Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Những bài văn viết hay-Lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.42 KB, 16 trang )

Tích luỹ văn học
Tởng tợng mình gặp gỡ và trò chuuyện với ngời lính lái xe trong
văn bản : Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Hụm y trờn lp, tụi c hc bi th " Bi th v tiu i xe khụng kớnh" ca
Phm Tin Dut. Bi th tht hay v ý ngha. Nú nhanh chúng chim c thin cm
trong tụi. Bui ti, tụi ly sỏch ra hc thuc bi th. c mói... c mói... tụi bng
ngỏp di. Tụi thip i, chỡm vo gic ng. V tụi dó m, mt gic m tht kỡ l.
Gic m ua tụi ộn mt khu rng tht heo hỳt., xa l. Ni õy mi vng v lm sao.
Tụi git mỡnh ng ngỏc bi khụng gian ca khúi en mự mtvaf nhng ngn la chỏy
bp bựng ni xa tớt. Khụng bit õy l õu m xa l vy? Trỏi tim tụi nh hoang
mang, lo s. Tụi git bn ngi khi cú mt bn tay chc nch t lờn vai tụi. Tụi quay
ngi li. Trc mt tụi l mụt chỳ b i n vn vi ngụi sao trờn m v quõn hm
trờn vai. Chỳ cú nc da bỏnh mt, khuụn mt vuụng vn v y nghiờm ngh. Chỳ
hi tụi vi ging núi õn cn:" Chỏu i õu m lc vo rng Trng Sn la n? Ni
ch dnh cho chin tranh, cho cuc hnh quõn thn tc?"
Tụi tr li chỳ:" Chỏu chng bit õy l õu c. Mong chỳ giỳp chỏu tr v. Nhng...
hỡnh nh chỏu ó gp chỳ õu ri hay sao m nhỡn chỳ quen th?"
Chỳ mm ci v núi:" Chỳ l Phm Quc Khỏnh, l ngi lớnh lỏi xe trong tiu i
xe Trng Sn. Nhim v ca cỏc chỳ l chuyờn ch lng thc, v khớ, n dc v
c con ngi na chi vin cho min Nam chng M. Chỏu nhỡn quang cnh ni õy
m xem, nhng cỏnh rng bt ngn mu xanh nay ó tr thnh x xỏc. Nhng thõn
cõy di bam n nm ln lúc. Nhng h bam khng l- vt tớch ca chin tranh. V
chỏu hóy hng con mt v phớa ng xa kia, chỏu s thy on xe ca cỏc chỳ ang
tm ngh cho cỏc ng chớ sinh hot ba ti."
Chỳ y dn tụi t t tin n on xe. Tụi l phộp cho hi cac chỳ b i. Tt c mi
ng ci núi vui v v ngi xung mi tụi cựng n ba ti. Sau ba n, tụi c chỳ
Khỏnh a tụi i quan sỏt nhng chic xe. Tụi nhn ra ngay ca kớnh ca nhng chic
xe ó v ht, chỳng dng nh bin dng. tụi lin hi:" Sao xe li khụng cú kớnh va
bin dng vy chỳ?"
Chỳ lin tr li tụi:" Tt c u l hu qu ca chin tranh. Bom M ó lm v kớnh
xe, lm nhng chic xe b hy hoi."


Tụi hi li ngay:" Vy l cụng vic ca cỏc chỳ rt vt v, nhc nhn. Cỏc chỳ chc
jawr gp nhiu khú khn lm?"
" ỳng th. Khụng cú kớnh i ng rỏt bi. ai nhỡn túc cng trng nh ngi gi
vy- chỳ va núi va mm ci- nhng cỏc chỳ vn cựng chõm iu thc, nhỡn
khuụn mt lm lột ca nhau m ci."
V chỳ k tip s vt v cựa nhng ngay ma:" Nhng ngy cú ma mi cc. Ma
ht xi x vo bung lỏi. Cỏc chỳ ai nỏy u t sng ht c. Nhng cỏc chỳ khụng
chu u hng. cỏc chỳ vn lỏi xe. Ri ma s qua, qun ỏo khụ li nhanh thụi m."
Núi n õy tụi thy thng cỏc chỳ quỏ. Ngy ngy cỏc chỳ vn kiờn trỡ lỏi xe tri
vin cho min Nam bt k ma hay nng. Cỏc chỳ quỏ vt v, gian lao. Tụi ang
suy ngh thỡ chỳ núi tiộp:" Tuy vt v nhng chỳ vn thy hnh phỳc khi c sng,
c chin u vi cỏc ng i ca mỡnh. Nhng xhiecs xe vt qua bom n ó hi
t v õy. Bn bố cỏc chỳ bt tay nhau cng l qua ụ ca kớnh ó v ri. Cỏc chỳ
1
TÝch luü v¨n häc
duungj bếp ăn, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Những ngày tháng mắc võng chông chênh
giữa rừng, làm sao chú quên được? Các chú vẫn đi, bầu trời như rộng mở."
Tôi đi vòng quanh ngắm nghía những chiếc xe. Xe không có đèn, không có mui, rồi
thùng xe xước. Tôi hỏi chú Khánh:" Những chiếc xe đã hỏng quá rồi, chú nhỉ?"
" Ừ! Khó khăn là vậy nhưng các chú vẫn không nề hà- chú nói, ánh mắt sáng lên
niềm tin và hi vọng. Các chú vẫn cứ đi, vì miền Nam, vì thống nhất đất nước. Chỉ cần
quyết tâm, các chú sẽ vượt lên tất cả, hoàn thanh tốt nhiệm vụ của mình."
Nói đến đây, tôi không cầm được lòng mình. Tôi chạy tới, ôm chầm lấy chú:" Các
chú thật kiên cường! Cháu rất khâm phục các chú. Vượt lên tất cả, các chú luôn lo
cho đát nước. Thất đáng tự hào vì các chú. Chúng ta nhất định sẽ thắng lợi, chú ạ."
Chú nắm chặt lấy tay tôi:" Chắc chắn là như vậy. Đát nước sẽ sớm hòa bình cháu ạ."
Vừa nói đến đây, tiếng gọi của mẹ làm tôi thức giấc:" Học xong chưa? Tắt điện ngủ
thôi con!"
Tôi choàng tỉnh giấc. Tôi nghĩ lại về giấc mơ của mình. Tôi vẫn cảm nhận được sự
ấm áp của bàn tay chú Khanh khi chú nắm tay tôi. Câu chuyện thật hay va cảm động.

Qua giấc mơ, tôi như hiểu thêm về những ngườ lính bộ độ cụ hồ anh dũng trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ. Con người Việt Nam là vậy: Không bao giờ khuất phục trước
chiến tranh. Tôi nghĩ về mình. Tôi cũng phải như các chú ấy, luôn cống hiến hết mình
cho đất nước. Tôi sẽ cố gắng học tập để noi gương các chú, đưa dất nước Việt Nam
sánh vai với các cường quốc năm châu, như lời Bác đã dạy.
Hình ảnh người lính trong tác phẩm bài thơ về tiểu đội xe
không kính
So với những câu thơ viết về những chiếc xe thì số lưượng những câu thơ viết về
người lính nhiều hơn nhưng hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật
những hình ảnh của người chiến sĩ lái xe. Những chiếc xe không kinh, không đèn,
không mui là hình ảnh để người lính bộc lộ những phẩm chất hiên ngang, yêu đời,
tinh nghịch, giàu ý chí chiến đấu. Trước hết là tinh thần hiên ngang cho thấy thái độ
coi thường hiểm nguy của người lính. Trên những chiếc xe không kính, không đèn,
không mui người lính vẫn vững tay lái:" Ung dung buồng lái ta ngồi". Không chỉ hiên
ngang chấp nhận khó khăn mà người lính còn hiên ngang chấp nhận nguy hiểm. Nào
là gió vào xoa mắt đắng, nào là sao trời và cánh chim ùa vào buồng lái. Song những
người chiến sĩ không hề run sợ mà vẫn đối mặt với những thử thách, giữ vững trận
địa là buồng lái. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ. Vị ngữ ung dung được đảo lên
đầu câu để nhấn mạnh sự tự tin, bình than của những người lính lái xe. Ngoài ra còn
các điệp từ" nhìn thấy" được nhắc lại nhiều lần biểu hiện 1 nét đặc trưng của ngươif
chiến sĩ, thi sĩ vừa tập trung hoàn thành nhiệm vụ vừa không quên hưống tới vẻ đẹp
thiên nhiên. Thiên nhiên không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lãng mạn: bầu trời có
sao, có cánh chim mà cón có sự khốc liệt của bụi, của gió, của mưa như là 1 sự thách
thức. Không cú kính đương nhiên là có bụi, có mưa, có gió. Chỉ có điều cách diễn đạt
của tác giả làm cho chúng ta thây thía độ ngang tàng, bất chấp của người lính lái xe
đó là " ừ thì", là "chưa cần". Như vậy trước khó khăn gian khổ mà người lính không 1
lời kêu ca. Lời thơ lúc này nhẹ nhõm, trôi chảy, nhịp nhàng giống như hình ảnh chiếc
2
TÝch luü v¨n häc
xe bon vun vút ra chiến trường. Tâm hồn sôi nổi, tình đồng chí đồng đội sâu sắc được

thể hiện qua những câu thơ khổ 3,5,6. Ta thấy những chiến sĩ lái xe là những chàng
trai trẻ vui tính. Bom đạn không làm mất đi sự tinh nghịch. hóm hỉnh. Họ đã " phì
phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha". Tiếng cười của những chàng
trai như 1 khúc nhạn vui xua đi khó khăn, gian khổ và giựo cảm giác nhẹ nhõm, thanh
thản. Họ hồn nhiên tếu táo nhưng ho cũng thậy đoàn kết. Càng khó khăn gian khổi họ
càng gắn bó keo sơn. Không chỉ chia nhau từng điếu thuốc mà trong bom đạn nguy
hiểm những người lính lái những chiếc xe không kình đã tụ hopk lại thành 1 tiểu đội.
Tiếu đội này không phải là tiểu đội 1 hay tiểu đội 2 mà là tiểu đội xe không kính. Nếu
trong bài thơ đồng chí những người lính thương nhau tay nắm lấy bàn tay thù những
người lính trong bài thơ này bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. 1 cái bắt tay qua cửa kính đã
vỡ không chỉ là 1 chút đùa vui mà còn đủ làm ấm lòng, đủ động viên nhau. Cái bắt
tay giúp con người xít lại gần nhau trong nhiều cái chung: chung hoàn cảnh, chung
bếp lửa, chung bát đũa và nhất là chung con đường nơi vô vàn thách thức hiểm nguy
phía trước. Ta thấy dù trong khoảng khắc nào của cuộc hành quân những người lính
cũng luôn dộng viên, cháo hỏi nhau. Trên dường đi họ bắt tay nhau qua cửa kính, lúc
nghỉ cùng nhau châm điếu thuốc, đén bữa chung bát đũa. Tất cả nhận nhau là người
cùng 1 gia đình, để rồi họ lại cùng nhau lên đường:" lại đi lại đi trời xanh thêm". Câu
thơ này không chỉ chan chứa hy vọng về 1 tương lai tốt đẹp đang tới gần mà còn thể
hiện tinh thần lạc quan của người lính. Một số biện pháp tu từ trong bài thơ như: đảo
vị trí các từ trong cụm từ ( phì phèo châm điếu thuốc), hoán dụ ( Những chiến xe từ
trong bom rơi/ Đã về đây họp thành tiểu đội), điệp ngữ ( lại đi lại đi) đã góp phần
khảng định vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Ngoài ra họ còn là những con người có ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước. Cúng với những người lính, những chiến xe chở hàng ra chiến
trường trải qua mưa bom bão đạn không có kính rồi không có đèn rồi thùng xe có
xứôc. Chỉ trong 2 câu thơi mà điệp từ không đưộc nhắc lại 3 lần, 1 mặt để nhấn mạnh
sự khó khăn, mức độ ác liệt của chiên trường, mặt khác lại khảng định quyết tâm của
những người lính. Xe dù không có kính, dù không có đèn thì xe vẫn bon ra chiến
trường. Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng xe nhưng không thể đè bẹp được tinh
thần chiến đấu của những người lính lái xe. Xe chạy không chỉ vì có 1 động cơ máy

móc mà còn có 1 động cơ tinh thần " vì miên Nam phía trước". Đối lập với tất cả
những cái không có ở trên là 1 cái có dó là trài tim. là sức manhj tinh thần đã giuúp
người lính chiến thắng bom đạn kẻ thù. Trái tim ấy đã thay thế cho tất cả những thiếu
thốn: không kính, không đèn, không mui để tiến lên phía trưốc cho miền Nam thân
yêu. Hầu như trong tất cả những bài thơ đều có 1 từ quan trọng neu lên chủ đề bài thơ
gọi là nhãn tự của bài thơ. Trong bài thơ này từ trái tim cũng được coi là nhãn tự của
bài thơ. Tử này hội tụ vẻ đẹp, sức mạnh của người lính. Như vậy trái tim người lính là
sức mạnh tinh thân tỏa sáng rực rỡ cho người lính thêm sức mạnh để hướng tới miền
Nam.
3
TÝch luü v¨n häc
Suy nghĩ của em về hình ảnh những chiến sĩ lái xe trong “Bài
thơ về tiểu đội xe không
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu n¬ước của dân tộc ta là một bản
anh hùng ca bất diệt .Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước” ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người ,sức của chi viện cho Miền
Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ
Phạm Tiến Duật .Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành
nhà thơ chiến sỹ .Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu
du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên,sống động,gân guốc,độc
đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đôi xe không kính” là một bài thơ tiêu
biểu cho hồn thơ đó .
Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm:những chiếc xe và những người chiến sĩ
lái xe.Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ
tự nhiên ,mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra
chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi .
Cách lý giải đơn giản ,ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc .Cảm hứng thơ bắt đầu từ
hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung ”giúp ta hình dung sự tàn

phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi
những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm
chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ :
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất ,nhìn trời ,nhìn thẳng.
Trên những chiếc xe không kính ,dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh
khó mà bảo đảm .Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ.Trong
tư thế ung dung ,trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của
người làm chủ hoàn cảnh ,tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên.Nhịp thơ cân
xứng,ý thơ trôi chảy ,lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh
trên những nẻo đường ra trận .Cái vất vả ,gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng
những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái .
Xe không kính ,gió lùa mạnh vào cabin,người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn
thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến,dịu dàng và thân thiện ấy của
gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ .Và hơn thế nữa ,nắng mưa gió bụi
của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành :
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già .
…Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời .
4
TÝch luü v¨n häc
Điệp từ “ừ thì” , “chưa cần” ,hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”,giọng “cười haha”
hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái
vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái .Qua đó làm sáng lên tinh thần
cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh

để làm chủ hoàn cảnh .Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết cái gian nan của
người cầm lái.Đường Trường Sơn gập ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước,mùa
khô xe chạy bụi mù trời.Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió,
bụi,mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi.Trên những chiếc xe
không kính ,tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi .
Lạ lùng thay ,như một khám phá bất chợt của nhà thơ ,sự hiểm nguy của những chiếc
xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau , bởi họ có
thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công
việc vất vả, hiểm nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản
dị :
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy .
Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính không
chỉ là đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong một gia đình
. Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với
niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng . Chỉ có điều càng gần đến phương Nam
những chiếc xe ngày càng hư hỏng :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .
Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra : “không
đèn”,“không mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”.Như vậy cả
“không có” và “có ”đều là tổn thất ,đều là hư hại.Điệp ngữ “không có” được nhắc lại
ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của chiến tranh , hoàn thiện
dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải. Vượt dãy Trường Sơn ,đi qua
đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy thương tích những chiếc xe như
một dũng sĩ kiên cường . Kì lạ thay :
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

“Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống trẻ
trung ,sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến .Câu
thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra .Ta chợt nhận ra người chiến sỹ lái xe là
một phần không thể thiếu ,là con mắt ,là bộ não ,là linh hồn của xe .Có trái tim chiếc
xe thành một cơ thể sống ,thành một khối thống nhất với người chiến sĩ .Ta hiểu vì
sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của
nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu
thương.Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái .
Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ,rất lính.Chất giọng ấy bắt nguồn từ
sức trẻ ,từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng
5
TÝch luü v¨n häc
sống, từng trải nghiệm.Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi,hình ảnh thơ sáng tạo
bất ngờ ,đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp
dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả
LÀNG CỦA NHÀ VĂN KIM LÂN
Kim Lân, nhà văn của làng quê Việt Nam, đã vĩnh viễn ra đi vào chiều 20.7.2007.
Nhắc đến Kim Lân, là nhắc đến một mảng văn học đặc biệt, đậm đà hơi thở của làng
quê. Từng trang viết của nhà văn sinh ra từ đồng ruộng này đều cay xè khói bếp,
thơm thơm mùi lúa mới, ngai ngái mùi rơm rạ, bảng lảng những cánh cò chao nhịp...
Khoảng giữa năm ngoái trở lại đây nhà văn Kim Lân đã trở bệnh. Ông bị bệnh hen,
chắc bệnh đã ủ từ lâu, bây giờ tuổi già suy sụp, bệnh mới phát.
Cách đây chừng già hai tháng, lúc đó mới cuối xuân sang hạ, tôi dẫn cô học trò làm
đề tài thạc sĩ về truyện ngắn Kim Lân mà tôi hướng dẫn đến thăm ông tại Bệnh viện
Hữu nghị Việt - Xô. Lúc ấy khoảng 10 giờ, ông đang nằm thiêm thiếp. Cô con gái
ông đang ngồi bên cạnh chăm sóc. Tôi tự giới thiệu và rón rén lại gần. Ông mở mắt
và trở người, ý chừng bắt chuyện. Thày trò tôi vội chào ông và nói mục đích chuyến
thăm này trước là để thăm sức khỏe của ông, sau là biếu ông cuốn luận văn thạc sĩ
vừa mới bảo vệ có tên Văn hóa làng trong truyện ngắn Kim Lân. Ông tỏ ra rất vui.
Ông nói: "Trước đây cũng có vài người làm đề tài về tôi, đến gặp tôi, tôi cũng bảo xin

cuốn luận án làm kỷ niệm, có người nhớ, có người không. Tôi muốn có nó cốt để nói
với các con tôi rằng: Bố chúng mày cũng không đến nỗi nào, rằng các con cũng được
quyền kiêu hãnh vì bố chúng mày chứ...". Tôi cười, nói chen vào: "Lớp hậu sinh
chúng cháu có được một nhà văn như bác, chúng cháu cũng tự hào lắm"...
Trước đây, và trong quá trình hướng dẫn luận văn thạc sĩ, tôi có nhiều dịp đến thăm
tư gia nhà văn ở xóm Hạ Hồi, theo con ngõ từ Trần Hưng Đạo chạy vào. Ở trung tâm
Hà Nội mà nơi đó thật yên tĩnh. Ngồi trong nhà ông, giữa đồ đạc, căn phòng, nhìn
con người ông mang vẻ trầm mặc, cổ kính, có cảm giác như đang ngồi một nơi nào
thật xa vắng. Ờ, đó là màu của thời gian, của tuổi tác, của một đời văn trải qua 2/3 thế
kỷ và vắt sang thế kỷ 21 được đến hơn sáu năm trời. Mỗi lần đến, tôi đều hỏi chuyện,
rồi về nhà ghi chép lại được bao nhiêu là thứ.
Ông cho chúng tôi biết "chè khoán" trong Vợ nhặt là chè thế nào. Ông giải thích tên
làng ông là Phù Lưu, tức là giầu cau đọc chệch mà thành, rồi chợ Giầu nổi tiếng làng
ông không phải với nghĩa là giàu có mà là chợ bán trầu cau... Ông lại kể bao nhiêu
nguyên mẫu từ mẹ ông mang kiếp phận ngụ cư, những người hàng xóm quanh ông...
đi vào trang văn của ông. Các trang văn của Kim Lân bao giờ cũng cất lên từ những
6

×