Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Nghiên cứu phân bố nghêu giống (Meretrix lyrata) ven biển Thạnh Phong – Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.64 KB, 12 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

NGHIÊN CỨU PHÂN BỐ NGHÊU GIỐNG (Meretrix lyrata) VEN BIỂN
THẠNH PHONG – THẠNH HẢI, HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE
Nguyễn Minh Niên1*, Đoàn Văn Tiến1, Nguyễn Văn Phụng1, Nguyễn Thị Phương Thanh2
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện tại vùng rừng ngập mặn Thạnh Phong, Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú,
tỉnh Bến Tre qua 5 đợt khảo sát từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2014 với 330 mẫu nghêu giống, 60 mẫu
thức ăn trong ruột nghêu, 60 mẫu đất nền đáy đã được thu và đo một số chỉ tiêu chất lượng nước
tại 33 điểm bao gồm: 13 điểm vùng ven biển (lớp biển), 11 điểm vùng kênh rạch sát biển (lớp giữa)
và 9 điểm vùng rừng ngập mặn (lớp rừng). Mẫu nước được đo tại hiện trường các chỉ tiêu nhiệt
độ, độ muối, độ trong và pH. Mẫu đất được thu bằng khoan đất và gàu đáy chuyên dùng. Mẫu ấu
trùng nghêu phù du và nghêu giống được thu bằng lưới có kích thước mắt lưới tương ứng 30μm
và 1mm và được cố định bằng cồn. Mẫu phân tích thức ăn trong ruột nghêu và độ béo được tiến
hành bằng cách đo chiều cao, khối lượng nghêu khơng có vỏ, cố định ruột bằng dung dịch formol.
Mẫu được phân tích tại phịng thí nghiệm Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, các yếu tố chất lượng nước có giá trị nằm trong giới hạn bình thường cho thủy sinh
vật và nghêu phát triển. Ở vùng ven biển, nhóm đất cát chiếm 94,28%, có tính chất rời rạc, thấm
nước dễ và cũng khó giữ nước. Ở vùng kênh rạch sát biển, có lượng bùn cát trung bình (41,20%
thịt và 2,77% sét). Ở vùng trong rừng ngập mặn, nền đáy chủ yếu là bùn có hàm lượng thịt và sét
cao. Nghêu giống chỉ phân bố ở vùng ven biển Thạnh Phong, Thạnh Hải nơi có nền đáy là cát bùn,
thành phần cát trung bình chiếm 94,28 ± 2,14% và nghiên cứu không xác định nghêu giống phân
bố ở vùng kênh rạch và trong rừng ngập mặn. Độ béo của nghêu vào tháng 6/2014 cao hơn tháng
7/2014. Thành phần thức ăn trong ruột nghêu đa số là mùn bã hữu cơ, chiếm từ 73,68%-91,67% và
tảo từ 8,33%-26,14% số lượng thức ăn trong ruột nghêu.
Từ khóa: Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata), phân bố nghêu, ấu trùng nghêu, nghêu giống, rừng
ngập mặn.

I. MỞ ĐẦU
Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata) là một
trong những loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế ở


Việt Nam, đặc biệt là vùng ven biển Đồng bằng
sông Cửu Long nên đã có nhiều nghiên cứu về
lồi này. Nguyễn Hữu Phụng (1996b) cho rằng
loài Meretrix lyrata chỉ gặp ở Nam bộ tại các
vùng ven biển từ TP. Hồ Chí Minh đến Cà Mau,
chưa phát hiện sự phân bố tự nhiên của chúng ở
ven biển Bắc bộ và Trung bộ. Theo Nguyễn Tác
An và ctv., (1994), nghêu phân bố vùng hạ triều,
thời gian phơi bãi từ 2-8 giờ/ngày, pH nước từ
6,6-8. Một nghiên cứu của Trương Quốc Phú
(1999) cho thấy vùng phân bố tự nhiên ở gần
cửa sơng nơi có chất đáy là cát bùn (cát chiếm

80-90%), độ mặn 10-31‰, nhiệt độ nước từ 2532oC, có thức ăn phong phú, ít sóng gió, dịng
chảy chậm. Các nghiên cứu về sinh học sinh sản,
bảo vệ nguồn lợi và phát triển nghề nuôi cũng đã
được quan tâm thực hiện (Thiet, C.C., và Martin,
S.K., 2008; Aucoin, F., et al., 2004; Nguyễn
Thanh Tùng và ctv., 2004; Nguyễn Đinh Hùng
và ctv., 2002; Nguyễn Đinh Hùng, 2000)
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2. 1. Vị trí và thời gian th gặp ở một số điểm ấu
trùng dạng hậu ấu trùng. Theo ghi nhận của
nhóm nghiên cứu, vào cuối tháng 8 vùng cửa
sông ven biển Thạnh Phong, Thạnh Hải chịu
một lượng lớn nước lục địa đổ ra nên độ muối
giảm.

- Phân bố theo không gian: Ấu trùng
nghêu phân bố tại vùng ven biển là chủ yếu, các

khu vực sâu bên trong cũng có bắt gặp ấu trùng
nghêu nhưng với mật độ rất thấp và cũng chỉ ở
một số điểm (Hình 13, Hình 14, Hình 15). Sự
phân bố của ấu trùng nghêu tại các khu vực sâu
bên trong kênh rạch và rừng ngập mặn có thể do
thủy triều đưa vào. Nhóm nghiên cứu ghi nhận
điều này căn cứ vào thời gian thu mẫu phía trong
kênh rạch và rừng ngập mặn thường vào lúc
nước lên (nước lớn) vì nước xuống (nước rịng)
ghe rất khó đi vào sâu bên trong rừng ngập mặn.

Hình 13. Phân bố của ấu trùng chữ D
(D-larvae stage) vùng kênh rạch sát biển

Hình 11. Phân bố của ấu trùng chữ D
(D-larvae stage) vùng ven biển

Hình 14. Phân bố của hậu ấu trùng (Mature
lavae) vùng kênh rạch sát biển

Hình 12. Phân bố của hậu ấu trùng
(Mature lavae) vùng ven biển

Hình 15. Phân bố của hậu ấu trùng (Mature
lavae) vùng rừng ngập mặn

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

9



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
3.5.2. Giai đoạn nghêu giống (bám đáy)
- Phân bố theo thời gian: Nghêu giống
được xác định với mật độ khá cao vào tháng 5 và
tháng 6. Số lượng giảm dần vào tháng 7 và tháng
8 năm 2014 (Hình 16). Trong thời gian nhóm
nghiên cứu thu mẫu tại Thạnh Phong, Thạnh Hải
các bãi nghêu giống bị người dân khai thác bất
hợp pháp. Theo thông tin từ địa phương thì có
hàng ngàn người ra cào nghêu giống trong hơn 1
tuần đã làm cho nguồn giống tự nhiên bị cạn kiệt.
Hầu như giống tại các bãi giống đều bị bắt hết và
được chuyển ra khỏi vùng.
- Phân bố theo không gian: Khác với giai
đoạn ấu trùng phù du, ở giai đoạn nghêu giống
các cá thể được bắt gặp tại vùng ven biển. Nghêu
giống phân bố với mật độ khá cao tại vùng ven
biển gần cửa sông (điểm 8). Không xác định
nghêu giống phân bố sâu bên trong kênh rạch
và rừng ngập mặn thuộc các xã Thạnh Phong
và Thạnh Hải với nền đáy là bùn. Chỉ xác định
một vị trí sát biển (điểm 20) có nghêu phân bố
nhưng là khu vực cồn đáy là cát bùn ở cửa rạch
lớn rất gần biển (Hình 17).

IV. THẢO LUẬN
4.1. Một số yếu tố chất lượng nước liên
quan đến phân bố nghêu
Qua các số liệu khảo sát, các giá trị nhiệt

độ, độ muối, pH và độ trong của nước đều phù
hợp với điều kiện sống của nghêu. Sự biến động
của các yếu tố này là khơng lớn và nằm trong
khoảng thích hợp cho nghêu. Kết quả này phù
hợp với Kect (1974) theo đó nghêu sống tốt ở
nhiệt độ 20-30o. Tuy chưa có xác định nhiệt độ
tối ưu cho ấu trùng nghêu nhưng để nghêu phát
triển tốt thì giá trị nhiệt độ và độ muối đồng thời
tương ứng là 30oC và 22,5%o. Ấu trùng nghêu
nhạy cảm với độ muối nhiều hơn là nhiệt độ
(Kect, 1974 trích từ Mulholland, 1984). Theo
một nghiên cứu của Nguyễn Tác An và Nguyễn
Văn Lục (1994), nghêu phân bố vùng hạ triều
có pH nước từ 6,6-8. Trương Quốc Phú (1999)
cũng ghi nhận vùng phân bố tự nhiên của nghêu
có độ mặn 10-31‰, nhiệt độ nước từ 25-32oC.
Như vậy, chất lượng nước vùng ven biển Thạnh
Phong, Thạnh Phú khá phù hợp cho sự phát
triển và phân bố của nghêu.
4.2. Thành phần cơ giới của đất và mối
liên hệ đến phân bố nghêu giống

Hình 16. Phân bố nghêu giống vùng ven biển

Hình 17. Phân bố nghêu giống vùng kênh rạch
sát biển
10

Theo kết quả phân tích cấu trúc nền đáy
vùng nghiên cứu ở trên thì nghêu chỉ phân bố ở

vùng có nền đáy là cát bùn với thành phần cát
chiếm đa số và là nơi có dịng chảy chậm. Trong
rừng ngập mặn và tại các cửa sơng khơng tìm
thấy sự hiện diện của nghêu giống. Các phân
tích cấu trúc nền đáy của các nghiên cứu về các
bãi nghêu ở vùng ven biển tỉnh Bến Tre và Tiền
Giang trước đó cho thấy, thành phần cát chiếm
từ 68% điến 75%, sét từ 21 – 31%, bùn/chất lắng
đọng chiếm hơn 7% (Nguyễn Đinh Hùng, 2000)
và cát chiếm từ 86% đến 91%, bùn chỉ chiếm
từ 9% đến 14% (Trương Quốc Phú, 1999). Bùn
và chất lắng đọng có thể giữ độ ẩm lâu hơn cho
nghêu khi bãi nghêu bị phơi dưới ánh nắng mặt
trời trong thời gian thủy triều xuống. Đây là

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
điều kiện lý tưởng bảo vệ nghêu khi bãi triều
cạn và có nắng nóng.
Các nghiên cứu trước đây đều khẳng định
nghêu phân bố tự nhiên ở vùng có nền đáy là
cát chiếm phần lớn dọc theo bờ biển, gần các
cửa sông ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Các cửa sông và vùng lân cận là nơi chuyển tiếp
hoặc vùng giao thoa của dòng chảy từ đất liền
và biển. Vùng này làm giảm vận tốc và sự xáo
trộn của nước, vì thế ấu trùng nghêu có thể bám
đáy (Trương Quốc Phú, 1999).

4.3. Mối liên hệ thức ăn và mùa sinh sản
của nghêu
Loại thức ăn xuất hiện nhiều nhất là mùn
bã hữu cơ với tần số 100%, hiện diện ở tất cả
60 mẫu ruột nghêu, kế đến là các loài tảo thuộc
các giống Cyclotella, Coscinodiscus, Nitzschia.
Các lồi tảo đơn bào, hình trịn và có kích thước
nhỏ hiện diện với tần suất cao ở cả 2 đợt thu
mẫu như Cyclotella striata (91,43% và 65,71%)
Coscinodiscus lineatus (45,71% và 57,14%).
Điều này phù hợp với đặc điểm dinh dưỡng của
nghêu là ăn lọc và chọn lọc theo kích cỡ hạt thức
ăn. Trong 32 loài tảo được xác định trong ruột
nghêu có 3 lồi tảo nước ngọt hiện diện trong
mẫu nghêu thu đợt 2 vào tháng 7, nhưng với
tần số rất thấp, trong đó tảo silic Bacillariophyta
có 1 lồi là Melosira granulata (1,43%) và tảo
lam có 2 lồi là Oscillatoria limosa (2,86) và
Formidium sp. (2,86). Các loài tảo này dạng sợi
có thể được đưa đến từ sơng rạch do nước nội
địa. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu
trước đó.
Theo Trương Quốc Phú (1999), mùn
bã hữu cơ chiếm đa số trong thức ăn của
nghêu từ 78,52% đến 90,38% và thực vật
nổi (Phytoplankton) chỉ chiếm từ 9,62% đến
21,18%. Tảo silic Bacillariophyta chiếm đa số
với 95,45% về thành phần loài, tiếp đến là tảo
giáp Pyrrophyta (2,27%) và tảo lục Chlorophyta
(2,27%). Các giống có tần suất hiện diện nhiều


là Coscinodiscus, Cyclotella, Nitzschia. Thành
phần thức ăn thay đổi theo mùa, có nhiều mùn
bã hữu cơ và ít thực vật nổi trong mùa mưa.
Độ béo của nghêu cao vào tháng 6 vì là
thời kỳ đầu mùa mưa nên nguồn thức ăn là mùn
bã hữu cơ được đưa ra vùng cửa sơng ven biển
bởi dịng nước lục địa giúp cho tảo phát triển
tốt và là nguồn thức ăn cho nghêu. Điều này
cũng chứng tỏ rằng điều kiện sống nói chung và
điều kiện thức ăn nói riêng khá tốt cho nghêu
phát triển và tích lũy sản phẩm sinh dục trong
thời gian này. Theo Trương Quốc Phú (1999)
và Nguyễn Thanh Tùng (2007) nghêu đạt kích
cỡ lớn 3,5cm có khả năng thành thục sinh dục
và thường béo nhất trong năm. Từ tháng 5 đến
tháng 6 là mùa sinh sản chính của nghêu và từ
tháng 7 đến tháng 10 là mùa sinh sản bổ sung
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Như vậy,
đến cuối tháng 7 có thể phần lớn nghêu đã sinh
sản, khả năng cung cấp các điều kiện sống cho
nghêu có phần giảm đi do mưa nhiều, lượng
nước ngọt đổ ra biển lớn, nên độ béo giảm.
Nhóm nghiên cứu không thấy sự khác biệt lớn
về chỉ số độ béo giữa các điểm phân bố có lẻ vì
phạm vi phân bố của nghêu tại Thạnh Phong,
Thạnh Hải không lớn (khoảng 170 ha), chỉ nằm
ven biển ngoài vùng rừng ngập mặn và chịu ảnh
hưởng của cửa sông Cổ Chiên.
4.4. Phân bố của nghêu giống ở các giai

đoạn
Các kết quả về phân bố nghêu giống qua
các giai đoạn đã ghi nhận ở trên khá phù hợp với
đời sống của nghêu đã được đề cập trong các tài
liệu và nghiên cứu trước đó. Theo Nguyễn Hữu
Phụng (1996a) nghêu sống ở vùng triều có nền
đáy là cát bùn với tỷ lệ cát từ 60%-90%, phân bố
chủ yếu ở vùng trung triều và dưới triều, nơi có
độ dốc thấp và tương đối bằng phẳng, cấu trúc
nền đáy hơi xốp để thuận lợi cho việc vùi mình
vào nền đáy của nghêu. Trong tự nhiên chưa hề
gặp loài này ở vùng đáy bùn hoặc đáy là đất sét,

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

11


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
rất ít gặp nghêu phân bố ở bãi cát thô, cấp hạt
lớn hoặc đáy cát rắn chắc. Các nghiên cứu khác
cũng ghi nhận rằng nghêu phân bố vùng hạ
triều, thời gian phơi bãi từ 2-8 giờ/ngày (Nguyễn
Tác An và ctv., 1994), ở gần cửa sơng nơi có
chất đáy là cát bùn (cát chiếm 80-90%), độ mặn
10-31‰, nhiệt độ nước từ 25-32oC, có thức ăn
phong phú, ít sóng gió, dịng chảy chậm (Trương
Quốc Phú (1999).
Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận sự hiện
diện của nghêu giai đoạn ấu trùng phù du ở

một số điểm trong vùng rừng ngập mặn nhưng
khơng tìm thấy nghêu giống giai đoạn bám đáy
trong khu vực này và vùng có nền đáy là bùn.
Hơn nữa, sự phân bố của nghêu giống ở giai
đoạn ấu trùng phù du thì chưa được khẳng định
rõ. Sự di chuyển của nghêu giai đoạn ấu trùng
phù du là thụ động và phụ thuộc vào dòng
nước. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng rừng
ngập mặn ven biển là nơi ương dưỡng của
nhiều loài cá và thủy sinh vật vì có các điều
kiện tự nhiên và nguồn thức ăn tốt, là nơi trốn
tránh địch hại. Việc xác định nghêu giống có
phân bố trong rừng ngập mặn hay khơng và

12

vào giai đoạn nào trong chu kỳ sống của nghêu
còn là câu hỏi lớn.
V. KẾT LUẬN
Các yếu tố chất lượng nước nằm trong giới
hạn bình thường cho thủy sinh vật và nghêu
phát triển. Thành phần cơ giới đất giữa các vùng
có sự khác biệt rõ. Vùng ven biển có nhóm đất
cát, rời rạc, thấm nước dễ và cũng khó giữ nước,
vùng giữa có tỷ lệ bùn cát trung bình và vùng
rừng ngập mặn chủ yếu là đáy bùn có hàm lượng
thịt và sét cao.
Trong thành phần thức ăn của nghêu, mùn bã
hữu cơ chiếm từ 73,68% - 91,67%, tảo từ 8,33% 26,14%. Ngành tảo Silic Bacillariophyta chiếm đa
số (93,94%) với 30 lồi tìm thấy trong ruột nghêu.

Nghêu có độ béo khá cao vào tháng 6 và
giảm xuống vào tháng 7/2014.
Nghêu giống phân bố vùng ven biển, nơi có
nền đáy là cát bùn. Ấu trùng phù du của nghêu
được tìm thấy ở một số điểm trong các kênh
rạch rừng ngập mặn có thể do thủy triều đưa vào
nhưng tuyệt đối khơng tìm thấy nghêu giống
phân bố ở đó.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt

Châu, Trần Quốc Chương, Nguyễn Thị Xuân Lan,

Nguyễn Đinh Hùng, 2000. Nghiên cứu các điều kiện

Lê Thị Xuân Lan, Võ Thị Bé Năm, Vũ Nguyên

sinh thái môi trường ảnh hưởng đến q trình ni

Anh và Đặng Thị Đoan Trang, 2007. Nghiên cứu

nghêu Meretrix lyrata (Sowerby) ở vùng ven biển

các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi nghêu


Tiền Giang, Bến Tre. Luận văn cao học. Đại học

Bến Tre Meretrix lyrata (Sowerby), 177 tr.

Quốc Gia Tp.HCM.

Trương Quốc Phú, 1999. Nghiên cứu một số đặc điểm

Nguyễn Đinh Hùng, Huỳnh Thị Hồng Châu, Nguyễn

sinh học, sinh hóa và kỹ thuật nuôi nghêu Meretrix

Văn Hảo, 2002. Kết quả nghiên cứu kỹ thuật sản

lyrata ở vùng ven biển Tiền Giang, Bến Tre. Luận

xuất giống nghêu ở Đồng bằng sông Cửu Long.

án tiến sĩ, 154 tr.

Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long, Viện Nghiên

Tài liệu tiếng Anh

Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 2.

Aucoin, F., Doiron, S., and Nadeau, M., 2004. Guide

Nguyễn Hữu Phụng, 1996a. Đặc điểm sinh học và kỹ

thuật ương nuôi nghêu Meretrix lyrata (Sowerby).
Tạp chí Thơng tin Khoa học và Thủy sản, số 7
(tr.13-21) và số 8 (tr.14-18).
Nguyễn Hữu Phụng, 1996b. Nguồn lợi thân mềm hai
mảnh vỏ (Bivalvia) chủ yếu ở biển Việt Nam.
Tuyển tập nghiên cứu Biển, tập VII, tr.9-16.
Nguyễn Tác An, Nguyễn Văn Lục, 1994. Nghiên cứu

to sampling and identifying larvae of species of
maricultural interest. Quebec, Canada.
Luu, T.T., Holt. T., and Hough, A., 2009. Ben Tre
fishery. Public comment draft report. Moody
Marine LTD.
Mulholland, R., 1984. Habitat suitability index models:
Hard clam. U.S.Fish Wild. Ser. FWS/OBS82/10.77. 21 pp.

nguồn lợi hải đặc sản và các điều kiện tự nhiên

Thiet, C.C., and Martin, S.K., 2008. Clam (Meretrix

phục vụ quy hoạch, sử dụng hợp lý các thủy vực

lyrata) hatchery manual. Aquaculture Research

ven biển tỉnh Trà Vinh. Báo cáo khoa học, Sở

Sub-Institute for North Centre (ARSINC) and

KHCNMT và Sở Thủy sản Trà Vinh, tr. 88-101.


South Australian Research and Development

Nguyễn Thanh Tùng, Đoàn Văn Tiến, Phan Thanh Lâm,

Institute (SARDI).

Trần Kim Hằng, Nguyễn Nguyễn Du, Lâm Ngọc

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

13


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

STUDY ON DISTRIBUTION OF HARD CLAM SEED (Meretrix lyrata)
IN THE COAST OF THANH PHONG - THANH HAI, THANH PHU DISTRICT,
BEN TRE PROVINCE
Nguyen Minh Nien *, Doan Van Tien1, Nguyen Van Phung1, Nguyen Thi Phuong Thanh2
1

ABSTRACT
The study was carried out in mangroves forest of Thanh Phong and Thanh Hai communes, Thanh
Phu district, Ben Tre province by 5 field surveys from April to August 2014 with 330 samples of
clam larvae and juvenile stages, 60 samples of clam digestive tract for food analyzing in clam
digestive systems, 60 samples of bottom soil sampled. Some water quality parameters in 33 sample
plots including: 13 plots in the beach (beach area), 11 plots in channels (middle area) and 9 plots
in mangroves forest (forest area) were also monitored. Water quality parameters of temperature,
salinity, transparency and pH were measured on the field. Samples of bottom soil structures were
collected by the special soil borer and Petersen grab. Samples of clam larvae and juvenile stages

were collected by 30μm and 1mm nets, respectively and fixed in ethanol. Samples for fat and food
analyzing in clam digestive systems were collected, clam height and weight were measured without
shell and fixed in formalin solution. Samples were analyzed in laboratories of the Institute for
Aquaculture No. II. Results of the study show that, water quality parameters were in normal ranges
for the development of aquatic animals and clam. In the beach area, the sandy soil covered 94.28%
with desultory, easy hydrophilic and difficult in keeping water level. Contents of silt and clay were
average (41.20% silt và 2.77% clay) in the middle area. In the mangroves forest, bottom structures
were mud with high contents of clay and silt. Clam larvae and juvenile distributed mainly in the
beach area of Thanh Phong, Thanh Hai where the bottom structures were mud-sandy soil with the
average sand content of 94.28± 2.14%. Study results determined no distribution of clam seed in
channels and mangroves forest. Fat levels of clams in June 2014 were higher than that in July 2014.
Organic matters accupied 73.68%-91.67% and algae covered 8.33%-26.14% of the total food in
clam digestive systems.
Keywords: Ben Tre clam (Meretrix lyrata), clam distribution, clam larvae, clam juvenile, mangrove
forest.

Người phản biện: Ths. Nguyễn Đình Hùng
Ngày nhận bài: 18/11/2015
Ngày thông qua phản biện: 18/12/2015
Ngày duyệt đăng: 25/12/2015

1. Department of Fisheries ecology and Aquatic resources, Research Institute for Aquaculture No.2
* Email:
2. The Fisheries College

14

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016




×