Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Sản Xuất Nông Nghiệp Ở Miền Bắc Việt Nam Giai Đoạn 1958 - 1968

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Vũ Thị Thà

SẢN XUẤT NƠNG NGHIỆP Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1958 – 1968

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Vũ Thị Thà

SẢN XUẤT NƠNG NGHIỆP Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1958 – 1968

Chuyên ngành

: Lịch sử Việt Nam

Mã số

: 8229013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH TIẾN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện không sao chép của
bất cứ ai. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, được trích
dẫn có nguồn gốc rõ ràng, chưa được công bố ở các công trình nghiên cứu khác.
Tơi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Thị Thà


LỜI CẢM ƠN
Với lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin đặc biệt gửi lời cảm ơn đến thầy Nguyễn
Thanh Tiến, người đã trực tiếp tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tơi trong q trình
học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Lịch sử, các thầy
cơ phịng Sau đại học- Trường đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, bạn bè, đồng
nghiệp giảng dạy Lịch sử trường THCS Trường Thọ, người thân đã động viên, khích
lệ, nhiệt tình giúp đỡ tơi hồn thành luận văn.
Tơi cũng xin tỏ lịng tri ân tới các cán bộ làm việc tại thư viện Tổng Hợp và
Thư viện Khoa học Xã hội khu vực Nam Bộ, các cán bộ làm việc tại Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia III – Hà Nội, đã tận tình giúp đỡ tơi về nguồn tư liệu, cùng với sự giúp đỡ
và động viên từ gia đình và bạn bè, tất cả đã tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu đề tài.
Mặc dù, bản thân đã có nhiều cố gắng trong q trình thực hiện đề tài nhưng
chắc chắn luận văn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì thế, tơi rất mong

nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của Quý thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin
chân thành cảm ơn!
Tp Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2018
Tác giả

Vũ Thị Thà


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

................................................................................................................... 1

Chương 1. KHÁI QT TÌNH HÌNH NƠNG NGHIỆP MIỀN BẮC VIỆT
NAM TỪ SAU CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP ĐẾN
TRƯỚC NĂM 1958 ................................................................................. 7
1.1. Tình nơng nghiệp miền Bắc Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ ............................ 7
1.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về ruộng đất sau năm 1954............................... 8
1.2.1. Tiếp tục thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc từ năm 1954-1956 ............ 8
1.2.2. Tình hình sở hữu ruộng đất của các giai cấp.................................................. 12
1.3. Tình hình sản xuất nơng nghiệp từ tháng 7 năm 1954 đến năm 1957 .................. 14
1.3.1. Hoạt động sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc ................................................ 14
1.3.2. Thành quả bước đầu của khôi phục sản xuất nông nghiệp ............................ 19
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 24
Chương 2. CHÍNH SÁCH NƠNG NGHIỆP VÀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT

NƠNG NGHIỆP MIỀN BẮC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 19581968 ......................................................................................................... 25
2.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp miền Bắc giai đoạn
1958-1968 ............................................................................................................. 25
2.1.1. Chủ trương Hợp tác hóa nơng nghiệp ........................................................ 25
2.1.2. Mơ hình tổ chức hợp tác xã sản xuất nơng nghiệp ở miền Bắc giai
đoạn 1958-1968 ......................................................................................... 30
2.1.3. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nơng nghiệp miền Bắc từ
năm 1958-1968 .......................................................................................... 36


2.2. Kết quả của quá trình thực hiện hợp tác hóa nơng nghiệp trên miền Bắc giai
đoạn 1958-1968 .................................................................................................... 38
2.3. Q trình đẩy mạnh sản xuất nơng nghiệp tồn diện trên miền Bắc thời kì
1958-1968 ............................................................................................................. 40
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 61
Chương 3. NHẬN XÉT VỀ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP MIỀN BẮC VIỆT
NAM TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 1968 ................................................ 63
3.1. Những thành tựu trong sản xuất nông nghiệp từ năm 1958-1968 ........................ 63
3.1.1. Vai trị của sản xuất nơng nghiệp đối với sự phát triển của kinh tế xã hội miền Bắc ......................................................................................... 66
3.1.2. Đóng góp của sản xuất nơng nghiệp đối với q trình đấu tranh
thống nhất đất nước ở miền Nam............................................................... 70
3.1.3. Đóng góp của sản xuất nông nghiệp đối với các ngành công nghiệp........ 73
3.2. Hạn chế và tồn tại của nông nghiệp miền Bắc giai đoạn 1958-1968 ................... 77
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 81
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 87
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1.

Tình hình sở hữu ruộng đất của các giai cấp trước và sau cải cách
ruộng đất ....................................................................................................13

Bảng 1.2.

Diện tích gieo trồng các loại cây nơng nghiệp trong những năm 19551957............................................................................................................16

Bảng 1.3.

Diện tích và năng suất lúa ở Bắc bộ qua các năm 1939, 1955-1957 .........20

Bảng 1.4.

Các loại hoa màu ở miền Bắc qua các năm 1939 và 1955-1957 ...............21

Bảng 1.5.

Bình quân lương thực chia đầu người ở miền Bắc qua các năm 1939
và 1955-1957 ............................................................................................. 21

Bảng 1.6.

Số lượng gia súc ở miền Bắc qua các năm 1939 và 1955-1957 ................22

Bảng 2.1.

Tình hình HTX nơng nghiệp miền Bắc giai đoạn 1958-1960 ...................39


Bảng 2.2.

Diện tích và năng suất lúa từ năm 1955 đến 1968 .....................................46

Bảng 2.3.

Sản lượng lúa ở miền Bắc qua các năm 1955 và 1960-1967..................... 47

Bảng 2.4.

Diện tích trồng hoa màu ở miền Bắc qua các năm 1955-1967 ..................49

Bảng 2.5.

Sản lượng hoa màu ở miền Bắc qua các năm 1955-1967.......................... 50

Bảng 2.6.

Diện tích một số loại cây công nghiệp hàng năm ở miền Bắc (19601975) ..........................................................................................................52

Bảng 2.7.

Sản lượng một số loại cây công nghiệp hàng năm ở miền Bắc (19601975) ..........................................................................................................52

Bảng 2.8.

Diện tích một số cây công nghiệp lâu năm ở miền Bắc (1960-1975) .......53

Bảng 2.9.


Sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm ở miền Bắc (1960-1975) ......53

Bảng 2.10. Sản lượng một số loại gia súc gia cầm ở miền Bắc 1960-1975 .................54
Bảng 2.11. Tổng sản lượng thu hoạch cá ở miền Bắc từ năm 1960-1967 ...................56
Bảng 3.1.

Sản lượng lương thực quy thóc của miền Bắc qua các năm 1955-1968 ...64

Bảng 3.2.

Khối lượng tiêu thụ chủ yếu về thực phẩm chủ yếu của nông dân xã
viên (bình quân đầu người một tháng) ở miền Bắc từ năm 1959-1967 .....66


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ nền văn minh lúa nước ở khu vực
Đông Nam Á. Đi suốt chiều dài lịch sử, nông nghiệp Việt Nam luôn biến đổi qua từng
thời kì và là ngành kinh tế chủ đạo của đất nước.
Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng tháng
Tám thành công đã khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Dưới chính thể mới
do giai cấp công nhân và nhân dân lao động kiến tạo, nền nơng nghiệp Việt Nam đã có
những biến chuyển mạnh mẽ. Đặc biệt, sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Pháp, cách mạng Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc bước
vào thời kỳ phục hồi kinh tế, xây dựng Xã hội Chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Tình
hình mới đã đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho tồn Đảng, tồn dân ta, đó là: khơi phục kinh
tế ở miền Bắc và cung cấp hậu cần cho miền Nam đấu tranh giải phóng dân tộc. Mà

mũi nhọn của kinh tế lúc này chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp và kinh nghiệm nghề
nông của các tầng lớp nhân dân miền Bắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và tinh thần
phấn khởi hăng say của nhân dân miền Bắc, nền nơng nghiệp miền Bắc Việt Nam đã
có những bước chuyển to lớn và đã vượt ra khỏi phương thức sản xuất nông nghiệp
thuộc địa nửa phong kiến manh mún, lạc hậu để từng bước định hình phát triển theo
hướng nông nghiệp kháng chiến, đáp ứng được nhu cầu lương thực tại chỗ của người
dân miền Bắc và là hậu phương vững mạnh cho miền Nam.
Là một giáo viên dạy lịch sử, tôi rất quan tâm đến những đóng góp của nền nơng
nghiệp miền Bắc cho sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và chi viện cho chiến
trường miền Nam. Vì vậy, tơi quyết định chọn đề tài “Sản xuất nông nghiệp ở miền
Bắc Việt Nam giai đoạn 1958–1968” để làm luận văn cao học cho mình.
Sở dĩ tơi chọn đề tài này vì những lí do sau:
Thứ nhất, tìm hiểu vai trị của nền nơng nghiệp Việt Nam nói chung và miền Bắc
Việt Nam giai đoạn 1958–1968 nói riêng trong bối cảnh lịch sử từng giai đoạn nhằm
khẳng định tầm quan trọng và những đóng góp có ý nghĩa chiến lược của nơng nghiệp


2

trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc. Từ đó mở rộng, nghiên cứu vấn đề này
một cách sâu rộng hơn trong thời kỳ mới.
Thứ hai, giai đoạn 1958–1968 là giai đoạn hợp tác hóa (hậu cải cách ruộng đất).
Đây là giai đoạn Đảng và Nhà nước đã nhìn ra được những hạn chế trong cuộc cải
cách ruộng đất đồng thời rút ra nhiều bài học kinh nghiệm để khắc phục những hạn
chế đó. Đây là một điểm cần được nghiên cứu sâu để hiểu được tại sao nền nông
nghiệp miền Bắc sau cải cách ruộng ruộng đất lại đạt được kết quả to lớn như vậy.
Thứ ba, là một người con sinh ra và lớn lên ở đồng bằng Bắc Bộ, tôi thấy rằng
nông nghiệp miền Bắc giai đoạn 1958–1968 có đóng góp lớn trong tiến trình phát triển
của lịch sử dân tộc. Vì thế, thơng qua đề tài này, tôi muốn phục dựng lại một bức tranh
nông nghiệp trong giai đoạn lịch sử hào hùng với hi vọng cung cấp cho người dân một

cách cụ thể và trọn vẹn hơn về vai trị của nơng nghiệp miền Bắc trong giai đoạn nói
trên.
Cuối cùng, là một giáo viên đang công tác giảng dạy lịch sử ở trường phổ thơng,
tơi hi vọng với việc tìm hiểu sâu hơn về nền nông nghiệp miền Bắc trong giai đoạn
lịch sử này sẽ giúp cho tơi có được những bài giảng phong phú hơn, đa dạng hơn để
truyền đạt lại cho các em học sinh về lòng tự hào dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như trên đã nói, nền nông nghiệp Việt Nam luôn biến chuyển qua từng giai đoạn
lịch sử với các chủ trương, chính sách mới ln thay thế. Chính vì vậy, để tiếp cận, tìm
kiếm nguồn tư liệu về nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1958–1968 là vơ cùng khó
khăn. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của bản thân và sự hỗ trợ giúp đỡ của nhiều người, tôi
đã tiếp cận được nhiều tư liệu nghiên cứu quý giá về nông nghiệp Việt Nam giai đoạn
này. Xin điểm qua một số cơng trình trong số đó:
Trong cuốn “Đưa hợp tác xã nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao”, NXB Sự
Thật - Hà Nội, năm 1959, tác giả Cao Tử Dũng đã đề cập đến việc áp dụng đưa hợp
tác xã bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao. Ơng phân tích tính chất hơn hẳn của hợp tác xã
nông nghiệp bậc cao, nguyên nhân tại sao phải đưa hợp tác xã nông nghiệp nhỏ, bậc
thấp lên hợp tác xã nông nghiệp lớn, bậc cao, muốn chuyển lên hợp tác xã nơng nghiệp
lớn cần có những điều kiện cụ thể gì đồng thời giới thiệu một số điểm chính trong cách


3

giải quyết những vấn đề cần thiết và cụ thể.
Tác phẩm “Thành tích sản xuất nơng nghiệp trong 15 năm dưới chế độ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa” của Bộ Nông Lâm do nhà xuất bản Sự thật phát hành năm 1960.
Cuốn sách đã nói lên được thành tích to lớn trong 15 năm (1945-1960) góp phần quan
trọng đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi. Qua đó, thấy được sự trưởng
thành nhanh chóng và khả năng cũng như triển vọng tốt đẹp của nền nông nghiệp Việt
Nam.

Tác phẩm “Mấy vấn đề sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc Việt Nam” của tác giả
Vân Huy do nhà xuất bản Sự thật phát hành năm 1963. Cuốn sách đã khái qt lên
được tình hình sản xuất nơng nghiệp miền Bắc Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám
(1945) đến khi kết thúc kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1960).
Tác phẩm “Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam” của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt
Nam – Viện Kinh tế với sự đóng góp của các tác giả Hồng Ước, Lê Đức Bình, Trần
Phương do NXB Khoa học Xã hội phát hành năm 1968. Cuốn sách đã trình bày những
nét đại thể lịch sử của cuộc cách mạng ruộng đất ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Duy Trinh “Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa trong quá trình thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược” NXB Sự thật - Hà Nội, năm 1976. Cuốn sách chính là
bài nói của đồng chí Nguyễn Duy Trinh tại Hội nghị cán bộ trung cao cấp do Ban Bí
thư Trung ương Đảng triệu tập để phổ biến Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Bài nói giúp cho các đại biểu dự hội
nghị hiểu đúng đắn và đầy đủ hơn tình hình và nhiệm vụ của miền Bắc, quán triệt hơn
tinh thần và nội dung Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 24 của Trung ương Đảng.
Tác phẩm “Nông dân Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa Xã hội” của Ủy ban Khoa học
Xã hội Việt Nam- Viện Sử học, NXB Khoa học Xã hội, năm 1979. Cuốn sách đã nêu
bật lên đường lối của Đảng trong việc lãnh đạo nông dân phát huy truyền thống ưu tú
4000 năm lịch sử của dân tộc, đẩy mạnh cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nông thôn
Việt Nam, đưa đến sự ra đời một giai cấp nông dân tập thể Việt Nam. Cuốn sách cũng
phân tích kết cấu giai cấp nông dân tập thể ở nước ta. Tác phẩm cũng đã trình bày
được, cuộc cách mạng khoa học- kĩ thuật được tiến hành trong nông nghiệp Việt Nam,
tuy mới là bước đầu nhưng đã đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực và đã chứng minh rõ


4

tính then chốt của nó trong nơng nghiệp hợp tác hóa Việt Nam.
Trong tác phẩm “Nền nơng nghiệp Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm
1945”, NXB Sự Thật - Hà Nội, năm1981, tác giả Thế Đạt đã khái quát được tình hình

nơng nghiệp ở hai miền từ năm 1945–1973. Ông cho rằng cần nắm vững những điều
kiện để chuyển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao và phải làm
cho sản xuất trong hợp tác xã nông nghiệp bậc cao thực sự tăng sản xuất, tăng thu
nhập.
Tác phẩm “Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam” của tác giả Lâm Quang Huyên, NXB
Khoa học Xã hội - Hà Nội, 2007. Trong tác phẩm, tác giả đã trình bày có hệ thống các
sử liệu về tồn bộ cách mạng ruộng đất ở Việt Nam trong 30 năm (1945-1975), một
cuộc cách mạng ruộng đất triệt để do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tác giả Nguyễn Chí Thanh “Về sản xuất nơng nghiệp và Hợp tác hóa nông
nghiệp”, NXB Sự thật- Hà Nội, 1969. Nội dung cuốn sách gồm một số bài nói và bài
viết của đồng chí Nguyễn Chí Thanh về sản xuất nơng nghiệp và hợp tác hóa nơng
nghiệp trong những năm 1961-1964. Đó là những bài nói của tác giả về những vấn đề
cơ bản về đường lối phát triển nông nghiệp và đường lối hợp tác hóa nơng nghiệp của
Đảng đến những bài nói về những vấn đề cụ thể trong đường lối đó, sau đó là những
bài có tính chất chỉ đạo từng nhiệm vụ, từng công tác, từng địa phương.
Trên đây là những tài liệu đã cung cấp cho tôi một lượng thông tin quý báu để
phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, đề tài tơi nghiên cứu là “Tìm hiểu
nền nơng nghiệp miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1958–1968” thì những tư liệu nghiên
cứu trên chỉ hỗ trợ ở các mức độ khác nhau vì phần lớn các tài liệu nói trên chỉ đề cập
đến một phần trong vấn đề nơng nghiệp miền Bắc chứ chưa có một cơng trình nào khái
qt được một bức tranh nơng nghiệp toàn diện ở khu vực này. Đồng thời cũng chưa
có một cơng trình nào đánh giá được vai trị của nền nông nghiệp miền Bắc giai đoạn
1958–1968 đối với công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và chi viện cho tiền tuyến
miền Nam. Chính vì vậy, trong đề tài này tôi sẽ khái quát lại một bức tranh tồn diện
về tình hình nơng nghiệp miền Bắc giai đoạn 1958–1968. Qua đó, đánh giá đúng vai
trị của nền nơng nghiệp miền Bắc trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền
Bắc và chi viện cho tiền tuyến miền Nam.


5


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu những chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển nơng nghiệp, q trình sản xuất nông
nghiệp và kết quả đạt được của nền nông nghiệp miền Bắc Việt Nam trong thời kì xây
dựng Chủ nghĩa Xã hội cùng với vai trị nơng nghiệp trong tình hình đất nước bị chia
cắt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu nền nơng nghiệp miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1958–1968.
Đây là giai đoạn miền Bắc nước ta vừa tiến hành xong cuộc cải cách ruộng đất, Đảng
và Nhà nước đã có những chính sách phát triển nơng nghiệp tới năm 1968 là năm kết
thúc cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ. Sau cuộc chiến
tranh phá hoại, Đảng và Nhà nước Việt Nam lại đưa ra những chủ trương, chính sách
để phục hồi và phát triển nền kinh tế nói chung và nền nơng nghiệp nói riêng.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Về nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài luận văn của mình tơi đã tham khảo các nguồn tư liệu sau:
các cơng trình được viết thành sách, các bài báo được viết và đăng trên tạp chí có uy
tín trong nước và các Nghị quyết, Chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp
giai đoạn 1958–1968.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu của mình tơi sử dụng cơ sở lí luận và phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôi sử dụng hai phương pháp chuyên
ngành đó là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Đồng thời, tôi cũng sử dụng
thêm một phương pháp nữa đó là phương pháp phân tích, so sánh để thấy được sự đổi
thay của nông nghiệp miền Bắc trước và sau năm 1958.
Trong tiến trình nghiên cứu đề tài, tôi cũng sử dụng phương pháp thống kê các số
liệu: sản lượng lương thực, thu nhập bình quân đầu người, diện tích canh tác…để làm

sáng tỏ nội dung của luận văn.


6

5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu để thấy được vai trò của nền nông nghiệp miền Bắc giai đoạn 1958 –
1968 đồng thời thấy được bức tranh nơng thơn Việt Nam thời kì xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội. Từ đó, thấy được những kết quả trong cơng cuộc hợp tác hóa nơng nghiệp và
sản xuất nông nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt của miền Bắc Việt Nam đồng thời còn là
hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát một số đặc điểm của nền nông nghiệp miền Bắc Việt Nam. Tìm hiểu
trong từng giai đoạn Đảng và Nhà nước đã đề ra những chủ trương, chính sách gì để
phát triển nơng nghiệp và nhân dân miền Bắc đã thực hiện những chủ trương, chính
sách đó như thế nào trong thực tế. Tiếp đó là kết quả đạt được khi thực hiện những
chính sách đó.
6. Đóng góp của đề tài
Luận văn giúp tìm hiểu sâu hơn về nền nông nghiệp miền Bắc Việt Nam giai đoạn
1958–1968. Từ đó thấy được vai trị của nơng nghiệp giai đoạn này trong công cuộc
xây dựng Chủ nghĩa Xã hội miền Bắc và chi viện cho miền Nam.
Luận văn cũng góp phần bổ sung thêm nguồn tư liệu về nông nghiệp miền Bắc giai
đoạn 1958–1968, từ đó phục vụ cho cơng tác giảng dạy, làm cho bài giảng thêm sinh
động hơn, phong phú hơn về một thời cha ông ta đã sống và trải qua. Từ đó bồi dưỡng
cho các em lịng tự hào dân tộc.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục thì luận văn
gồm ba chương như sau:
Chương 1. Khái qt tình hình nơng nghiệp miền Bắc Việt nam từ sau cuộc

kháng chiến chống Pháp đến trước năm 1958
Chương 2. Chính sách nơng nghiệp và tình hình sản xuất nông nghiệp miền Bắc
Việt Nam giai đoạn 1958–1968
Chương 3. Nhận xét về sản xuất nông nghiệp miền Bắc Việt Nam từ năm 1958
đến năm 1968.


7

Chương 1. KHÁI QT TÌNH HÌNH NƠNG NGHIỆP MIỀN BẮC
VIỆT NAM TỪ SAU CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
ĐẾN TRƯỚC NĂM 1958
1.1. Tình nơng nghiệp miền Bắc Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ
Chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kết thúc 9
năm trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Việt Nam tạm thời
bị chia cắt làm hai miền Nam – Bắc. Mặc dù thu được những thắng lợi quan trọng trên
bàn đàm phán nhưng tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ vẫn cịn gặp nhiều
khó khăn, thách thức.
Đối với miền Bắc, sau giải phóng bắt đầu bước vào giai đoạn cách mạng Xã hội
Chủ nghĩa (XHCN). Hậu quả để lại của cuộc chiến tranh kéo dài làm nền kinh tế sa sút
nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp vốn đã lạc hậu. Nông nghiệp bị tàn phá nặng nề
ngày càng kiệt quệ “Diện tích đất canh tác bị bỏ hoang rất lớn tới 145.000 héc-ta, 80
cơng trình thủy lợi lớn tưới cho 320.000 héc-ta ruộng bị phá hủy, đê điều bị hư hỏng,
nơng cụ bị phá phách, trâu bị bị bắn giết (có nơi cả xã chỉ có một vài con trâu, hàng
trăm mẫu ruộng đất khơng có một con bò cày)” (Vân Huy, 1963). Cuối năm 1954 đến
giữa năm 1956, miền Bắc liên tiếp xảy ra thiên tai lớn gây ra thiệt hại không nhỏ đến
sản xuất nông nghiệp “mưa úng làm thiệt hại đến 150.000 héc-ta trong vụ mùa năm
1954, bão mặn giữa năm 1955 làm cho hàng vạn héc-ta ruộng ở vùng ven biển Bắc bộ
bị ngập nước mặn, hạn hán kéo dài từ vụ này sang vụ khác, đầu năm 1956, diện hạn
rộng tới 150.000 héc-ta, cuối năm lại có mưa lũ làm ngập trên 65.000 héc-ta lúa

chiêm sắp gặt và trên 147.000 héc-ta lúa mùa vừa mới cấy xong” (Vân Huy, 1963).
Cùng với đó, nạn đói ở một vài nơi thuộc những vùng địch càn đi quét lại nhiều lần,
những vùng vành đai trắng ruộng hoang nhà vắng “trên 1 triệu người thiếu ăn và đói.
Giá gạo tăng đến 800 đồng một kg” (Thế Đạt, 1981). Nạn đói khơng chỉ đe dọa
nghiêm trọng đời sống của người dân ở nơng thơn mà nó cịn ảnh hưởng đến sản xuất.
Hàng chục vạn đồng bào nông dân bị địch cưỡng ép di cư làm giảm bớt lực lượng sản
xuất ở nông thôn và càng làm tăng thêm diện tích bỏ hoang bỏ hóa khơng người cày


8

cấy. Mặt khác, các vùng mới giải phóng là nơi người đơng, ruộng nhiều, đất tốt…
nhưng ruộng đất vẫn cịn nằm trong tay bọn địa chủ phong kiến, quan hệ sản xuất cũ
cịn tồn tại, người nơng dân chưa có ruộng cày cấy và cịn đang bị áp bức bóc lột. Sức
sản xuất ở nơng thơn bị kìm hãm nghiêm trọng nên sản xuất nông nghiệp không thể
phát triển được. Phác họa lại bức tranh nông nghiệp miền Bắc giai đoạn này, Hồ Chủ
tịch viết: “…Chiến tranh xâm lược của bọn thực dân đã làm cho nền kinh tế của ta
kiệt quệ. 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất khơng có nước tưới để cày cấy, các
cơng trình thủy lợi đều bị phá hủy, 1/4 số trâu bò bị giặc bắn giết… Nạn đói đe dọa
khắp nơi… Tóm lại là một cảnh tượng hoang tàn, xơ xác” (Thế Đạt,1981).
Trước những khó khăn miền Bắc đang phải đối mặt, vấn đề quan trọng nhất lúc
này là khôi phục kinh tế hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Trong vấn đề khôi phục
kinh tế, sản xuất nông nghiệp được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu. Tháng
9/1954, Nghị quyết của Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng
định: “Sau đình chiến chúng ta đứng trước một nhiệm to lớn trong công tác kinh tế là
hàn gắn những vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó
khăn về đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế có kế hoạch và làm từng
bước…Trong thời kì phục hồi, trước hết cần nắm vững việc phục hồi và phát triển sản
xuất nông nghiệp…” (Thế Đạt, 1981). Như vậy, nhiệm vụ lúc này của Đảng và Chính
phủ ta đó là khơi phục kinh tế, trọng tâm là phát triển sản xuất nông nghiệp hàn gắn

vết thương chiến tranh, kịp thời thực hiện công cuộc cải tạo XHCN thắng lợi, đẩy lùi
nạn đói ở miền Bắc, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân. Cùng với
đó, miền Bắc phải trở thành hậu phương vững chắc để cung cấp lương thực, thực
phẩm cho miền Nam đánh giặc. Nhiệm vụ của miền Bắc lúc này hết sức nặng nề và rất
quan trọng. Nhìn nhận được vấn đề một cách thấu đáo, sáng suốt, Đảng và Chính phủ
ta đã đề ra nhiều chính sách, trước hết là chính sách ruộng đất để phát triển nơng
nghiệp ở miền Bắc, để miền Bắc hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của mình.
1.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về ruộng đất sau năm 1954
1.2.1. Tiếp tục thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc từ năm 1954-1956
Giai đoạn sau năm 1954, trong nơng nghiệp chính sách về ruộng đất được coi là
chính sách hàng đầu để phát triển sản xuất nông nghiệp. Việc thực hiện từng bước các


9

chính sách cải cách dân chủ từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1952 đã tạo ra
những chuyển biến to lớn, sâu sắc trong chế độ ruộng đất và quan hệ giai cấp ở nông
thôn nước ta. Tuy nhiên, về mặt sở hữu ruộng đất, đến năm 1953 giai cấp địa chủ vẫn
cịn chiếm một tỉ lệ diện tích quan trọng trong khi đại đa số nông dân vẫn thiếu ruộng
phải lĩnh canh cấy rẽ và nộp tô cho chúng. Khẩu hiệu “người cày có ruộng” chưa được
giải quyết một cách căn bản, giai cấp địa chủ vẫn bóc lột nông dân nghèo dưới chế độ
tô thuế và vẫn tồn tại như một giai cấp.
Bắt đầu từ năm 1953, Đảng và Chính Phủ phát động quần chúng tiến hành giảm
tơ, thối tơ và giảm tức. Chiến dịch bắt đầu từ năm 1953 và kết thúc năm 1956 qua 8
đợt giảm tô được tiến hành ở 1.875 xã và đã thu được nhiều kết quả. Cuộc phát động
quần chúng giảm tô thực sự là một cuộc tập dợt vĩ đại trước khi Đảng tiến hành cuộc
phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
việc thi hành chính sách giảm tơ, giảm tức nhiều nơi khơng thu được kết quả như
mong đợi, q trình thực hiện gặp nhiều sai phạm, những yêu cầu của người nông dân
vẫn không được thỏa mãn. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương Đảng họp lần thứ

IV (1/1953) đã kiểm điểm việc thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng trong những
năm kháng chiến và kết luận rằng chúng ta chưa kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phản đế và
phản phong, chính sách ruộng đất chưa được thi hành đầy đủ và kịp thời. Vấn đề được
đưa ra và cần phải giải quyết kịp thời lúc này phải tiến hành là thực hiện cải cách
ruộng đất. Chính trong đợt phát động quần chúng giảm tơ hồn thành đã tạo cơ sở cho
nông thôn bước vào cuộc đấu tranh mới: phát động quần chúng cải cách ruộng đất, xóa
bỏ giai cấp địa chủ, hồn thành nhiệm vụ xóa bỏ chế độ phong kiến. Chủ trương cải
cách ruộng đất đã được hình thành từ dự thảo Cương lĩnh ruộng đất ở Hội nghị lần thứ
IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II (tháng 1/1953). Hội nghị lần V, Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa II (11/1953) quyết định tiến hành phát động quần chúng
cải cách ruộng đất. Từ ngày 14–23/11/1953, Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng
họp, bổ sung và trở thành cương lĩnh chính thức. Tháng 12/1953, Luật cải cách ruộng
đất chính thức được Quốc hội thơng qua trong một kì họp đặc biệt. Để thực hiện tốt
mục đích yêu cầu đề ra cho cuộc vận động mọi công tác đều phải quán triệt đường lối
giai cấp của Đảng ở nông thôn là “dựa hẳn vào bần cố nơng, đồn kết chặt chẽ với phú


10

nơng, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản
xuất, đẩy mạnh kháng chiến” (Trường Chinh, 1954). Thể chế hóa Luật cải cách ruộng
đất đã được Quốc hội thông qua, từ năm 1953 đến năm 1956, Đảng Lao động Việt
Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phát động cuộc cải cách ruộng đất
ở miền Bắc Việt Nam. Tháng 12/1953, cải cách ruộng đất bắt đầu mở đợt thí điểm.
Đợt thí điểm cải cách ruộng đất được tiến hành tại 6 xã thuộc huyện Đại Từ (Thái
Nguyên). Thắng lợi của đợt cải cách ruộng đất đầu tiên đã vượt ra ngoài phạm vi của
những địa phương nhỏ hẹp “Ảnh hưởng của nó vang dội trong tồn quốc, làm nức
lịng quần chúng công nông ở địa phương và các chiến sĩ ngoài tiền tuyến” (Lâm
Quang Huyên, 2007). Cuộc cải cách ruộng đất được tiến hành song song với cuộc phát
động giảm tô và thực hiện qua 5 đợt. Đợt 1 cải cách ruộng đất kết thúc vào lúc hịa

bình được lặp lại, miền Bắc được hồn tồn giải phóng bước vào giai đoạn cách mạng
XHCN. Đợt 2 cải cách ruộng đất được tiến hành trong hịa bình. Từ đó, cuộc phát
động quần chúng bắt đầu lan rộng vào vùng trung du và đồng bằng vùng mới giải
phóng. Đợt 4, 5 cải cách ruộng đất tiến hành trên một địa bàn rất rộng, mỗi đợt gồm
mấy trăm cho đến một nghìn xã. Trải qua 5 đợt, cải cách ruộng đất đã kết thúc vào
tháng 7/1956 “Tổng cộng cả 5 đợt là 3.314 xã (sau chia nhỏ thành 3.653 xã) thuộc 22
tỉnh, thành phố” (Hồng Ước, Lê Đức Bình và Trần Phương, 1968). Đường lối giai
cấp và đường lối quần chúng đúng đắn của Đảng đã phát động được nông dân trỗi dậy
làm cải cách ruộng đất, giành ruộng đất và quyền làm chủ ở nơng thơn. Bầu khơng khí
cách mạng ở nơng thơn kháng chiến trong thời kì giảm tơ và cải cách ruộng đất không
những đã đưa cuộc cách mạng phản phong với một khí thế như vũ bão tới thắng lợi mà
cịn có sức động viên tồn lực nhân dân hăng hái ra chiến trường đánh thắng chủ nghĩa
đế quốc. Kết quả của cuộc phát động quần chúng cải cách ruộng đất, số ruộng đất tịch
thu, trưng thu, trưng mua được của địa chủ chia hẳn cho nông dân lao động và xác
nhận quyền sở hữu của họ đối với số ruộng đất được tạm cấp, phân tán trước đây
“Tổng cộng từ năm 1953-1957,810.000 héc-ta ruộng đất ở đồng bằng và trung du
miền Bắc đã được chia cho 2.104.138 hộ nông dân và nhân dân lao động bao gồm
8.323.636 nhân khẩu chiếm khoảng 72,8% số hộ ở nông thôn miền Bắc. Ngồi ra nơng
dân cịn được chia 1.846.000 nơng cụ, 106.448 trâu bị và 148.565 nhà cửa” (Hồng


11

Ước et al., 1968). Với kết quả này, không thể phủ nhận rằng những gì đã diễn ra sau 5
chiến dịch phát động cải cách ruộng đất kéo dài hơn 3 năm đã mang lại kết quả vô
cùng to lớn cho người nông dân Việt Nam sau cuộc kháng chiến chống Pháp giành
thắng lợi. Nó đã đi vào lịch sử và trở thành một giai đoạn được ghi nhận là một cuộc
vận động nông dân “long trời lở đất”. Cuộc cải cách ruộng đất đã đem đến nguồn tư
liệu quý giá nhất cho người nơng dân là ruộng đất. Có ruộng đất, đời sống người nơng
dân tích cực sản xuất, đời sống dần đổi thay. Trên những thửa ruộng trước kia của địa

chủ, giờ đây “Lúa chín vàng mênh mơng. Ai trơng ruộng lúa cũng phải khen tốt hơn
năm ngối nhiều lắm. Nơng dân làm chủ ruộng đất rồi có khác” (Lê Nghiêm, 1955).
Người nông dân nghèo sau cải cách ruộng đất có ruộng, họ bừng bừng phấn khởi, sung
sướng, ánh sáng của Đảng và Bác Hồ đã rọi sáng cả cuộc đời của họ. Mục đích của
cuộc cải cách ruộng đất chính là ở đó, mang lại ruộng đất cho người nông dân, đem lại
cuộc sống ấm no hơn cho họ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì cuộc cải cách ruộng đất cũng
mắc phải những khuyết điểm, sai lầm nghiêm trọng mà đến năm 1956 đã phát hiện và
thống kê như sau: Trong 3.563 xã đã qua 8 đợt phát động quần chúng và tiến hành 5
đợt cải cách ruộng đất, số người bị vu oan chiếm tỉ lệ rất cao. Việc định mức địa chủ
chiếm 5.68% dân số địa phương là quá cao mức thực tế” (Tạp chí Xưa và Nay, 2007).
Những sai lầm trong cải cách ruộng đất là “những sai lầm về chỉnh đốn tổ chức, về
đánh địch và về chấp hành đường lối giai cấp của Đảng ở nơng thơn” (Hồng Ước et
al., 1968). Những sai lầm trong tổ chức thực hiện với chiều hướng khuynh tả trong chủ
trương chỉnh đốn tổ chức đã mang lại một tổn thất to lớn và hằn sâu trong kí ức một
thời “Khơng thể kể hết những cảnh tượng bi thảm mà những người bị oan là địa chủ,
ác bá (mà thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động…” (Tố
Hữu, 2000).
Sau những sự kiện quốc tế và trong nước đầu năm 1956, đã có sự bừng tỉnh “Sai
rồi”. Từ tháng 7 năm 1956, liên tiếp có nhiều cuộc Hội nghị quan trọng của Đảng và
Nhà nước để bàn về những sai lầm và việc sửa sai. Trong đó, đặc biệt phải kể đến Hội
nghị Trung ương X họp hai lần từ tháng 9- 11/1956. Hội nghị đã phân tích thắng lợi
và sai lầm của cải cách ruộng đất cùng với những thuận lợi và khó khăn của việc sửa


12

sai. Hội nghị cũng đã thẳng thắn vạch rõ những sai lầm trong những năm qua, phân
tích nguyên nhân và gọi đúng tên của những sai lầm là “tả khuynh”. Trên cơ sở đó đưa
ra những giải pháp kiên quyết và hữu hiệu để sửa sai. Một trong những biểu hiện thể

hiện tinh thần thẳng thắn, dũng cảm sửa chữa sai lầm là Hội nghị đã quyết định thi
hành kỉ luật một số cán bộ trong Ban lãnh đạo ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương.
Đây là một bài học sâu sắc về một tinh thần dám chịu trách nhiệm, dám nhận lỗi trước
nhân dân, dựa vào dân để sửa sai của một tổ chức cách mạng. Qua sửa sai, chúng ta đã
phần nào hàn gắn được những tổn thất trong cuộc cải cách ruộng đất. Đó là một mảng
tối trong bức tranh sáng mà chúng ta đang chứng kiến ở những năm đầu tiên của một
thế kỉ mới, một thiên mới đầy hứa hẹn và thử thách. Đó là một bức tranh tổng quan
của hơn nửa thế kỉ “dân cày có ruộng”.
Cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc tiến hành đã đạt được những kết quả to lớn.
Kết quả đó, làm cho người nơng dân có ruộng đất, xóa bỏ hồn tồn chế độ chiếm hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ đã tồn tại cả hàng trăm năm nay. Vấn đề sở hữu ruộng
đất của các giai cấp ở nơng thơn miền Bắc có sự thay đổi.
1.2.2. Tình hình sở hữu ruộng đất của các giai cấp
Trước khi tiến hành cải cách ruộng đất, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cải
cách từng phần và cũng thu được nhiều kết quả. Vấn đề sở hữu ruộng đất của các giai
cấp, tầng lớp ở nông thôn đã biến đổi về căn bản.
Đối với giai cấp địa chủ, sau cuộc phát động giảm tô, giảm tức rồi đến cải cách
ruộng đất, nhận thấy số phận của của mình sẽ có ngày phải kết thúc, ruộng đất sẽ
khơng còn tập trung trong tay nữa, giai cấp địa chủ lúc này tìm mọi cách để phân tán
ruộng đất nhằm chống đối lại các chính sách của Đảng và Nhà nước. Kết quả của việc
làm đó khiến cho tình hình sở hữu ruộng đất của địa chủ giảm đi rất nhiều. Theo thống
kê “trong 3.035 xã, lấy số ruộng đất chiếm hữu của giai cấp địa chủ năm 1945 là 100,
thì từ năm 1945 đến 1949, địa chủ chuyển dịch đi 10,44%, từ năm 1949 đến tháng
4/1953 chúng phân tán đi 30,8%, từ tháng 4/1953 đến trước ngày cải cách ruộng đất ở
địa phương chúng phân tán thêm 15,2%... Bước vào cải cách ruộng đất, “giai cấp địa
chủ chỉ còn giữ trong tay trên 40 % số ruộng đất mà chúng có trước Cách mạng tháng
Tám” (Hồng Ước et al., 1968).


13


Đối với giai cấp nông dân, sau khi tiến hành cải cách ruộng đất, người nơng dân
lúc này đã có ruộng đất. Cuộc cải cách ruộng đất đã “tịch thu, trưng thu, trưng mua
810.000 héc-ta ruộng đất, chia cho 2.104.138 hộ nông dân gồm 9.000 nhân khẩu
trong 3.653 xã ở miền Bắc, bình qn mỗi hộ được 3.848 mét vng, hơn 10 sào Bắc
bộ” (Bộ Nông Lâm, 1960). Sau cuộc cải cách ruộng đất, tính theo bình qn nhân
khẩu được nhận ruộng là “cố nông, bần nông đều được chia trên dưới 1.200 thước
vuông, trung nông được chia thêm 500 thước vng” (Thế Đạt, 1981) .
Bảng 1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất của các giai cấp trước và sau cải cách
ruộng đất
Bình qn một nhân khẩu (mét vng)
Thành phần

Sở hữu trước

Sở hữu và sử dụng

CCRĐ

trước CCRĐ

Trung nông

1.257

1.678

1.610

Bần nông


490

1.006

1.437

Cố nông

262

807

1.413

Sở hữu sau CCRĐ

“Nguồn: Hoàng Ước et al. 1968”.
Qua bảng 1.1 ta thấy, trung nông phải nhường bớt một phần ruộng sử dụng,
nhưng mức sở hữu ruộng đất của họ sau cải cách ruộng đất vẫn cao hơn mức sở hữu
trước cải cách ruộng đất. Bần nông và cố nông từ chỗ khơng có hoặc có ít ruộng nay
đã xấp xỉ ngang mức sở hữu của trung nông. Ở nông thôn khơng cịn cố nơng nữa. So
sánh tình hình ruộng đất trước cải cách ruộng đất và sau cải cách ruộng đất ta thấy
“trước tháng 8/1945, diện tích đất trung bình của một địa chủ là 10.980 m2, của một
phú nông là 4200 m2, trung nông là 1.450 m2, bần nông là 472 m2, cố nông là 112 m2.
Sau Cải cách ruộng đất năm 1957, diện tích tương ứng là: 730 m2, 1.720 m2, 1390 m2,
1.370 m2” (Lâm Quang Huyên, 2007).
Vậy là, với cuộc cải cách ruộng đất, tình hình sở hữu ruộng đất của các giai cấp,
tầng lớp ở nông thơn Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt. Địa chủ từ một giai cấp chiếm
hữu ruộng đất nhiều nhất trong xã hội giờ đây ruộng đất đó đã thuộc quyền sở hữu của



14

nông dân. Chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến bị thủ tiêu vĩnh
viễn. Chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân được xác lập. Nông dân đã trở thành
người chủ thực sự ở nơng thơn khơng chỉ về chính trị mà cả về kinh tế. Nhà nhà, người
người phấn khởi, hăng hái kéo ra đồng, nhà nào nhà nấy cắm thẻ mang tên họ của
mình lên những thửa ruộng đã được chia. Nhìn những tấm thẻ trên những mảnh ruộng
hẳn ta hiểu được niềm vui sướng tột cùng của người nông dân khi ước vọng bao đời
nay đã thành hiện thực. Có được kết quả này là do đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng
suốt của Đảng và Chính phủ ta. Dưới ánh sáng của Đảng soi đường, nơng dân miền
Bắc có ruộng đất, tích cực hăng hái tham gia sản xuất đảm bảo cuộc sống đầy đủ, ấm
no tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH) đồng thời thực hiện nhiệm vụ hậu
phương lớn đối với tiền tuyến miền Nam.
1.3. Tình hình sản xuất nơng nghiệp từ tháng 7 năm 1954 đến năm 1957
1.3.1. Hoạt động sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc
Năm 1954, miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng, cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân cơ bản được hồn thành. Miền Nam cịn nằm dưới ách thống trị của chế
độ thực dân mới. Trước sự thay đổi của tình hình đất nước, để chỉ đạo kịp thời mọi
hoạt động của Đảng trong hoàn cảnh mới, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp từ
ngày 5–7/9/1954, ra nghị quyết “Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới
của Đảng”. Lúc này, miền Bắc cũng vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp kéo
dài, hậu quả để lại hết sức nặng nề. Cùng với đó, thực trạng của nền kinh tế miền Bắc
nói chung và nền nơng nghiệp nói riêng vốn nghèo nàn, lạc hậu. Đứng trước tình hình
đó, Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng là “Đoàn kết và lãnh đạo nhân
dân đấu tranh thực hiện đình chiến để củng cố hịa bình, ra sức hồn thành cải cách
ruộng đất, phục hồi sản xuất, tăng cường xây dựng Quân đội nhân dân để củng cố
miền Bắc…” (Viện Mác-Lênin – Viện Lịch sử Đảng, 1982). Để thực hiện nhiệm vụ
mới, việc đầu tiên mà Đảng và Chính phủ đặt ra cho miền Bắc là “phải nhanh chóng

khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, lấy việc khôi phục nông nghiệp làm
trung tâm chủ yếu, nhằm củng cố và đưa miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa Xã hội làm cơ
sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà” (Bộ Nông lâm, 1960). Đảng
và Nhà nước đã quyết định phát động quần chúng thực hiện kế hoạch 3 năm (1955-


15

1957) nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Kế hoạch 3 năm khơi
phục kinh tế chính là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thời kì cách mạng mà nhiệm vụ
chủ yếu là hoàn thành triệt để những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, đồng thời tạo cơ sở ban đầu đưa miền Bắc đi vào con đường cách mạng
XHCN. Trong ba năm 1955-1957, Đảng và Chính phủ đã cơng bố nhiều quyết sách
quan trọng nhằm tạo ra động lực cho việc khôi phục và phát triển nông nghiệp. Tại
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần VIII (khóa II – 8/1955), nêu rõ “Công
cuộc cải cách ruộng đất vẫn là công tác trung tâm nhưng công tác khôi phục kinh tế là
công tác rất trọng yếu” (Viện Mác– Lênin – Viện Lịch sử Đảng, 1982). Nhiệm vụ
khôi phục kinh tế được tiến hành trong một điều kiện hết sức gay gắt của một xã hội
vốn là thuộc địa lại vừa trải qua cuộc chiến tranh kéo dài bị tàn phá nặng nề. Trong
khôi phục kinh tế, sản xuất nông nghiệp phải được đặc biệt coi trọng “Cần nắm vững
việc phục hồi và phát triển sản xuất nơng nghiệp. Đó là vấn đề then chốt là cơ sở của
việc cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo lương thực cho nhân dân, phồn thịnh kinh
tế, mở rộng việc giao lưu hàng hóa” (Thế Đạt, 1981). Thực hiện các chủ trương trên
của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta lao mình vào mặt trận sản xuất nông nghiệp.
Sau chiến tranh, diện tích ruộng đất bị bỏ hoang ở nơng thơn rất lớn, nông nghiệp
bị tàn phá nặng nề và ảnh hưởng của thiên tai đe dọa. Nhiệm vụ của miền Bắc lúc này
đó là biến hàng nghìn diện tích đất hoang hóa trở thành đất trồng trọt. Dưới sự chỉ đạo
của Đảng, nhân dân miền Bắc đã tích cực cầm cày, cầm cuốc vỡ đất “năm 1955– 1956,
toàn bộ 12.600 héc-ta ruộng hoang được khai phá kịp thời cho vụ chiêm” (Bộ Nông
lâm, 1960). Sau khi khai hoang, trên những thửa ruộng nông dân bắt đầu tiến hành

trồng cây lương thực.


16

Bảng 1.2. Diện tích gieo trồng các loại cây nơng nghiệp trong những năm 19551957
Đơn vị: Nghìn héc-ta
1955

1956

1957

Tổng cộng

2515, 0

2761, 4

2597, 5

Cây lương thực

2402, 0

2607, 4

2433, 2

Lúa cả năm


2066, 4

2214, 2

2136, 0

Ngô

134, 8

198, 9

171, 6

Khoai lang

133, 3

156, 6

105, 0

Sắn

27, 5

37, 7

20, 5


“Nguồn: Tổng cục Thống kê 1968”.
Diện tích cây lương thực từ năm 1955 đến năm 1956 có tăng lên đáng kể (xem
Bảng 1.2). Để tăng thêm diện tích đất trồng trọt, người nông dân đã ra sức canh tác
trên những đám ruộng bị bỏ hoang, cỏ ngập lụt đầu. Với những công cụ thô sơ nhưng
người nông dân quyết tâm vượt mọi gian khổ, phạt hết cỏ, phá sạch bụi rậm, biến
những cánh đồng hoang vu ấy thành những ruộng lúa màu xanh tốt. Tinh thần quyết
tâm đấu tranh vượt mọi khó khăn gian khổ của nơng dân cộng với sự động viên, khích
lệ của Đảng và Nhà nước càng làm tăng thêm sức mạnh cho nông dân chiến thắng
được thiên tai, đẩy mạnh sản xuất. Như vậy, từ ruộng đất hoang hóa, đất trống, đồi
trọc, giờ đây dưới bàn tay của người nông dân miền Bắc những thửa ruộng đó đã được
phủ bởi một màu xanh của sự no ấm.
Bên cạnh việc khai khẩn đất hoang, biến đất hoang hóa trở thành đất trồng trọt để
sản xuất lương thực tăng thì cơng tác thủy lợi trong nơng nghiệp cũng được Đảng và
Nhà nước ta hết sức quan tâm. Sau kháng chiến, do hậu quả của chiến tranh nhiều
năm, hệ thống đê điều và thủy nông ở miền Bắc bị tàn phá nghiêm trọng. Các cơng
trình thủy lợi lớn và vừa đều bị phá hủy, đê điều không được củng cố. Lúc này, cải
cách ruộng đất đang ở cao trào, nơng dân đã có ruộng nhưng úng lụt, hạn hán đe dọa
sản xuất và đời sống. Để canh tác được cần phải phục hồi ngay những cơng trình thủy
nơng đã bị phá hủy trong kháng chiến. Chính phủ xác định nhiệm vụ hàng đầu của
ngành thủy lợi trong kế hoạch 3 năm khơi phục kinh tế là “Vì nhu cầu lương thực cấp


17

thiết nên cần làm những công tác dễ làm, mau hưởng, tốn ít, lợi nhiều. Vì vậy, cơng
trình đại thủy nơng chủ yếu là phục hồi tồn bộ các hệ thống nông giang đã khai thác
trước ngày kháng chiến và khuếch trương kênh máng để tăng diện tích, cải tiến quản lí
nước, giáo dục nhân dân triệt để tiết kiệm nước để đạt mục đích ít nước mà tưới được
nhiều ruộng” (Bộ Thủy lợi, 1995). Để tu sửa lại các hệ thống đê điều, xây lại các hệ

thống nông giang, đập, cống bị giặc tàn phá trước kia, nông dân khắp nơi đã xung
phong đóng góp hàng triệu ngày cơng, gánh hàng chục triệu gánh đất đá…nhanh
chóng hàn gắn lại các cơng trình bị phá vỡ. Bên cạnh việc khơi phục và xây dựng các
cơng trình thủy lợi, nhiệm vụ phòng chống bão lụt tiếp tục được Đảng và Nhà nước
quan tâm. Phần lớn đê còn thấp, bé và yếu. Kế hoạch đê điều trong giai đoạn này chủ
yếu là củng cố, tăng cường các tuyến đê hiện có, trước hết là các đoạn xung yếu, quan
trọng.
Trong giai đoạn này, thiên tai cũng thường xuyên xảy ra, đe dọa tới hoạt động
sản xuất nông nghiệp. Với những khẩu hiệu, “tự lực giải quyết những khó khăn trong
sản xuất là chính”, “sức người quyết thắng thiên tai”, người nông dân Việt Nam đã
chiến đấu dũng cảm với những điều kiện vô cùng gay go và phức tạp. Hạn hán kéo dài,
với khẩu hiệu “thay trời làm mưa”, “vắt đất ra nước”, người nông dân đã gánh hàng
triệu gánh nước tưới lúa và hoa màu, đào hàng vạn cây số mương, lạch, ao, giếng, sáng
chế và tập trung hàng vạn guồng, gầu, xe đạp nước để tát nước vào ruộng, đảm bảo
cho hàng chục vạn héc-ta ruộng khơ có đủ nước cày cấy kịp thời vụ, cứu hàng chục
nghìn héc-ta ruộng lúa bị hạn. Mưa dầm, lũ lụt, với khẩu hiệu “nghiêng đồng đổ nước
ra sông”, hàng vạn nông dân đã tát nước suốt ngày đêm, cứu được hàng chục vạn hécta ruộng lúa và hoa màu khỏi bị ngập úng. Ở các tỉnh ven biển, sau những trận bão lụt,
đê vỡ, nước mặn tràn vào ruộng, nông dân đã gánh hàng triệu gánh nước đổ vào ruộng
để rửa mặn. Cùng với đó, họ tích cực tìm mọi biện pháp rửa mặn trên mảnh ruộng, đi
xa hàng chục cây số để chở đất ngọt về thay thế cho đất mặn để tiếp tục trồng lúa. Mặt
khác, họ còn nghiên cứu, sưu tầm và sáng tạo ra những giống ngô, khoai, chịu được
mặn để tích cực trồng hết diện tích, quyết khơng bỏ một thước đất hoang, một tấc đất
hóa vì mặn.


18

Cùng với các biện pháp phát triển sản xuất nông nghiệp, khôi phục kinh tế nhằm
hàn gắn vết thương sau chiến tranh, trong sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc lúc bấy
giờ xuất hiện một hình thức mới có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển đó là sự ra

đời của các “tổ đổi công”. Với truyền thống “Lá lành đùm lá rách” từ lâu đời, trong
nông thôn Việt Nam đã tồn tại những hình thức giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong sản
xuất cũng như trong đời sống xã hội. Việc huy động nhân lực trong những lúc mùa vụ
là chuyện thường thấy ở khắp mọi nơi. Sau Cách mạng tháng Tám, từ năm 1949, khi
Hội nghị ban liên lạc nơng dân tồn quốc nhấn mạnh cơng tác vận động hợp cơng thì
phong trào đổi cơng ngày càng phát triển mạnh. Cũng từ đó, tổ đổi cơng được coi như
một hình thức tổ chức sản xuất mới trong nơng nghiệp. Sau khi hịa bình, phong trào
đổi cơng càng phát triển. Liên tiếp trong 3 năm 1955-1957, nhiều Hội nghị đổi cơng
tồn miền Bắc đã được tổ chức để bàn về nhiệm vụ củng cố và phát triển phong trào
đổi cơng. Ngày 30/6/1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về vấn đề củng
cố và phát triển phong trào đổi cơng. Chỉ thị đã phân tích lí do tất yếu cần phải đưa
nơng dân đi theo con đường sản xuất có tổ chức, có lãnh đạo. Phương châm xây dựng
tổ đổi công của Trung ương Đảng là “củng cố và phát triển có kế hoạch, có lãnh đạo:
ba nguyên tắc là tự nguyện, cùng có lợi và quản trị dân chủ” (Viện Mác-Lênin – Viện
Lịch sử Đảng, 1982). Nghĩa là muốn tổ đổi công đạt được kết quả thật tốt thì phải khéo
léo tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện. Phải khéo lãnh đạo, làm cho các tổ viên ai cũng
hăng hái làm việc, ai cũng hưởng lợi công bằng. Trong giai đoạn này, tổ đổi công được
phát triển rộng rãi “đến tháng 6 năm 1956 đã có hơn 19 vạn tổ hoạt động, thu hút 58,7
% số hộ nông dân tham gia” (Đặng Phong, 2005). Tuy nhiên, đến cuối năm 1956 đầu
năm 1957, số tổ đổi công giảm dần, hàng loạt tổ đổi công ngừng hoạt động. Nguyên
nhân có sự thay đổi này là do ảnh hưởng sâu sắc của những sai lầm trong cải cách
ruộng đất, do thiếu sót trong cơng tác giáo dục, động viên, tổ chức việc cải tạo XHCN
trong nông nghiệp như gò ép, thiếu kiên nhẫn giáo dục, chủ quan…Sau khi Đảng và
Nhà nước ta nhận ra sai lầm và tiến hành sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và
những thiếu sót trong phong trào tổ đổi cơng, phong trào tổ đổi công được phát triển
trở lại “tháng 11/1957 sau nửa năm khôi phục và củng cố, số tổ đổi cơng đã lên tới
85.691 tổ, trong đó có 17.413 tổ hoạt động thường xuyên, 1.782 tổ áp dụng phương



×