trong văn bản. Đối với
những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc
bị vơ hiệu thì áp dụng theo ngun tắc phân chia tài sản theo quy định của pháp
luật.
Trường hợp khơng có văn bản thỏa thuận:
Tịa án sẽ phân chia tài sản chung của vợ chồng theo nguyên tắc chia đơi
nhưng tính đến các yếu tố sau:



Hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối
tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động

có thu nhập;
• Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
• Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Chia tài sản chung của vợ, chồng khi một bên vợ hoặc chồng chết:
Theo quy định tại Điều 66 Luật hơn nhân và gia đình 2014:
“1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên cịn sống
quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người
khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di
sản.
2. Khi có u cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết
hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ

hoặc chồng cịn sống, gia đình thì vợ, chồng cịn sống có quyền u cầu Tịa án hạn
chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
12


4. Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản
1, 2 và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.”

III. ĐÁNH GIÁ VỀ QUY ĐỊNH VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT ĐỊNH
1. Đánh giá chung về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
Có thể thấy rằng, chế độ tài sản của vợ, chồng theo luật định hoàn toàn phù
hợp với các điều kiện của xã hội Việt Nam vì nó khơng những thúc đẩy sự gắn kết
của vợ chồng mà cịn tạo ra sự bình đẳng về địa vị của người vợ và người chồng
trong gia đình. Luật Hơn nhân và gia đình 2014 ghi nhận nguyên tắc cơ bản: vợ
chồng bình đẳng về quyền và nghĩa vụ liên quan đến mọi mặt của đời sống gia đình.
Để thiết lập một chế độ tài sản, nhà nước phải xem xét các yếu tố về điều
kiện phát triển kinh tế, xã hội, truyền thống, tập quán và thực tế cuộc sống trong
lĩnh vực hơn nhân và gia đình. Do đó, chế độ tài sản theo luật định thường được lựa
chọn nhiều hơn vì nó có lợi hơn hết cho vợ chồng, phù hợp với phong tục và nhu
cầu của xã hội, không phải tốn nhiều công sức và thời gian để xác lập một thoả
thuận về chế độ tài sản vợ chồng hay các chi phí liên quan đến việc công chứng
hoặc chứng thực văn bản thoả thuận về chế độ tài sản vợ chồng.
Chế độ tài sản theo luật định là sự bảo vệ tốt cho khối tài sản chung của vợ
chồng, đây là cơ sở đảm bảo cho đời sống chung của vợ chồng. Chế độ tài sản này
cũng là cơ sở pháp lý rõ ràng và tương đối đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác giải quyết các tranh chấp về quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Ngoài ra, chế
độ này cũng hạn chế sự khó xử trong mối quan hệ vợ chồng trong trường hợp các
bên không đạt được sự thống nhất ý chí về việc xác lập chế độ tài sản theo thỏa
thuận.

Chế độ tài sản theo luật định được áp dụng khi vợ chồng không thể thoả
thuận lựa chọn chế độ tài sản. Ngoài ra, nếu vợ chồng đã xác lập và thực hiện chế
độ tài sản theo thỏa thuận nhưng phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thoả
13


thuận hoặc thoả thuận chưa rõ ràng thì các quy tắc của chế độ tài sản của vợ, chồng
theo luật định sẽ được áp dụng trong trường hợp này.
2. Những ưu điểm so với Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000
Khoản 1 Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 chỉ quy định về tài sản
riêng của vợ, chồng như sau:
“1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hơn; tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia
riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ
dùng, tư trang cá nhân.”
Do quy định chưa rõ ràng dẫn đến thực tế giải quyết tranh chấp vẫn xảy ra
những trường hợp tài sản chưa được xác định là tài sản chung hay tài sản riêng (Ví
dụ: hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kì hơn nhân,…). Qua đó,
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 đã xác định cụ thể khối tài sản hình thành từ
tài sản riêng của vợ, chồng chính là tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn
nhân1. Quy định trên đã khắc phục được sự thiếu sót của luật cũ, đồng thời tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho quá trình áp dụng pháp luật, đảm bảo quyền tài sản riêng của
cá nhân.
Ngoài ra, Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 đã bỏ căn cứ xác định tài sản
riêng của vợ, chồng là “đồ dùng, tư trang cá nhân” từ Luật Hôn nhân và Gia đình
2000. Nếu căn cứ theo quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 thì cứ là
đồ dùng, tư trang cá nhân đều là tài sản riêng của vợ, chồng mà khơng có quy định
nào hạn chế giá trị tài sản, không quy định loại tài sản nào được xem là đồ dùng, tư
trang cá nhân thuộc sở hữu riêng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng khơng quy định về

nguồn gốc hình thành đồ dùng, tư trang là tài sản chung hay riêng. Do vậy, có thể
hiểu người nào quản lý, sử dụng tài sản đó sẽ mặc định là tài sản riêng của người
1 Khoản 2 Điều 43 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014

14


đó. Với quy định như vậy rõ ràng là khơng phù hợp, vơ tình tạo khe hở cho việc
chuyển dịch trái phép tài sản chung sang tài sản riêng, gây thiệt hại cho bên cịn lại.
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 đã đưa ra căn cứ xác định tài sản riêng
còn là các “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu” 2. Sở dĩ, pháp luật quy định nhóm tài
sản này thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng là dựa vào đặc điểm cũng như tác dụng
của loại tài sản đó. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy được coi là một bước
tiến bộ, linh hoạt và đã thể hiện rất rõ việc trao quyền tài phán cho cơ quan xét xử
trong việc xem xét để giải quyết vụ việc dựa trên hoàn cảnh cụ thể của từng cá
nhân, gia đình khi phát sinh quan hệ pháp luật tranh chấp, đảm bảo được quyền tự
do cá nhân cũng như các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
3. Một số bất cập tồn tại trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện chế
độ tài sản của vợ, chồng theo luật định
Đối với quy định về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng
trong thời kì hơn nhân: Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 đã xác định cụ thể
khối tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng
trong thời kỳ hơn nhân, trong đó có bao gồm hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng của vợ, chồng trong thời kì hơn nhân 3 đã tạo sự thống nhất trong quá trình quá
trình áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, điều này sẽ không công bằng nếu hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng là tài sản chung của cả hai vợ
chồng trong khi người cịn lại (khơng phải là chủ sở hữu tài sản) khơng có bất kỳ
đóng góp nào vào việc tạo ra hoa lợi, lợi tức đó (Ví dụ: tiền lãi gửi tiết kiệm ngân
hàng, khoản lợi nhuận thu được trong việc kinh doanh, buôn bán của vợ hoặc chồng
mà khơng có sự tham gia, đóng góp từ người còn lại,...).

Như vậy, cần quy định rõ nếu bên chồng, vợ cịn lại chứng minh được đóng
góp của mình trong việc tạo ra các hoa lợi, lợi tức đó thì họ được xem xét để phân
2 Khoản 1 Điều 43 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014
3 Khoản 2 Điều 43 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014

15


chia giá trị theo cơng sức đóng góp của họ; ngược lại, nếu một trong hai bên khơng
tham gia, đóng góp trong q trình tạo ra hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
của người cịn lại thì phần hoa lợi, lợi tức đó sẽ khơng thuộc quyền sở hữu của
người đó (người khơng tham gia).
Đối với quy định về tài sản chỉ có một người đứng tên, tại khoản 2 Điều 34
Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định:
“2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử
dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản
này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về
tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”
Trong thực tế, với trường hợp tài sản đó là tài sản chung thì khi vợ hoặc
chồng xác lập, thực hiện giao dịch với người thứ ba vẫn phải có sự chấp thuận của
người còn lại. Tuy nhiên, Điều 26 và khoản 3 Điều 33 Luật Hơn nhân và Gia đình
2014 chưa có quy định rõ ràng về điều này. Như vậy, cần có hướng dẫn cụ thể về tài
sản chung, đặc biệt là những tài sản chỉ có một người đứng tên trên giấy tờ nhằm
đảm bảo quyền lợi cho các bên.

C. KẾT LUẬN
Sự ra đời của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thay thế Luật Hơn nhân
và Gia đình năm 2000 là một sự thay đổi tiến bộ và phù hợp với tiến trình phát triển
của đất nước, là cơ sở cho việc điều chỉnh các luật chuyên ngành. Việc quy định chế
định tài sản của vợ chồng (bao gồm cả tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng

trong thời kỳ hôn nhân) là điều cần thiết, đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi
của thực tiễn cuộc sống kinh tế, xã hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của người
dân trong một xã hội tiến bộ, dân chủ, văn minh.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Luật Hôn nhân và Gia đình 2000
Luật Hơn nhân và Gia đình 2014
Bộ luật Dân sự 2015
Nghị định 126/2014/NĐ-CP
“Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định”, 11/01/2015.
< >
6. Th.S ĐOÀN THỊ NGỌC HẢI, “Chế định tài sản của vợ chồng theo quy định
1.
2.
3.
4.
5.

của pháp luật hơn nhân và gia đình”, 04/08/2018.
< >

17




×