Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Ứng dụng GIS thể hiện sự phân bố, biến động thành phần loài và sản lượng khai thác cá vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2017 – 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.36 MB, 11 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

ỨNG DỤNG GIS THỂ HIỆN SỰ PHÂN BỐ, BIẾN ĐỘNG THÀNH PHẦN
LOÀI VÀ SẢN LƯỢNG KHAI THÁC CÁ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG GIAI ĐOẠN 2017 – 2019
Huỳnh Hoàng Huy 1*, Nguyễn Nguyễn Du1

TĨM TẮT
Nghiên cứu biến động thành phần lồi cá vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được thực hiện từ tháng
01/2019 đến tháng 10/2019. Ứng dụng GIS và quan trắc sản lượng khai thác được thực hiện với 7 trạm
quan trắc thuộc 4 tỉnh, thành đại diện cho 4 vùng sinh cảnh khác nhau. Mục đích nghiên cứu là quan trắc
sản lượng khai thác cá, xây dựng bản đồ phân bố và biến động số lượng, sản lượng các loài cá ở mức độ
hộ và khu vực nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 178 lồi cá, gồm 17 bộ và 48 họ phân bố ở 4
vùng sinh cảnh khác nhau. Sản lượng khai thác cao nhất ở vùng ven biển trạm Cầu Quan chiếm 27% và
thấp nhất ở trạm Vũng Liêm trong nội đồng chiếm 4% tổng sản lượng khai thác của các trạm. Các trạm
trên dòng chính, kênh rạch và vùng ngập lũ có số lượng loài đa dạng hơn so với các trạm trong vùng nội
đồng và gần cửa sông, ven biển; cụ thể 113 lồi so với 21 lồi. Nhóm cá trắng có sự đa dạng hơn về thành
phần loài và phong phú hơn về sản lượng so với các nhóm cá khác. Lồi ngoại lai được tìm thấy chủ yếu
là cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus) và cá rô phi (Oreochromis sp.), tập trung nhiều nhất ở trạm
Vàm Nao. Nghiên cứu này đã xây dựng được bản đồ phân bố thành phần loài và biến động sản lượng cá,
dựa trên sự tiện ích của cơng cụ GIS. Bên cạnh đó, nghiên cứu cung cấp thêm tài liệu tham khảo hữu ích
cho cơng tác bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá.
Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long, biến động, phân bố, GIS, sản lượng cá.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sông Mê Công chảy vào Việt Nam qua
2 nhánh sông Tiền (dài 150 km) và sông Hậu
(dài 190 km) tạo nên một lưu vực vùng Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với tổng diện
tích gần 40.550 km2, chiếm khoảng 12% diện
tích cả nước. Ngồi ra, ĐBSCL có một hệ thống


sơng ngịi – kênh rạch dày đặc với tổng chiều
dài khoảng 4.900 km (Lê Song Giang, 2004).
Nguồn lợi thủy sản rất đa dạng và phong phú.
Hiện nay, vùng ĐBSCL đã xác định được 322
loài cá thuộc 77 họ, trong đó 312 lồi thu được
trong vùng nước ngọt và lợ, và có 10 lồi thu
được ở vùng cửa sơng (Trần Đắc Định và ctv.,
2013), thành phần loài cá chia thành 2 nhóm lớn
là nhóm cá nước ngọt sống trong sơng, thường
được gọi là nhóm cá trắng và nhóm cá sống
nước tĩnh, cịn gọi là cá đen; 18 lồi tơm nước
ngọt (Nguyễn Văn Thường và Trương Quốc
Phú, 2004).

Tổng sản lượng khai thác thủy sản (KTTS),
bao gồm khai thác biển và nội địa vùng ĐBSCL
năm 2018 đạt 1,443 triệu tấn, chiếm 40,02%
tổng sản lượng KTTS cả nước. Đối với nghề
KTTS nội địa, sản lượng vùng ĐBSCL năm
2018 đạt 465.451 tấn, chiếm 48,14% tổng sản
lượng KTTS nội địa cả nước (Tổng cục Thống
kê, 2018). Hơn 120 loại ngư cụ KTTS nội địa
vùng ĐBSCL đã được miêu tả và chia thành 13
nhóm (Nguyễn Nguyễn Du và ctv., 2006). Hầu
hết các loại ngư cụ đều rất thơ sơ, ngư dân có
thể tự chế tạo. Nghề KTTS nội địa vùng ĐBSCL
mang đặc tính quy mơ nhỏ nhưng đóng một vai
trị quan trọng trong việc tạo việc làm và cung
cấp thực phẩm hàng ngày cho hàng triệu người
dân địa phương. Tuy nhiên, sản lượng KTTS

đang có khuynh hướng giảm rõ rệt trong những
năm gần đây vì rất nhiều nguyên nhân khác
nhau. Nhìn chung các yếu tố này đều liên quan
đến việc khai thác quá mức, môi trường sống bị

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
* Email:

1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

83


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

thu hẹp, ngăn chặn đường di cư của cá, và chất
lượng môi trường sống bị suy giảm. Bên cạnh đó,
tầm quan trọng của ngành thủy sản đối với kinh
tế cả nước ngày càng được khẳng định, trong đó
nghề cá ĐBSCL giữ một vị trí rất quan trọng.
GIS (Geographic Information System) đã
được ứng dụng trong ngành thủy sản kể từ giữa
những năm 1980. Đầu thập niên 90, GIS mới áp
dụng rộng rãi vào nghiên cứu các vùng nuôi trồng
thủy sản (Aguilar – Manjarrez và Ross, 1995). Ở
Việt Nam, GIS đã được ứng dụng trong đánh giá
tình hình ni cá điêu hồng trong lồng bè ở sông
Tiền vùng thượng nguồn tỉnh Vĩnh Long (Trần

Văn Việt, 2016), trong hiện trạng phân bố không
gian nuôi trồng thủy sản khu vực Cần Thơ, An
Giang và Đồng Tháp giai đoạn từ 2010 đến 2014
(Nguyễn Thị Hồng Điệp và ctv., 2016), trong
điều tra hiện trạng nuôi trồng thủy sản lợ mặn
vùng cao triều ở xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang,
tỉnh Thừa Thiên Huế (Trương Văn Đàn và ctv.,
2018). Do có khả năng cập nhật, truy xuất dữ liệu
nhanh và chính xác, phân tích và biểu diễn dữ
liệu khơng gian và thuộc tính được tổng hợp từ
nhiều nguồn khác nhau nên GIS ngày càng được
ứng dụng trong việc quản lý, lập quy hoạch, hỗ

trợ ra quyết định phát triển và khai thác cũng như
bảo tồn nguồn lợi thủy sản.
Tuy nhiên, các chương trình nghiên cứu
trước đây về thủy sản vùng ĐBSCL chủ yếu tập
trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể, các báo
cáo tổng hợp số liệu thống kê chuyên ngành thủy
sản và hệ thống hóa cơ sở về nghề cá chỉ mới
được tiến hành ở một vài dự án phát triển và cịn
khá rời rạc. Vì vậy, một cơng cụ quản lý, cập
nhật thông tin và truy xuất dữ liệu nhanh là rất
quan trọng. GIS là một trong những cơng cụ có
thể đáp ứng nhu cầu đó, nên nghiên cứu này là
thực sự cần thiết nhằm giúp các nhà quản lý tham
khảo, nhìn nhận tổng quan, xem xét và cân nhắc
trong việc đề ra các giải pháp khai thác và quản
lý nguồn lợi thủy sản cho mục tiêu phát triển bền
vững vùng ĐBSCL.

II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Thời gian và địa điểm
Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian
từ tháng 01/2019 đến tháng 10/2019 ở 7 trạm
quan trắc vùng ĐBSCL trên 2 nhánh sơng chính:
sơng Tiền và sơng Hậu (Hình 1).
2.2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu

Hình 1. Hệ thống trạm quan trắc KTTS vùng ĐBSCL
84

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Số liệu được ghi chép hàng ngày vào sổ nhật
ký của 21 hộ ngư dân tại 7 trạm quan trắc trong
thời gian từ tháng 01/2019 – 10/2019 được sử
dụng làm vật liệu nghiên cứu. Ngồi ra, chúng
tơi cũng sử dụng số liệu nghiên cứu của chương
trình quan trắc sản lượng cá khai thác năm 2017
và năm 2018 do Ủy Hội sông Mê Công (MRC)
tài trợ thực hiện bởi chính nhóm tác giả để đánh
giá xu hướng biến động qua các năm.
Trước khi triển khai chương trình quan trắc
này, tất cả ngư dân được tập huấn trong việc ghi
chép số liệu vào sổ nhật ký. Tất cả các thông tin
liên quan đến việc KTTS được ngư dân ghi chép
chi tiết vào sổ nhật ký hàng ngày. Ngoài ra, ngư

dân được cung cấp các vật liệu như: cân, thước,
sổ nhật ký, tập, viết và bộ Atlas hình màu các lồi
cá vùng ĐBSCL để giúp nhận diện được chính
xác thành phần lồi cá khai thác được. Định kỳ
triển khai 4 lần/năm để kiểm tra và thu số liệu
ghi chép của ngư dân. Ngoài ra, việc trao đổi qua
điện thoại cũng được duy trì thường xuyên để số
liệu thu thập được một cách chính xác nhất.
2.3. Phân tích số liệu
Cơ sở dữ liệu (CSDL) được xây dựng trên
MS. Access 2019 và chuẩn hóa cho các năm kế
tiếp, nhằm hệ thống hóa và đánh giá tốt hơn về

xu hướng biến động KTTS và nguồn lợi cá vùng
ĐBSCL.
Phương pháp thống kê mơ tả được phân tích
bằng phần mềm MS. Excel 2019.
2.4. Phương pháp thiết lập bản đồ
Chuẩn bị: máy định vị toàn cầu GPS (Global
Positioning System), bản đồ nền dạng số xã
Nhơn Hội (huyện An Phú), xã Tân Trung (huyện
Phú Tân), thị trấn Núi Sập (huyện Thoại Sơn), xã
Mỹ Khánh (huyện Phong Điền), xã Thanh Bình
(huyện Vũng Liêm), thị trấn Cầu Quan (huyện
Tiểu Cần) và xã Long Đức (thành phố Trà Vinh),
tỷ lệ 1:750.000, sử dụng phép chiếu WGS 1984
UTM Zone 48N, phần mềm ArcGIS 10.4.1.
Tiến hành: sau khi đã có các kết quả phân
tích về sản lượng khai thác cá ở 7 trạm quan trắc
vùng ĐBSCL, sử dụng phần mềm quản lý dữ

liệu ArcCatalog để quản lý các thơng tin thuộc
tính dưới dạng các shapefile (*.shp). Sau đó, đưa
dữ liệu dưới dạng shapefile và các bản đồ nền
vào phần mềm ArcMap để tiến hành các thao tác
phân tích và thiết lập bản đồ.
Tích hợp dữ liệu khơng gian và CSDL hình
thành nên các thuộc tính/lớp (Layers), mỗi thuộc
tính/lớp xuất ra 1 bản đồ, quy trình thực hiện theo
sơ đồ dưới đây:

Dữ liệu đầu vào
Số liệu quan trắc KTTS tại 7 trạm,
thơng tin vị trí các trạm quan trắc

Bản đồ nền
Phương pháp

Số hóa, số liệu quan trắc và cập nhật: cơ cấu thành phần loài, sản lượng giữa các nhóm cá qua
3 năm từ 01/2017 đến 10/2019
Phân tích, tích hợp giữa dữ liệu không gian và cơ sở dữ liệu cho từng thuộc tính
Kết quả
Truy xuất bản đồ cho từng thuộc tính: biến động thành phần lồi, biến động cá thể loài ngoại lai
phổ biến và biến động sản lượng khai thác trung bình 100 m2 lưới qua các năm

Hình 2. Quy trình thu thập số liệu, xử lý thơng tin
truy xuất ảnh và bản đồ
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

85



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

III. KẾT QUẢ
3.1. Thành phần lồi và cơ cấu sản lượng
giữa các nhóm cá
Kết quả quan trắc sản lượng khai thác qua
3 năm 2017, 2018 và 2019 đã chỉ ra rằng có tất
cả 178 loài cá, gồm 17 bộ và 48 họ phân bố ở 4
vùng sinh thái khác nhau. Trong đó, số lượng loài
cao nhất thuộc về kênh rạch với 113 loài (chiếm
63,48% tổng số loài khai thác bắt gặp), kế đến là
dịng chính với 108 lồi (chiếm 60,67%), vùng
ven biển với 55 loài (chiếm 30,90%) và thấp
nhất với 21 loài (chiếm 11,80%) ở vùng đồng
ruộng, ngập lụt (Hình 3a). Diễn biến biến động
số lượng lồi qua các năm có xu hướng giảm
rõ rệt ở hầu hết các loại hình sinh cảnh, như:
vùng đồng ruộng 21 lồi (2017) giảm cịn 12
lồi (2019), vùng ven biển 49 loài (2017) gim 2017
giữa các tháng có xu hướng tăng dần từ 0,13
g/100 m2 lưới/ngư dân/tháng (tháng 1) lên 0,21
g/100 m2 lưới/ngư dân/tháng (tháng 12). Trong
năm 2018 và năm 2019 không biến động nhiều
giữa các tháng và giữ mức ổn định (Hình 7)

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

87



VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 6. Biến động sản lượng khai thác trung bình 100 m2
lưới bén và ba màng 2017, 2018 và 2019

Hình 7. Xu hướng sản lượng khai thác trung bình 100 m2
lưới giữa các tháng 2017, 2018 và 2019
3.3. Hiện trạng biến động thành phần
lồi, sản lượng khai thác theo khơng gian và
thời gian khu vực nghiên cứu
3.3.1. Sự biến động thành phần loài theo
không gian và thời gian khu vực nghiên cứu
Biến động đa dạng thành phần lồi theo
khơng gian và thời gian được thể hiện trong
(Hình 8). Thành phần lồi có xu hướng giảm ở
phần lớn các trạm trong thời gian nghiên cứu,
tuy nhiên trạm Cầu Quan có sự giảm đáng kể
88

từ 94 lồi (năm 2017) cịn 28 lồi (năm 2019).
Ngun nhân có thể do biến đổi khí hậu, lũ diễn
biến thất thường, xây dựng các cơng trình cống
ngăn mặn phục vụ sản xuất nông nghiệp tại
vùng cửa sông, ven biển, việc ghi chép nhật ký
ngư dân hạn chế (không tập trung khai thác cá
thường xuyên, giảm tần suất các chuyến đánh
bắt) do nhu cầu sinh kế nên phải linh hoạt hơn
trong nhiều ngành khác nhau vì nếu KTTS với
quy mơ nhỏ lẻ, không tập trung sẽ mang lại lợi

nhuận không cao.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 8. Sự biến động thành phần loài qua năm 2017,
2018 và 2019.
3.3.2. Sự biến động lồi ngoại lai theo
khơng gian và thời gian khu vực nghiên cứu
Đáng chú ý đã xác định được 9 loài cá
ngoại lai trong thời gian nghiên cứu, trong đó
cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus) và
cá rơ phi (Oreochromis sp.) chiếm tỷ lệ cao nhất
với 46% tổng số cá thể loài ngoại lai, cá chép
(Cyprinus carpio), cá chim trắng (Piaractus
brachypomus) và các loài cá ngoại lai khác

chiếm tỷ lệ khá thấp dưới 6% tổng số cá thể loài
ngoại lai được tìm thấy. Sự phân bố cá lau kiếng
và cá rô phi theo không gian và thời gian được
thể hiện trong (Hình 9). Theo khơng gian, các
loại cá ngoại lai chủ yếu phân bố ở khu vực nội
đồng, kênh rạch và dịng chính, khơng thấy xuất
hiện ở các khu vực cửa sơng, ven biển và khơng
có sự giảm qua các năm.

Hình 9. Phân bố, biến động số lượng cá lau kiếng và cá
rô phi khai thác năm 2017, 2018 và 2019.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

89


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

3.3.3. Sự biến động sản lượng khai thác
trung bình 100 m2 lưới theo không gian và
thời gian khu vực nghiên cứu
Kết quả quan trắc sản lượng khai thác trung
bình 100 m2 lưới qua các năm nhìn chung khơng

biến động nhiều theo khơng gian và thời gian
(Hình 10). Riêng trạm Núi Sập có sự tăng mạnh
từ 30,8 g/100 m2 lưới/ngư dân/năm (2017) lên
159,4 g/100m2 lưới/ngư dân/năm (năm 2019).

Hình 10. Biến động sản lượng khai thác trung bình 100
m2 lưới qua năm 2017, 2018 và 2019.
IV. THẢO LUẬN
Có hơn 90% người khai thác cho rằng
nguồn lợi thủy sản mùa lũ năm 2019 giảm 50 –
70% so với 10 năm trước đây. Nguyên nhân do
việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ngày càng
nhiều trong canh tác nông nghiệp, đặc biệt là
thuốc trừ ốc bươu vàng. Sử dụng ngư cụ bắt cá
nhỏ, cá bố mẹ, các loại ngư cụ có kích thước mắt
lưới nhỏ như dớn và lú, theo Trương Thị Nga và
ctv., (2007) thì việc khai thác này đã ảnh hưởng

nghiêm trọng đến nguồn lợi thủy sản. Theo
Nguyễn Nguyễn Du và ctv., (2018) cho rằng
hầu hết ngư dân đều cho rằng sản lượng KTTS
đã suy giảm trong 5 năm gần đây, kích thước
cá – tơm cũng ngày càng giảm và đây được xem
như một yếu tố cho biết dấu hiệu của nguồn lợi
suy giảm. Có nhiều nguyên nhân tác động đến
việc suy giảm sản lượng KTTS, nhưng ngư dân
cho rằng có hai ngun nhân chính đó là việc
90

hiện nay rất nhiều người tham gia KTTS, lũ về
thất thường với lượng nước thấp hơn hằng năm
và thời gian lũ kéo dài ngắn hơn. Ngồi ra, cịn
các lý do khác như: khai thác cá con, sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật trong nơng nghiệp, kiểm
sốt lũ gia tăng canh tác 3 vụ, vấn đề ô nhiễm
môi trường nước từ các hoạt động ngành công
nghiệp khác, những tác động tiêu cực do xây
dựng thủy điện từ thượng nguồn và các cơng
trình thủy lợi như xây cống ngăn mặn.
Nghiên cứu qua các năm 2017, 2018 và
2019 đã xác nhận có 178 lồi cá so với cơng
bố trước đây của Trần Đắc Định và ctv., (2013)
đã mô tả được 322 lồi cá, trong đó có 186 lồi
cá nước ngọt. Như vậy, có sự sai khác về thành
phần lồi giữa hai thời điểm nghiên cứu, có thể
do có nhiều lồi cá đã khơng cịn bắt gặp nữa
hoặc ngư cụ KTTS của người dân trong nghiên
cứu này là có tính chọn lọc q cao hoặc vị trí


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

đặt trạm quan trắc là chưa đa dạng về chủng loại
và chưa phong phú về số lượng. Nhiều loài cá
hiện nay được người dân cho rằng hiếm khi bắt
gặp được, bao gồm cá cóc (Cyclocheilichthys
enoplos), cá heo cái (Botia modesta) và cá mè
hơi (Osteochilus melanopleura). Ngoài ra, 3
loài cá được nhiều người dân cho rằng sản lượng
ngoài tự nhiên rất nhiều so với trước đây gồm
cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus), cá
chim trắng (Piaractus brachypomus) và cá rơ
phi (Oreochromis sp.) với lý do chính do việc
di nhập, thốt ra ngồi tự nhiên từ ni trồng
thủy sản và có thể do thức ăn, mơi trường phù
hợp đã làm những lồi cá này thích nghi tồn
tại, sinh sản, sinh trưởng và phát triển (Nguyễn
Nguyễn Du và ctv., 2018). Theo Tăng Bảo
Toàn và Trần Văn Việt (2015), một số loài chỉ
xuất hiện vùng thượng nguồn như: cá mè lúi
(Osteochilus microcephalus), cá ngựa (Hampala
macrolepidota), cá heo (Yasuhikotakia modesta),
cá chốt giấy (Mystus albolineatus), cá mè hôi
(Osteochilus melanopleura). Tuy nhiên, một số
loài xuất hiện ở cả thượng nguồn và giữa nguồn
như: cá lóc (Channa striata), cá rơ (Anabas

testudineus), cá sặc (Trichopodus spp), cá lòng
tong (Rasbora spp), cá rằm (Puntius brevis), cá
trê lai (Clarias macrocephalus x C.gariepinus),
cá chốt (Mystus spp), cá chạch (Macrognathus
spp). Số lượng lồi năm 2014 ít hơn các năm
trước, theo Thái Ngọc Trí và ctv., (2012) đã
xác định được 111 loài ở vùng thượng nguồn
của tỉnh An Giang (Búng Bình Thiên) và ở tỉnh
Đồng Tháp là khoảng 159 loài cá (Ủy ban nhân
dân tỉnh Đồng Tháp, 2014).
Bên cạnh đó, hệ thống đê bao trong quản
lý nơng nghiệp, hệ thống đê bao chống lũ ngày
càng phát triển và hoàn thiện nhằm tăng vụ và
dân sinh, tuy nhiên đã ảnh hưởng rất lớn đến
nguồn lợi thủy sản. Theo Lê Anh Tuấn (2009)
thì nước lũ đã tạo ra 650.000 lao động nông
thôn trong tỉnh An Giang và mùa lũ mang lại
khoảng 1.500 tỷ đồng từ khai thác và nuôi trồng
thủy sản mùa lũ. Ngồi ra, canh tác nơng nghiệp
ngày càng theo hướng thâm canh hóa và thuốc
diệt tạp trong ni trồng thủy sản.

V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận
Nghiên cứu đã xây dựng được bản đồ phân
bố thành phần loài và sản lượng khai thác của
178 loài cá, phân bố ở 4 vùng sinh thái khác
nhau, số lượng loài cao nhất thuộc về kênh rạch
với 113 loài và thấp nhất với 21 loài ở vùng
đồng ruộng, ngập lụt. Ngoài ra, việc ứng dụng

GIS cũng thể hiện được bản đồ phân bố của 2
loài cá ngoại lai: cá lau kiếng (Pterygoplichthys
disjunctivus) và cá rơ phi (Oreochromis sp.), số
lượng lồi này chủ yếu tập trung ở kênh rạch,
dịng chính và vùng ngập lụt, trong khi đó ở
vùng ven biển thì khơng bắt gặp được cá ngoại
lai. Diễn biến biến động thành phần lồi và sản
lượng khai thác có xu hướng giảm theo không
gian và thời gian.
5.2. Đề xuất
Trong thời gian tới tiếp tục có những nghiên
cứu đánh giá một cách đầy đủ về ảnh hưởng
và tác động của các cơng trình chống lũ, cơng
trình xây dựng đập thủy điện ở thượng nguồn
và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu để có biện
pháp giảm nhẹ tác động và có phương án sử
dụng tài nguyên đất và nước bền vững, thành
lập các khu sinh thái đất ngập nước để bảo vệ,
bảo tồn các loài thuỷ sinh vật, phát triển nghề
nuôi thuỷ sản trong vùng ngập lũ để giảm áp lực
khai thác thủy sản, xây dựng khung pháp lý về
phân quyền quản lý vùng nước để thực hiện các
dự án đồng quản lý trong KTTS vùng nước nội
địa. Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học cụ thể
phục vụ việc xây dựng các khu vực cấm khai
thác thủy sản có thời hạn, các đối tượng đặc hữu
cần bảo vệ.
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Ủy
Hội sông Mê Công (MRC) đã hỗ trợ kinh phí

thực hiện quan trắc này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Lê Anh Tuấn, 2009. Tổng quan về nghiên cứu biến
đổi khí hậu và các hoạt động thích ứng ở miền
Nam Việt Nam, Hội thảo “Cùng nỗ lực để thích

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

91


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ứng biến đổi khí hậu” CSRD – Acacia – Both
ENDS – IVM, Thành phố Huế, Việt Nam. 11–13
tháng 5.
Lê Song Giang, 2004. Nghiên cứu bằng mơ hình tốn
mơi trường sơng rạch Nam Sơng Hậu. Nhiệm vụ
quan trắc, cảnh báo môi trường và dich bệnh các
tỉnh Nam Sông Hậu. Đề tài nghiên cứu khoa học.
Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Nguyễn Du, Claire Smallwood, Nguyễn Văn
Hảo, Nguyễn Xuân Trinh và Nguyễn Trọng Tín,
2006. Bộ sưu tập ngư cụ nội địa vùng Đồng bằng
sông Cửu Long. Nhà xuất bản Lao Động. Tp. Hồ
Chí Minh.
Nguyễn Nguyễn Du, Phan Thanh Lâm, Đoàn Văn
Bảy, Nguyễn Văn Phụng, Đinh Trang Điểm,
Huỳnh Hoàng Huy, Trần Thúy Vy, Nguyễn Trung
Hiếu và Vũ Vi An, 2018. Báo cáo tổng kết nhiệm

vụ thường xuyên theo chức năng năm 2018. Quan
trắc biến động nguồn lợi thủy sản nội địa ở vùng
Đồng bằng sông Cửu Long phục vụ công tác
nghiên cứu và quản lý Nhà nước. Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản II.
Nguyễn Thị Hồng Điệp, Phan Kiều Diễm và Huỳnh
Minh Thiện, 2016. Tạp chí Kỷ yếu Hội thảo GIS
toàn quốc. Trang 608 – 614.
Nguyễn Văn Thường và Trương Quốc Phú, 2004.
Giáo trình ngư loại II (Giáp xác và Nhuyễn thể).
Đại Học Cần Thơ.
Tăng Bảo Toàn và Trần Văn Việt, 2015. Đánh giá tình
hình khai thác thủy sản mùa lũ ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học, Trường Đại
học Cần Thơ. 40b: 83 – 89.
Thái Ngọc Trí, Hồng Đức Đạt và Nguyễn Văn Sang,
2012. Nghiên cứu sự đa dạng sinh học khu hệ cá
ở vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên, Tỉnh An
Giang. Tạp chí Sinh học, 34 (3SE): 21 – 29.
Tổng cục Thống Kê, 2018. Ngày truy cập:

92

01/10/2019. />Trần Đắc Định, Shibukawa Koichi, Nguyễn Thanh
Phương, Hà Phước Hùng, Trần Xuân Lợi, Mai
Văn Hiếu và Utsugi Kenzo, 2013. Mô tả định
loại cá Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
NXB Đại học Cần Thơ. 174 trang.
Trần Văn Việt, 2016. Đánh giá tình hình ni cá
Điêu hồng (Oreochromis spp.) trong lồng bè ở

sông Tiền vùng thượng nguồn tỉnh Vĩnh Long.
Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ.
47b: 110 – 118.
Trương Thị Nga, Nguyễn Công Thuận và Nguyễn
Minh Thư, 2007. Hiện trạng khai thác thủy sản
và nhận thức của người dân về chính sách bảo
vệ nguồn lợi thủy sản ở ấp Bình An – Thạnh Lợi,
xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú, tỉnh An
Giang. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần
Thơ, (7): 112 – 120.
Trương Văn Đàn, Nguyễn Thành Luân, Mạc Như
Bình, Phạm Thị Ái Niệm, Hà Nam Thắng và Vũ
Ngọc Út, 2018. Điều tra hiện trạng nuôi trồng
thủy sản lợ mặn cao triều ở xã Phú Mỹ, huyện
Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Tạp
chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ. 54 (7B):
126 – 137.
Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, 2014. Triển khai
Chương trình Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy
sản tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020 theo Quyết
định số 188/QĐ-TTg ngày 13 tháng 02 năm 2012
của Thủ tướng Chính phủ, 10 trang.
Tài liệu tiếng Anh
Aguilar – Manjarrez, J., and Ross, L.G., 1995.
Geographic information system GIS enviromental
models for aquaculture development in Sinaloa
Sate, Mexico. Aquaculture International, 3(2):
103 – 115.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

APPLICATIONS OF GIS TO DISPLAY DISTRIBUTION, FLUCTUATION
ON SPECIES COMPOSITION AND FISH CATCH IN THE MEKONG
DELTA DURING THE PERIODS OF 2017 – 2019
Huynh Hoang Huy 1*, Nguyen Nguyen Du1

ABSTRACT
A study of fluctuation on fish species composition in the Mekong Delta was implemented from
January to October 2019. GIS and using catch monitoring methodolody were applied at 7 study
stations in 4 provinces that represent the four difference fishing habitats. The aims of study are to
monitor fish catch, to build a map in tern of fish species composition distribution, quantity fluctuation
and fisheries capture production at household level and fishing habitat level. Results showed that
fish species composition was with 178 species, 48 families and 76 orders which distributed at four
fishing habitats. The highest fish capture production was at the esturine area (Cau Quan site) with
27%, and it was the lowest with 4% total of fish catch at the inland area (Vung Liem site). The
number of fish species at sites of mainstream, canal and flooded areas was more diversity than
sites of estuarine and costal such as 113 species compared with 21, respectively. The diversity and
abundance of white fish group were higher than others. Two exotic species were the most popular
occurring as Suckermouth catfish (Pterygoplichthys disjunctivus) and Tilapia (Oreochromis sp.),
which highly occurred in Vam Nao site. This study established a map of GIS displayed on species
composition distribution and fish catch fluctuation, base on utility of GIS tool. Furthermore, this
study can supply useful a reference document for reserve and develop fish resources.
Keywords: Mekong Delta, fluctuation, distribution, GIS, fish catch.
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Tú

Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm


Ngày nhận bài: 28/10/2019

Ngày nhận bài: 28/10/2019

Ngày thông qua phản biện: 25/11/2019

Ngày thông qua phản biện: 26/11/2019

Ngày duyệt đăng: 25/12/2019

Ngày duyệt đăng: 25/12/2019

Research Institute for Aquaculture No.2
* Email:

1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

93



×