Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thế Giới Cỏ Cây Trong Thơ Nôm Nguyễn Trãi Dưới Góc Nhìn Phê Bình Sinh Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Vũ Thu Thảo

THẾ GIỚI CỎ CÂY
TRONG THƠ NƠM NGUYỄN TRÃI
DƯỚI GĨC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Vũ Thu Thảo

THẾ GIỚI CỎ CÂY
TRONG THƠ NƠM NGUYỄN TRÃI
DƯỚI GĨC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
Chun ngành

: Văn học Việt Nam

Mã ngành

: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ



NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐỒN THỊ THU VÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong luận văn là trung thực, các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
TP. Tây Ninh, ngày 29 tháng 3 năm 2019
Tác giả
Vũ Thu Thảo


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc của mình đến PGS.TS. Đồn Thị Thu
Vân, người đã hết lịng giúp đỡ và tận tình hướng dẫn cho tơi trong suốt q trình
hồn thành luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn q thầy cơ đã nhiệt tình giảng dạy cho tôi trong
thời gian đào tạo vừa qua.
Tôi cũng xin cảm ơn quý thầy cô Khoa Ngữ văn, các thầy cơ Phịng Sau Đại
học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã ln quan tâm, tạo điều
kiện cho chúng tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã u
q, ln ủng hộ và tạo điều kiện tốt nhất để tơi hồn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

TP. Tây Ninh, ngày 29 tháng 3 năm 2019
Tác giả

Vũ Thu Thảo


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................ 14
1.1. Nguyễn Trãi và thơ chữ Nôm ........................................................................ 14
1.1.1. Thời đại ................................................................................................... 14
1.1.2. Con người - cuộc đời .............................................................................. 15
1.1.3. Thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi..................................................................... 17
1.2. Tiền đề triết học về mối quan hệ thiên – nhân và hình ảnh thiên nhiên
trong thơ ca trung đại Việt Nam .................................................................... 20
1.2.1. Triết học tam giáo trong quan hệ giữa con người và tự nhiên................ 20
1.2.2. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca trung đại Việt Nam .......................... 22
1.3. Lý luận về phê bình sinh thái trong văn học.................................................. 28
1.3.1. Khái lược lý luận phê bình sinh thái ....................................................... 29
1.3.2. Phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học và sự liên quan với
đề tài ........................................................................................................ 36
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 40
Chương 2. THẾ GIỚI CỎ CÂY TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA THẨM MỸ SINH THÁI .............. 42
2.1. Cỏ cây với vẻ đẹp tự nhiên, đa dạng.............................................................. 42

2.1.1. Vẻ đẹp khỏe khoắn, tràn đầy sức sống ................................................... 42
2.2.2. Vẻ đẹp giản dị, gần gũi ........................................................................... 48
2.2. Cỏ cây với vẻ đẹp tương tác, hài hòa trong một chỉnh thể thống nhất .......... 58
2.2.1. Vẻ đẹp bình đẳng, khơng phân biệt ........................................................ 58
2.2.2. Vẻ đẹp thân thiện, hịa hợp ..................................................................... 62


Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 68
Chương 3. THẾ GIỚI CỎ CÂY TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
VÀ MỐI TƯƠNG GIAO VỚI CHỦ THỂ TRỮ TÌNH ................... 70
3.1. Thế giới cỏ cây trong thái độ ứng xử với tự nhiên ........................................ 70
3.1.1. Cách sống giản dị, thanh nhàn, hịa mình vào vạn vật ........................... 71
3.1.2. Tình cảm trìu mến, yêu thương, trân trọng thiên nhiên .......................... 77
3.2. Thế giới cỏ cây là “quê nhà” để trở về .......................................................... 82
3.2.1. Điểm tựa tinh thần của nhà thơ ............................................................... 83
3.2.2. Cội nguồn minh triết trong cuộc sống .................................................... 88
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................... 97
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 100


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê về tần số xuất hiện của nhóm cây cao quý ............................... 54
Bảng 2.2. Thống kê tần số xuất hiện của nhóm cây bình dị, đời thường ................. 55


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Văn học Việt Nam thế kỷ XXI nở rộ với nhiều khuynh hướng văn học góp
phần làm mở rộng và đa dạng hơn nguồn đề tài cho văn học và nghiên cứu văn học
thời kì mới. Cùng với lý thuyết phê bình nữ quyền, phê bình sinh thái ở Việt Nam
dần trở thành một trào lưu phê bình năng động, tiến bộ, nhất là trong giai đoạn xã
hội hiện đại khi mà con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái – nguồn gốc
của mọi sự biến đổi khí hậu và khủng hoảng mơi trường. Trước tình trạng thế giới
tự nhiên ngày một xấu đi, phê bình sinh thái đã làm đúng vai trị và nhiệm vụ của
nó, làm cho con người phải nhìn nhận lại cách sống của mình, từ đó hình thành một
lối ứng xử hài hịa, gần gũi với tự nhiên.
Thái độ sống chan hòa, trân trọng tự nhiên từ lâu đã xuất hiện trong đời sống
văn hóa của người xưa và được biểu hiện cụ thể qua các tác phẩm của họ. Trong số
các nhà thơ trung đại, Nguyễn Trãi được xem là một tác gia nổi bật hơn cả. Các tác
phẩm của ơng đều có một vị trí quan trọng và giá trị to lớn trong nền văn học nước
nhà. Bên cạnh mảng thơ về lòng ưu ái, Nguyễn Trãi còn viết nhiều và viết hay về
mảng thơ thiên nhiên. Thiên nhiên hiện ra trong thơ ông ẩn chứa nét đẹp tự nhiên,
hài hòa, đầy sức sống đặc biệt là những vần thơ về các loài thảo mộc. Không phải
ngẫu nhiên mà trong thơ Nôm, ông dành ra hẳn một mục để nói về cỏ cây đồng thời
cũng cho chúng xuất hiện rải rác trong các bài thơ của những mục khác. Tình cảm
với cỏ cây đã đại diện cho tấm lòng trân quý, yêu mến thiên nhiên, tạo vật của
Nguyễn Trãi. Đó cũng chính là tinh thần mà phê bình sinh thái nỗ lực tìm kiếm và
khám phá.
Cỏ cây dù chỉ là một phần của thiên nhiên nhưng thơng qua đó, người đọc
thấy được tâm hồn tinh tế và cao thượng của Ức Trai. Tuy xuất hiện khá nhiều trong
thơ Nôm nhưng hiện nay vẫn chưa có các cơng trình nghiên cứu riêng biệt về cỏ cây
đồng thời nhìn chúng dưới lý thuyết phê bình sinh thái. Nhận thấy giá trị và ý nghĩa
nhiều mặt của cỏ cây trong thơ Nơm Nguyễn Trãi dưới góc nhìn phê bình sinh thái,
chúng tơi thực hiện đề tài này hy vọng góp thêm một cái nhìn mới về thế giới tự
nhiên trong thơ Nguyễn Trãi. Sau nữa, với đề tài này, chúng tôi cũng muốn đề xuất



2
một “cảm quan nhìn lại” về thế giới tự nhiên trong văn chương trung đại để thấy
được giá trị nhân văn cao đẹp trong văn hóa ứng xử với tự nhiên của người xưa. Dù
chưa nhận thức được sự quan trọng của tự nhiên, nhưng lối sống u thương, hịa
mình vào vạn vật của tác giả dường như đã trở thành một trong những phương
hướng giúp con người ngày nay bồi dưỡng thêm tình thương đối với thế giới tự
nhiên.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu cỏ cây trong thơ Nơm Nguyễn Trãi dưới góc nhìn phê bình
sinh thái cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu hoặc bài viết nào
chuyên biệt. Tuy nhiên, các vấn đề nghiên cứu về lý thuyết phê bình sinh thái và
hình ảnh cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi lại được nghiên cứu khá nhiều. Về lý
thuyết phê bình sinh thái, hiện nay có nhiều cơng trình dịch thuật và nghiên cứu lý
luận được đăng trên các tạp chí khoa học, trong đó có ba cơng trình nghiên cứu nổi
bật được in thành sách và xuất bản tại Việt Nam. Về hình ảnh cỏ cây trong thơ Nơm
Nguyễn Trãi lại được nhắc đến nhiều qua các đề tài viết về thiên nhiên trong thơ
Nguyễn Trãi, về Quốc âm thi tập, về con người Nguyễn Trãi trong thơ Nơm, bên
cạnh đó hình ảnh cỏ cây còn xuất hiện trong những bài cảm nhận riêng biệt của các
nhà nghiên cứu nhằm mục đích phục vụ cho công việc giảng dạy và cảm thụ tác
phẩm.
2.1. Lịch sử nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam
Phê bình sinh thái mang đến luồng gió mới trong văn học nước nhà. Từ sau
bài phát biểu của Karen Thronber tại Hội thảo quốc tế 2011 Tiếp cận văn học châu
Á từ lý thuyết phương Tây hiện đại: vận dụng, tương thích, thách thức và cơ hội,
phê bình sinh thái bắt đầu được giới nghiên cứu Việt Nam chú ý, tiếp cận qua các
cơng trình dịch thuật và nghiên cứu lý luận. Tuy nhiên các bài viết này vẫn cịn khá
khiêm tốn, lẻ tẻ.
Các cơng trình dịch thuật về phê bình sinh thái bước đầu đã định hình được
khuynh hướng này. Bản dịch Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển của Đỗ
Văn Hiểu cho rằng nguồn gốc của phê bình sinh thái bắt đầu từ tiền đề của tư tưởng

triết học sinh thái và nói đến nhiệm vụ của nó là “thơng qua văn học để thẩm định


3
lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán – nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, mơ hình
phát triển xã hội của loài người” (Đỗ Văn Hiểu, 2012). Bên cạnh đó, bản dịch cịn
giới thiệu q trình phát triển của phê bình sinh thái qua việc liệt kê các phong trào
phê bình sinh thái trên thế giới đến khi thống nhất thành khuynh hướng phê bình
sinh thái chung.
Bài Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học của Karen Thornber
do tác giả Hải Ngọc dịch đã đem đến một cách nhìn mới cho phong trào này. Karen
Thornber trong cơng trình nghiên cứu của mình đã sáng tạo ra khái niệm
ecoambiguity (sự mơ hồ sinh thái) và xem nó như khái niệm phản ánh đặc trưng cho
các diễn ngôn về mơi trường, tự nhiên trong văn hóa Đơng Á. Theo bà, văn hóa
Đơng Á vốn có tư tưởng gắn bó với tự nhiên, nhưng chính tư tưởng này một phần
nào đó đã mang đến sự ngộ nhận trong ý thức và cách ứng xử đối với môi trường tự
nhiên dẫn tới sự bất cơng mơi trường. Qua đó, nhân loại cần phải nhận thức rõ hơn
về sự phức tạp trong mối quan hệ giữa con người và môi trường ở các nền văn hóa.
Bà cũng đề nghị khi tìm hiểu phê bình sinh thái, người nghiên cứu cần phải nắm rõ
ý thức hành tinh (planet consciousness) – là một ý niệm chỉ không gian rộng nhất,
ko bị chia cắt, chiếm dụng “bao trùm cả sự sống con người và cả sự sống của các
thành tố vô nhân (nonhuman)” (Hải Ngọc, 2013) – để có thể hiểu hơn về tinh thần
sinh thái.
Bản dịch Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường của
Cheryll Glotfelty do Trần Thị Ánh Nguyệt dịch đã đề cập đến tầm quan trọng của
phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học. Cuối thế kỷ XX, khi sự sống Trái đất
đang bị đe dọa thì sự ra đời của ngành nghiên cứu văn học sinh thái đã trở thành vấn
đề cấp thiết. Trong gợi dẫn, Cheryll Glofelty đã diễn giải định nghĩa phê bình sinh
thái và quá trình hình thành phê bình sinh thái ở Mĩ. Ngồi ra, bà cịn cho rằng phê
bình đang trở thành một khuynh hướng nghiên cứu“liên ngành, đa văn hóa và

mang tính quốc tế” (Trần Thị Ánh Nguyệt, 2014), góp phần tạo nên sự kết nối
mạnh mẽ giữa mơi trường và sự cơng bằng xã hội.
Chun luận Phê bình sinh thái là gì? do Hồng Tố Mai chủ biên (2017) là
một cơng trình dịch thuật lớn, tổng thuật các bài viết của các nhà phê bình sinh thái


4
nổi tiếng trên thế giới như Karen Thornber, Kate Rigby, Peter Barry....Các bài dịch
đều đề cập đến những vấn đề quan trọng của phê bình sinh thái, chủ yếu tập trung
đến các khía cạnh: khái niệm phê bình sinh thái, sự hình thành và phát triển của phê
bình sinh thái, những biểu hiện sinh thái trong tác phẩm của các nền văn hóa. Cơng
trình trên đã góp phần làm cho khuynh hướng phê bình sinh thái Việt Nam đến gần
hơn với phê bình sinh thái trên thế giới và khơi gợi sự hứng thú cho giới nghiên cứu
văn học nước nhà.
Bên cạnh các cơng trình dịch thuật, phê bình sinh thái cũng được các học giả
đi vào nghiên cứu chuyên sâu và tìm hiểu rất nhiều. Bài viết Phê bình sinh thái –
Khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân của Đỗ Văn Hiểu đã làm
sáng tỏ một số cách tân về bản chất của phê bình sinh thái so với các khuynh hướng
văn học khác. Phê bình sinh thái với sứ mệnh chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng
dẫn đến nguy cơ sinh thái đã lấy tư tưởng sinh thái làm trung tâm; xem sự hài hòa,
thống nhất giữa con người và tự nhiên làm nguyên tắc mỹ học; xác lập đối tượng và
phạm vi nghiên cứu là văn học sinh thái hay mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong văn học “đông tây kim cổ”. Theo tác giả, phê bình sinh thái đem đến sự
mới mẻ cho văn học vì nó “góp phần bổ sung cho những khuyết thiếu trong lịch sử
nghiên cứu văn học nhân loại.” (Đỗ Văn Hiểu, 2014) nhưng cũng mang đến nhiều
khó khăn cho giới nghiên cứu văn học khi muốn áp dụng khuynh hướng này.
Bài viết Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay của
Trần Đình Sử lại chú trọng đến khía cạnh sinh thái học tinh thần. Theo ông, sinh
thái học tinh thần không xét đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mà “tập
trung vào mối quan hệ giữa văn học và mơi trường sinh thái tinh thần. Nó tồn tại

bên cạnh sinh thái học tự nhiên và sinh thái học xã hội. Lý giải ra, phê bình sinh
thái tinh thần là kiểu phê bình văn học lấy tư tưởng sinh thái làm trung tâm, xem
đời sống tinh thần xã hội là bối cảnh của sáng tạo văn học.” (Trần Đình Sử, 2015).
Phê bình sinh thái tinh thần liên quan đến các phạm trù tinh thần, môi trường sinh
thái tinh thần, sự sáng tạo của con người. Cả ba phạm trù này đều có quan hệ mật
thiết tạo nên sinh thái tinh thần cho sáng tác văn nghệ vì văn học bao giờ cũng là


5
sản phẩm của môi trường sinh thái tinh thần nên văn học nhất thiết cần phải quan
tâm đến vấn đề văn hóa xã hội, đặc biệt là vấn đề sinh thái tinh thần của con người.
Tác giả Đỗ Văn Hiểu trong một bài viết khác là Tính “khả dụng” của phê
bình sinh thái một lần nữa lại nhấn mạnh sự hài hịa giữa con người và tự nhiên,
xem đó là cơ sở lý luận của phê bình sinh thái, tuy nhiên “khơng nên cực đoan đề
cao lợi ích sinh thái cũng như khơng nên cực đoan đề cao lợi ích của con người bất
chấp nguy cơ sinh thái, và cần phải chú ý đến lợi ích của con người đồng thời chú ý
đến lợi ích của chỉnh thể sinh thái, tiến tới xác lập quan niệm thống nhất hữu cơ
giữa lợi ích của nhân loại và lợi ích của chỉnh thể sinh thái.” (Đỗ Văn Hiểu, 2016)
đồng thời ông cũng cho rằng cần phải kết hợp phương pháp nghiên cứu văn hóa và
nghiên cứu nội tại khi khảo sát văn bản văn học để đảm bảo tính thực tiễn và tính
thẩm mĩ.
Cơng trình nghiên cứu Con người và tự nhiên trong văn xi Việt Nam sau
năm 1975 dưới góc nhìn phê bình sinh thái của Trần Thị Ánh Nguyệt và Lê Lưu
Oanh được xem là chuyên luận phê bình sinh thái đầu tiên được xác nhận một cách
thuyết phục. Trong cơng trình, các tác giả đã giới thiệu rất cụ thể về lý thuyết phê
bình sinh thái trên thế giới và Việt Nam từ khái niệm đến các tiêu chí của phê bình
văn học sinh thái, diễn giải cụ thể mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong văn
học từ xưa tới nay làm tiền đề cho sự phát triển của nghiên cứu phê bình sinh thái ở
Việt Nam. Ngồi ra, khi đi sâu vào phân tích nhiều tác phẩm cụ thể, cả hai tác giả
đều thấy được một cảm hứng phê phán từ điểm nhìn sinh thái qua các khía cạnh ý

thức về con người tội đồ, con người nạn nhân, con người tha hóa và nỗi bất an sinh
thái. Thông qua cảm hứng phê phán, các tác giả đã nêu ra vấn đề xây dựng lại cảm
quan đạo đức sinh thái cho con người hiện đại từ việc kế thừa các diễn ngôn lãng
mạn về tự nhiên và nhận diện mẫu hình nhân cách mới cho chủ nghĩa nhân văn sinh
thái. Con người phải “biết thương u lồi vật để gìn giữ nhân tính, biết lắng nghe
tiếng mn vật để đối thoại với nó… từ đó tạo ra một môi trường sinh thái nhân văn
làm nền tảng cho sự sống nhân loại. Tôn trọng quy luật tự nhiên, đó là một vấn đề
trang nghiêm vĩnh cửu mà con người không được lãng quên.” (Trần Thị Ánh
Nguyệt, Lê Lưu Oanh, 2016).


6
Nguyễn Thị Tịnh Thy trong chuyên luận Rừng khô, suối cạn, biển độc và
văn chương đã tập trung giới thiệu các khái niệm tiền đề như Sinh thái học, Luân lý
học tôn trọng sinh mệnh, Mỹ học sinh thái...; lý thuyết và thành tựu của Văn học
sinh thái và Phê bình sinh thái đồng thời đưa ra những bài thực hành nghiên cứu mà
tác giả đã khảo sát qua một số tác phẩm văn học sinh thái nổi bật của Việt Nam,
Nhật Bản và Trung Quốc. Từ việc dẫn ra những định nghĩa phê bình sinh thái của
các học giả Âu – Mĩ – Á, tác giả qua việc liệt kê những ưu và nhược điểm của các
định nghĩa trên, đã đề xuất định nghĩa phê bình thái: “Phê bình sinh thái là phê bình
văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định hướng tư tưởng
của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái qua việc khám phá
thẩm mỹ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm.” (Nguyễn Thị
Tịnh Thy, 2017). Chuyên luận của tác giả khơng chỉ mang đến tính chân thực cho lý
thuyết phê bình sinh thái, mà cịn mang đến sức hấp dẫn cho giới nghiên cứu văn
học nước nhà.
Ứng dụng phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học cho đến nay phần lớn
thường thấy được khảo sát qua tác phẩm hiện đại, rất ít những cơng trình nghiên
cứu phê bình sinh thái về các tác phẩm trung đại, nhất là trong thơ Nguyễn Trãi lại
càng hiếm hoi hơn nữa. Có hai cơng trình đã vận dụng phê bình sinh thái nghiên

cứu thơ Nguyễn Trãi mà chúng tơi tìm được, đó là:
Luận văn Thạc sĩ Tìm hiểu thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Ức Trai thi
tập của Nguyễn Trãi từ góc nhìn sinh thái của Lê Thị Thảo (2015) đã xem thiên
nhiên trong thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi như một môi trường sống lý
tưởng của tác giả. Cái môi trường ấy không chỉ chứa đựng một hệ sinh vật phong
phú, một sự chuyển vận của thế giới tự nhiên mà cịn là nơi chốn tìm về của tác giả
trong những lúc bĩ cực. Ngoài ra, tác giả còn thấy rằng, thiên nhiên trong thơ
Nguyễn Trãi cũng mang đậm tính triết lý qua các khía cạnh như: một môi sinh
thuần khiết, lý tưởng; chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ; đối tượng tụng ca, thưởng
ngoạn. Tuy nhiên trong cơng trình nghiên cứu này, người viết tuy vận dụng góc
nhìn sinh thái để nhìn thiên nhiên như là “môi sinh” của tác giả nhưng chưa đề cập


7
đến mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người theo như tinh thần của phê bình
sinh thái.
Tác giả Trần Thị Kim Phướng trong cơng trình nghiên cứu Con người và
thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới góc nhìn sinh thái đã
nhìn thấy sự phong phú, đa dạng của động, thực vật trong trang thơ chữ Hán và chữ
Nơm của hai ơng. Đó là một hệ sinh thái gồm những “cây” và những “con” được
miêu tả chân thực, sinh động như chính bản tính tự nhiên của nó. Khơng chỉ thế,
chúng cịn “xuất hiện với mật độ có khi rậm rạp, đơng đúc, có khi thưa thớt, ít ỏi
giống như sự phân bố thực tại của chúng trong hệ sinh thái tự nhiên” (Trần Thị
Kim Phướng, 2017). Ngồi ra, tác giả cịn nhận thấy một mối liên hệ sâu sắc giữa
con người và tự nhiên trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đối với họ,
thiên nhiên đã trở thành bạn bè, người thân, hàng xóm… cùng chung sống hịa hợp,
gắn bó với nhau. Chính trong cách ứng xử với tự nhiên, người viết không chỉ thấy
được thái độ trân trọng, trìu mến vạn vật mà cịn rút ra được thơng điệp về sự tơn
trọng, bình đẳng với thế giới tự nhiên của hai nhà thơ.
2.2. Cỏ cây trong các cơng trình nghiên cứu về thơ Nơm Nguyễn Trãi

Cỏ cây được nhắc đến rất nhiều trong các bài viết về đề tài thiên nhiên, về
Quốc âm thi tập, về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm. Những bài viết này đều
được chúng tơi tìm hiểu trong cơng trình nghiên cứu Nguyễn Trãi, về tác gia và tác
phẩm của tác giả Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu), tái bản lần thứ hai
năm 2001, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Nhà nghiên cứu Mai Trân trong bài viết Tình yêu thiên nhiên trong thơ
Nguyễn Trãi đã mang đến cái nhìn chung về thiên nhiên trong thơ chữ Hán và chữ
Nơm. Khi nói về thiên nhiên trong thơ Nôm, tác giả khẳng định rằng: Thiên nhiên
với nhà thơ đã trở thành thầy trò, bạn bè, “rõ ràng trúc, mai, mây, gió, chim, bướm,
suối, thơng, hoa, trăng, hồ, đá, là những người bạn nhỏ của nhà thơ, chúng bao
vây, chúng xoắn vó, chúng quấn quýt lấy nhà thơ” (Mai Trân, 1962). Như vậy,
trong cái nhìn về thiên nhiên, tác giả đã đưa ra được cách cảm nhận về thiên nhiên
của Nguyễn Trãi. Đó là một thiên nhiên nồng hậu, đầy sức sức sống, phong tình dí
dỏm, qua đó cũng thể hiện tình cảm trân trọng, trìu mến thiên nhiên của nhà thơ.


8
Cùng hướng về đề tài thiên nhiên, bài viết Thiên nhiên trong thơ Nguyễn
Trãi của Nguyễn Thiên Thụ, lại được nhắc đến khá nhiều về hình ảnh cỏ cây. Hịa
nhịp với cách cảm nhận về thiên nhiên, cỏ cây cũng mang biểu tượng của chân thiện
mỹ: bóng dáng người quân tử qua tùng, trúc, mai, sen; người ẩn dật qua hoa cúc; cỏ
cây còn mang bản sắc triết lý của Đạo gia qua củ hoàng tinh, cây thiên tuế, cây hịe;
của Phật giáo qua hoa bơng bụt. Bên cạnh đó“cỏ cây cịn có sự thay đổi theo thời
gian của từng mùa, từng tháng” (Nguyễn Thiên Thụ, 1973). Ngoài ra, tác giả cịn
nói đến mối liên hệ giữa Nguyễn Trãi và tự nhiên qua việc nhận định nhà thơ hiểu
rõ quan niệm “thiên nhân tương dữ”, “vạn vật đồng nhất thể” và so sánh với con
người hiện nay không thể hiểu và yêu thiên nhiên như con người Nguyễn Trãi.
Nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê trong bài viết Nguyễn Trãi và đề tài thiên
nhiên trong dòng văn học yêu nước nhận thấy rằng: cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn
Trãi mang đậm phong vị làng quê, đó là những loại cây cỏ nhỏ bé đã được thuần

hóa để phục vụ đời sống vật chất và tinh thần con người. Và qua việc xây dựng hệ
thống hình ảnh những cây mía, cây chuối, cây đa già, cây dâm bụt... bên cạnh
những tùng, cúc, trúc, mai..., tác giả cho thấy “mối quan hệ giàu giá trị nhân văn
chủ nghĩa giữa thiên nhiên và lao động sản xuất của con người.” (Đặng Thanh Lê,
1980). Nhà nghiên cứu cịn phát hiện rằng những bài thơ nói về cây cỏ còn mang ý
nghĩa ẩn dụ cho tuổi xanh, tình u, tài năng, khí tiết con người, hoặc triết lý Nho,
Phật.
Với bài viết Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ quốc ngữ Việt Nam,
tác giả Xuân Diệu đã phát hiện rằng Nguyễn Trãi khác hẳn với các nhà Nho xưa
“khi miêu tả sinh động và thắm thiết những loại rau cỏ sản vật của quê hương
mình.” (Xn Diệu, 1980). Trong khi đó, nhà phê bình Hoài Thanh trong bài viết
Một vài nét về con người Nguyễn Trãi lại nhận định rằng: “Nguyễn Trãi khơng phải
vì chán đời mới quay ra yêu cỏ cây, sông núi mà ở ơng, tình cảm trìu mến, u cỏ
cây sơng núi cùng với yêu đời xét cho cùng vẫn là một.” (Hoài Thanh, 1980).
Bài viết Địa vị của Nguyễn Trãi trong quá trình phát triển của lịch sử văn
học Việt Nam của Nguyễn Văn Hoàn đã nhận thấy: Nguyễn Trãi đã đưa những từ
ngữ “tầm thường” – tên của các loại cỏ cây như xoan, chuối, muống, mùng, mía, đa,


9
niềng niễng… đã chịu vắng bóng khá lâu trong văn học, khoảng bốn trăm năm sau
khi ơng mất thì những hình ảnh này mới xuất hiện trong thơ của Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, Tú Xương và tiêu biểu nhất là trong thơ ca nói về đời sống thực.
Điều này cho thấy Nguyễn Trãi đã “thoát khỏi những thi liệu cao quý trong văn học
cổ để rồi đưa những cây cỏ - những sản vật quê hương bình thường của cuộc sống
vào trong thơ một cách hiền hòa nhưng vẫn phảng phất thi vị” (Nguyễn Văn Hoàn,
1980).
Với bài viết Về con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi, tác giả Nguyễn
Hữu Sơn nhận thấy các bài thơ vịnh cảnh, vịnh vật trong thơ Nơm là sự chiếu ứng
với khí tiết của người quân tử. Và trong những bài thơ này “hình bóng tác giả chỉ

được cảm nhận trong tương quan với đối tượng diễn tả” (Nguyễn Hữu Sơn, 1995).
Cùng nói về con người cá nhân nhưng nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài viết
Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi đã đưa ra sự mâu thuẫn giữa tinh
thần “đại dụng” và thế “vô dụng” trong những vần thơ về cỏ cây. Ơng nói rằng:
“Chữ nhàn có thể làm cho ơng hịa đồng với cây cỏ, vơ danh, vơ kỷ, vô ngã, êm đềm
nhưng lại đặt ông vào thế vô dụng! Mong được đại dụng mới là lý tưởng lớn của cá
nhân ơng.” (Trần Đình Sử, 1997). Như vậy, theo tác giả, những bài thơ viết về cỏ
cây không chỉ thể hiện cách thức sống nhàn của Nguyễn Trãi mà còn thấy được tấm
lòng muốn cống hiến sức lực cho dân cho nước của nhà thơ. Đồng quan điểm với
hai tác giả trên, học giả Trần Ngọc Vương trong bài viết Nhà tư tưởng và nhà nghệ
sĩ trong Quốc âm thi tập cũng cho rằng: “Phẩm chất của những loại thảo mộc như
mai, tùng, cúc, trúc, thông, sen, lan, quỳ, lựu, chè tương xứng với phẩm chất nào đó
mà người quân tử muốn đạt tới hay là những người nơ bộc, tơi tớ chân thành, tâm
phúc. Đó là xu hướng cảm quan hóa tự nhiên mà tác giả phát hiện trong các bài thơ
về cỏ cây.” (Trần Ngọc Vương, 1997).
Bài viết Quốc âm thi tập của Phạm Thế Ngũ nói nhiều đến “tâm sự u hồi
của Nguyễn Trãi và cỏ cây cũng chính là đối tượng thể hiện nhân cách thanh cao,
tấm lịng vì dân vì nước” (Phạm Thế Ngũ, 1997) của nhà thơ: cái kiêu hãnh của hoa
sen ở chỗ bụi lầm mà vẫn vươn lên tỏa hương thơm thanh cao của người quân tử, và
không bị vướng mắc vào thế sự buộc bện, đầy oán hận; cái chí khí điềm tĩnh, gắng


10
gỏi của trúc cũng là một biểu tượng để suy tư. Bài viết này dù chỉ điểm qua về cỏ
cây nhưng đã cho người đọc thấy được tấm lòng và tâm sự u hoài của Nguyễn Trãi
được biểu lộ qua cỏ cây.
Trong Luận văn Tiến sĩ Thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi – Quan
niệm thẩm mỹ và phương thức nghệ thuật của Phạm Thị Ngọc Hoa, tác giả đã đưa
ra một cái nhìn sâu sắc về phương diện cái đẹp trong thơ Nguyễn Trãi và xem đó là
thẩm mỹ quan của Nguyễn Trãi khi nhà thơ nhìn về thiên nhiên. Trong cảm quan

chung với thiên nhiên, cỏ cây được tác giả nhắc đến khá nhiều bởi chúng khơng chỉ
có vẻ đẹp khác nhau mà cịn có “mối quan hệ thân thiết và cảm động” (Phạm Thị
Ngọc Hoa, 2012) với nhà thơ. Dù cuộc đời của Nguyễn Trãi gặp nhiều điều bất như
ý nhưng tuyệt nhiên trong thơ ơng khơng có cảnh buồn tê tái. Qua cơng trình, tác
giả đã lí giải sâu sắc về quan niệm thẩm mỹ và phương thức nghệ thuật để từ đó có
được cái nhìn tổng quan hơn về cỏ cây trong thơ Nơm Nguyễn Trãi.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu trên, cỏ cây còn xuất hiện trong các bài cảm
nhận riêng biệt nhằm phục vụ cho công việc giảng dạy trong nhà trường hoặc bổ trợ
cách cảm thụ thơ Nguyễn Trãi cho người đọc. Chúng tơi khảo sát và tìm hiểu những
bài viết này qua hai tập sách là: Nguyễn Trãi, nhà văn và tác phẩm trong trường
phổ thông của tác giả Lê Bảo, xuất bản năm 1998, Nhà xuất bản Giáo dục và Tiếp
cận thơ văn Nguyễn Trãi của tác giả Đoàn Thị Thu Vân, xuất bản năm 2001, Nhà
xuất bản trẻ, Hội nghiên cứu và giảng day văn học TP. HCM.
Các bài viết trong hai cuốn sách trên thường nói về một loại cây trong số các
loại cỏ cây hoặc đặt cỏ cây ấy trong cái nhìn với mùa xuân, với tình u hoặc trong
ý vị thiền. Có các bài như: Một bài thơ của Nguyễn Trãi: Ba tiêu của Xuân Diệu
(1980), Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi của Nguyễn Hữu Sơn
(1985), Một bài thơ tình của Nguyễn Trãi của Cao Hữu Lạng (1985), Cây chuối của
Nguyễn Đình Chú (1991), Thơ Nguyễn Trãi – mùa xuân và hoa của Cao Hữu Lạng
(1994), Trúc của Bùi Văn Nguyên (1994), Tùng của Lê Trí Viễn và Đồn Thu Vân
(1994), Tùng – Một bài thơ tâm huyết của Nguyễn Trãi của Trần Đình Sử (1995),
Tìm hiểu ý vị thiền trong bài thơ cây chuối của Nguyễn Trãi của Phạm Tú Châu
(1998). Những bài viết trên của các tác giả đã đi sâu vào việc phân tích ý nghĩa cỏ


11
cây và có sự gặp gỡ nhau trong việc nhận thấy cỏ cây không chỉ mang nét đẹp tự
nhiên mà cịn mang nét đẹp kín đáo ở phẩm chất và khí tiết hữu dụng vì nước, vì
dân, qua đó có thể thấy được cái đẹp tâm hồn nhà thơ. Bên cạnh đó, trong cách nhìn
về thiên thiên, các tác giả còn nhận thấy thơ viết về các loại thảo mộc trong mùa

xuân khá nhiều, trong số đó, có thể nói độc đáo và cũng là riêng biệt nhất chính là
cây chuối. Nó khơng chỉ thể hiện ý vị tình u nồng hậu mà cịn chứa đựng hơi
hướng Thiền tơng nhẹ nhàng.
Như vậy, các cơng trình và bài viết về hình ảnh cỏ cây vừa khảo sát ở trên,
có điểm giống nhau trong việc nhận định cỏ cây không chỉ thể hiện cho vẻ đẹp của
thiên nhiên, tạo hóa mà cịn có mối giao hịa sâu sắc với nhà thơ. Các cơng trình
nghiên cứu trên tuy có điểm qua một vài nét về cỏ cây nhưng do ý định, mục đích
nghiên cứu đề ra nên cỏ cây chưa được tiếp cận với tư cách là một đối tượng nghiên
cứu riêng biệt và chưa được soi chiếu dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Tuy nhiên,
các bài viết và chuyên luận trên đã cho chúng tơi một cái nhìn tổng quan về lý
thuyết phê bình sinh thái đồng thời ứng dụng lý thuyết này để phân tích các tác
phẩm thơ viết về cỏ cây, từ đó đi đến việc xác lập ý nghĩa cỏ cây và kiến giải sự
tương giao của chúng với con người nhà thơ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là thế giới cỏ cây trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi được nhà thơ đề cập rải rác trong các bài thơ khác nhau hoặc xuất hiện
một cách riêng biệt. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ tiến hành tổng hợp, phân tích
thế giới cỏ cây dưới góc nhìn phê bình sinh thái.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi, gồm 254 bài thơ viết bằng chữ Nôm. Với tập thơ Nôm này, chúng tôi xin lấy
bản dịch do Nguyễn Thạch Giang phiên khảo và chú giải, được Nhà xuất bản Thuận
Hóa Huế in năm 2000 để làm tư liệu khảo sát và trích dẫn.


12
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các
phương pháp sau:

Phương pháp phân tích, tổng hợp: với phương pháp này chúng tơi sẽ tiến
hành phân tích những đặc điểm của cỏ cây với tư cách là một biểu hiện thẩm mỹ
quan của Nguyễn Trãi, từ đó tổng hợp lại để thấy được ý thức sinh thái và giá trị
nhân văn cao đẹp trong tư tưởng, quan niệm sống cũng như nhân cách con người
nhà thơ.
Phương pháp lịch sử - xã hội: nói đến thơ, nhất là thơ xưa, bao giờ cũng hàm
chứa bối cảnh thời đại xã hội mà nhà văn, nhà thơ sinh sống. Vì thế, khi nhắc đến
mối tương giao giữa cỏ cây với nhà thơ cần phải sử dụng phương pháp này để thấy
được lý do vì sao tác giả lại gắn bó với thế giới giới tự nhiên như vậy.
Phương pháp tiểu sử - thực chứng: phương pháp này giúp chúng tôi dùng
những yếu tố về cuộc đời con người của Nguyễn Trãi để giải thích những ảnh
hưởng của chúng đến thơ của Nguyễn Trãi.
Phương pháp phê bình sinh thái: đây là phương pháp nghiên cứu mới, chúng
tôi sẽ tham chiếu vào việc khảo sát các bài thơ xuất hiện hình ảnh cỏ cây để có được
một góc nhìn mới thế giới tự nhiên trong thơ Nơm Nguyễn Trãi.
Bên cạnh đó, chúng tơi cịn sử dụng các thao tác thống kê, phân loại để giúp
các ý kiến phân tích, nhận định đủ cơ sở thực tế và sức thuyết phục.
5. Đóng góp của đề tài
Trong cơng trình nghiên cứu này, chúng tơi mong muốn dùng lý thuyết phê
bình sinh thái để mang đến một cái nhìn mới về thơ thiên nhiên Nguyễn Trãi, nhất
là thơ viết về cỏ cây bởi nhận thấy đối tượng này cũng chiếm giữ một vị trí quan
trọng trong các sáng tác của ơng. Cỏ cây khi được nhìn qua lăng kính của phê bình
sinh thái khơng chỉ là biểu hiện của thẩm mỹ sinh thái mà còn là một đối tượng có
mối giao cảm sâu sắc với tác giả.
Hơn nữa, với cơng trình nghiên cứu này, chúng tơi cũng muốn đề xuất một
thái độ sống hòa hợp, gần gũi với tự nhiên như cách mà Nguyễn Trãi đã thể hiện
qua tác phẩm của mình. Trong xã hội hiện đại, con người ngày càng có biểu hiện xa


13

cách và tách rời với tự nhiên, ít có hoặc khơng có tình cảm thân thiết, hài hồ với tự
nhiên như Nguyễn Trãi và con người thời đại ông. Như vậy, thông qua cách sống
của nhà thơ, con người ngày nay cần tiếp nối truyền thống tốt đẹp ấy và bồi dưỡng
cho mình văn hóa ứng xử với tự nhiên theo một cách trân trọng và phù hợp nhất.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phần nội dung chính của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Trong chương này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu những vấn đề chung về thời
đại, cuộc đời – con người và tập thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Bên cạnh đó, chúng tơi
cũng đưa ra những nét khái quát về lý luận phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn
học và trong sự liên quan với đề tài của mình.
Chương 2. Thế giới cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và những biểu hiện
của thẩm mỹ sinh thái
Ở chương này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu vẻ đẹp cỏ cây – biểu hiện của
thẩm mỹ sinh thái qua các khía cạnh vẻ đẹp tự nhiên, đa dạng và vẻ đẹp tương tác,
hài hòa trong một chỉnh thể thống nhất.
Chương 3. Thế giới cỏ cây trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và mối tương giao
với chủ thể trữ tình
Với chương này, chúng tơi đi vào tìm hiểu sự tương giao giữa cỏ cây với con
người Nguyễn Trãi, để qua đó thấy cỏ cây khơng chỉ thể hiện thái độ sống hịa mình
với vạn vật, u thương và trân trọng tự nhiên của tác giả mà cỏ cây còn là “quê
nhà” để nhà thơ trở về như một điểm tựa tinh thần và cội nguồn minh triết trong
cuộc sống.


14

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Nguyễn Trãi và thơ chữ Nôm
1.1.1. Thời đại
Nguyễn Trãi sống trong thời đại cuối thế kỷ XIV – nửa đầu thế kỷ XV. Đây
là thời đại diễn ra sự suy thoái của hai nhà Trần, Hồ và sự phát triển đến đỉnh cao
của nhà Hậu Lê.
Cuối thế kỷ XIV, giai cấp phong kiến nhà Trần bước vào giai đoạn suy yếu.
Các vị vua cuối triều Trần từ Trần Nghệ Tông đến Trần Thiếu Đế đều là những vị
vua bạc nhược, u mê và khơng có tài cầm quyền. Tất cả quyền lực triều chính đều
nằm trong tay Hồ Quý Ly. Sau khi Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly đã giết vua Thuận
Tông và ép vua Trần Thiếu Đế (con vua Trần Thuận Tông, cháu nội vua Trần Nghệ
Tông, cháu ngoại Hồ Quý Ly) nhường ngôi cho mình. Năm 1400, Hồ Q Ly lên
ngơi, lập ra nhà Hồ, niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu, nhưng ngay
sau đó lại nhường ngơi cho con thứ là Hồ Hán Thương và lên làm Thái Thượng
Hoàng.
Là vị vua đầu tiên của triều đại mới, Hồ Quý Ly đã tiến hành cải cách các
lĩnh vực hành chính, kinh tế, quân sự đồng thời dời đô từ kinh thành Thăng Long về
Thanh Hóa. Trong khoảng thời gian trị vì, ông còn đem quân đánh Chiêm Thành và
chiếm được nhiều châu huyện lúc bấy giờ. Thế nhưng, nhà Hồ chưa được thành lập
bao lâu, giặc Minh thừa dịp tình thế xã hội nước ta có nhiều xáo trộn biến đổi làm
cho lịng dân li tán, thế nước khơng n đã viện cớ “phù Trần diệt Hồ” nhằm xua
quân sang xâm lược. Năm 1406, tướng Trương Phụ của nhà Minh chỉ huy mở cuộc
xâm lược vào nước ta. Quân nhà Hồ tích cực chống cự nhưng nhanh chóng gặp thất
bại. Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly và các triều thần nhà Hồ đều bị quân Minh bắt
và đưa về Trung Quốc.
Dưới ách cai trị của nhà Minh, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt
liên tiếp nổ ra ở khắp cả nước. Tuy nhiên, những cuộc khởi nghĩa này chỉ duy trì
trong thời gian ngắn rồi lại bị quân Minh đàn áp và thất bại.


15

Năm 1416, Lê Lợi tổ chức Hội thề Lũng Nhai để tập hợp người hiền, kẻ sĩ có
tài nhằm chuẩn bị khởi nghĩa. Năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tự
xưng là Bình Định Vương. Nghĩa quân Lam Sơn thời gian đầu mới thành lập ở
vùng núi Thanh Hóa ln gặp nhiều khó khăn và chịu nhiều tổn thất khi phải hứng
chịu những cuộc truy quét của quân Minh và quân Ai Lao. Quân Lam Sơn phải tiến
quân ra Nghệ An xây dựng căn cứ địa, sau nhiều trận đánh với quân Minh, quân
Lam Sơn đã giải phóng liên tiếp hầu hết các vùng từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa.
Sau đó, Lê Lợi tiến quân ra Bắc, bao vây quân Minh tại thành Đông Quan, Vương
Thông xin giảng hòa để ngầm sai người về nước xin viện binh. Cuối năm 1427, nhà
Minh cử Liễu Thăng, Mộc Thạnh mang mười lăm vạn quân sang viện trợ Vương
Thông nhưng mau chóng bị nghĩa quân đánh bại và tiêu diệt. Vương Thơng cùng
đường phải giảng hịa và được Lê Lợi “mở đường hiếu sinh” cho phép rút quân về
nước.
Sau mười năm kháng chiến kiên trì gian khổ (từ năm 1417 đến năm 1427),
nghĩa quân Lam Sơn đã đuổi sạch giặc Minh, đưa đất nước bước vào thời kỳ hịa
bình, độc lập.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt niên hiệu Thuận Thiên, quốc hiệu Đại Việt,
thi hành nhiều chính sách mới và đạt được nhiều thành tựu. Vương triều nhà Lê
không chỉ kế thừa thành tựu của thời Lý Trần mà còn phát triển thêm hướng đi mới
phù hợp với tình hình đất nước, lựa chọn “hệ tư tưởng Nho gia kết hợp với tinh thần
tự cường dân tộc làm nền tảng để xây dựng một thể chế nhà nước phong kiến hiệu
quả nhất trong việc nội trị cũng như ngoại giao, nhằm phát huy nội lực và đưa đất
nước đi đến cường thịnh, có vị thế cao trong khu vực.” (Đồn Thị Thu Vân chủ
biên, 2009). Có thể nói, thế kỷ XV là giai đoạn mà chế độ phong kiến Đại Việt đạt
đến sự cường thịnh, phát triển đáng tự hào của dân tộc.
1.1.2. Con người - cuộc đời
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu là Ức Trai, quê ở Hải Dương (sau dời về
Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Ứng Long, sau đổi tên là Nguyễn
Phi Khanh, làm quan dưới triều nhà Hồ. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần
Nguyên Đán – tôn thất nhà Trần. Nguyễn Trãi từ nhỏ đã được bồi dưỡng “truyền



16
thống yêu nước thương dân và tình cảm nhân hậu rộng mở” từ cha và ông ngoại. Tư
tưởng này theo suốt cuộc đời Nguyễn Trãi và được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm
của ông.
Thuở nhỏ, Nguyễn Trãi sống với mẹ và ông ngoại ở dinh quan Tư đồ, sau
dời về Côn Sơn. Khi mẹ và ông ngoại đều mất, ông về sống với cha ở Nhị Khê.
Năm 1400, ông thi đỗ Thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều Hồ, phụ
giúp Hồ Quý Ly thi hành cải cách về kinh tế, chính trị, văn hóa nhằm đưa đất nước
phát triển hơn.
Năm 1407, nhà Minh cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh cũng nằm trong số
quan lại bị giặc bắt mang sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi cùng em trai đi theo với ý
định sang bên kia biên giới để chăm sóc cha trong khoảng thời gian bị cầm tù. Khi
đến biên ải, nghe lời cha khuyên dạy, ông ở lại “đền nợ nước, báo thù nhà”, nhưng
lại bị giặc Minh bắt giữ và giam lỏng tại thành Đơng Quan. Sau đó, ơng tìm cách
thốt ra và đi nhiều nơi để tìm kiếm vị minh chủ phị tá diệt giặc. Năm 1418, Lê Lợi
khởi nghĩa tại Lam Sơn, Nguyễn Trãi tìm gặp Lê Lợi, dâng Bình Ngơ sách. Ông
theo Lê Lợi kháng chiến, giữ nhiều chức vụ quan trọng, được Lê Lợi tin tưởng cho
làm quân sư và thảo những thư từ, mệnh lệnh quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn.
Năm 1427, giặc Minh rút về nước. Năm 1428, nhà Lê được thành lập.
Nguyễn Trãi bắt đầu thực hiện lý tưởng xây dựng đất nước nhưng chưa được bao
lâu thì bị nghi oan và bị bắt giam, sau đó lại được thả nhưng khơng được tin dùng
như trước. Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, vua Lê Thái Tông lên ngơi tuổi cịn non trẻ,
bọn gian thần ln đặt điều gièm pha ơng với vua. Đau buồn vì thói đời cay đắng và
cũng vì lý tưởng khơng thể tiếp tục được thực hiện, ông xin về ở ẩn tại Cơn Sơn
(năm 1437, 1438).
Nguyễn Trãi là một con người có lịng “ưu dân ái quốc” sâu đậm. Tuy về
Cơn Sơn sống thanh nhàn, hướng lòng về cuộc sống chân quê, nhưng càng gần gũi
với nhân dân, ơng càng thấm thía hơn ai hết cuộc sống cơ cực, vất vả của họ, đồng

thời cảm thơng, gắn bó sẻ chia với những con người cơ cực ấy. Khơng chỉ lo dân,
ơng cịn hướng lòng về đất nước. Nỗi niềm canh cánh về “việc nước” luôn theo suốt


17
cuộc đời Nguyễn Trãi. Đa số các bài thơ Nôm trong thời kỳ ở ẩn của ơng đều tốt
lên niềm ưu hoài dân nước đến “cuồn cuộn”.
Năm 1440, Lê Thái Tông sau khi đã trừ khử những thế lực bất chính, nắm lại
quyền hành, chấn chỉnh triều đình đã mời Nguyễn Trãi trở ra làm quan, ông nghe
lệnh vua và bắt tay thực hiện hoài bão trị nước an dân. Nhưng chưa được bao lâu thì
sự biến Lệ Chi viên xảy ra, vua Lê Thái Tông mất sau khi ghé thăm ông và nghỉ
đêm tại Trại Vải trên đường về kinh. Bọn gian thần vịn vào cớ đó mà kết tội ông
mưu giết vua và tru di ba họ. Nỗi oan khiên thảm khốc ấy kéo dài mãi đến năm
1464 mới được Lê Thánh Tông xuống chiếu tẩy oan, truy phục tước phong và cho
sưu tầm thơ văn của ông.
Cuộc đời Nguyễn Trãi dù trải qua nhiều thăng trầm nhưng ở ơng, nổi bật lên
trên tất cả vẫn là hình ảnh của một con người “lo đời, đau đời”, suốt đời luôn trăn
trở, lo âu cho “dân, nước”, mang trong mình chí hướng sắt son và một tâm hồn, một
nhân cách thanh cao trong sáng:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước nước triều Đông.
(Thuật hứng, bài 5)
Nguyễn Trãi khơng chỉ là nhà chính trị, nhà qn sự, nhà ngoại giao tài ba
mà còn là nhà văn hóa tư tưởng lớn, một tác gia văn học lớn. Các sáng tác của ông
cho đến nay vẫn luôn chiếm một vị trí quan trọng trong nền thơ ca dân tộc. Ông để
lại một số lượng lớn các tác phẩm chữ Hán và chữ Nơm có giá trị to lớn trong nền
văn học nước nhà.
1.1.3. Thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi
Trong suốt cuộc đời sáng tác, Nguyễn Trãi đã để lại một số lượng lớn các tác
phẩm chữ Hán và chữ Nơm có giá trị. Riêng bộ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi

được giới nghiên cứu đánh giá là tác phẩm xưa nhất bằng tiếng Việt còn giữ được
đến ngày nay. Tập thơ là nguồn tài liệu quý báu để nghiên cứu ngôn ngữ và văn học
dân tộc.
Việc sưu tầm văn bản thơ Nôm Nguyễn Trãi cho đến nay đã dần hoàn thiện.
Từ sau vụ thảm án Lệ Chi Viên, số lượng thơ của Nguyễn Trãi bao gồm cả Quốc


18
âm thi tập cũng bị tiêu hủy và thất lạc rất nhiều. Đến năm Quang Thuận thứ tám,
vua Lê Thánh Tông sau khi giải oan và khôi phục cho ông đã hạ chỉ cho Trần Khắc
Kiệm sưu tầm lại những di cảo thơ văn của ông. Tiếp theo đến mấy trăm năm thăng
trầm của lịch sử từ nhà Lê cho đến đầu nhà Nguyễn, bản sưu tầm thơ ông của
Nguyễn Khắc Kiệm cũng bị thất lạc. Mãi đến thời vua Minh Mạng, Tự Đức, các
nhà Nho như Nguyễn Năng Tĩnh, Dương Bá Cung, Ngơ Thế Vinh cùng chung sức
tìm kiếm và sưu tập, lại đem khắc ván in. Bộ sách có tên chung là Ức trai thi tập
gồm 7 quyển. Quốc âm thi tập nằm trong quyển thứ bảy.
Một điều cần lưu ý là tập thơ Quốc âm thi tập sưu tầm được không phải là
nguyên bản của Nguyễn Trãi mà là do người đời sau chép lại, theo bản cũ đã nát mà
chép hoặc do người đọc cho mà chép, cứ như thế qua nhiều thời kỳ khác nhau được
chép đi chép lại cho nên có nhiều dị bản chưa thống nhất với nhau về mặt từ ngữ.
Không chỉ thế, khi sưu tầm, khảo đính Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, các nhà
nghiên cứu cịn nhận thấy có sự nhập nhằng bởi có một số bài thơ Nơm của Nguyễn
Trãi xuất hiện trong tập thơ Bạch Vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong bản
chép tay Bạch Vân thi tập gồm 100 bài thì có đến 20 bài có chép trong Quốc âm thi
tập, bản in của Nguyễn Trãi; các bài ở hai bên giống hệt nhau, có khi khác một hay
nhiều câu, có khi chỉ khác đơi chữ. Theo các học giả sưu tầm thì bản in có trước bản
chép tay nên có thể người sưu tầm thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn đưa thêm tác
phẩm của người khác vào để thêm số trang cho tập sách chứ không phải là nguyên
bản của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mất từ lâu.
Năm 1956, nhà xuất bản Văn Sử Địa đã in bản sách Quốc âm thi tập do cụ

Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm phiên âm ra quốc ngữ và chú giải. Bản sách dù
khơng có ngun tác bằng chữ Nôm nhưng đã giúp những người khảo cứu rất nhiều
trong việc biên soạn lại thơ Nôm Nguyễn Trãi. Sau bản phiên âm chú giải trên, đã
có khá nhiều bản phiên âm, chú giải Quốc âm thi tập của các nhà nghiên cứu khác.
Từ các bản sưu tầm và các bản phiên âm, chú giải, có thể thấy rằng: Quốc
âm thi tập là tập thơ viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi được phát hiện trong bộ
Ức Trai di tập, quyển thứ bảy. Đa số những bài này được ông sáng tác khi đã về ở
ẩn tại Côn Sơn những năm 1437,1438.


×