Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung bã sữa đậu nành lên men bán rắn đến tăng trưởng và hình thái ruột của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.73 KB, 9 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN BỔ SUNG BÃ SỮA ĐẬU NÀNH LÊN
MEN BÁN RẮN ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ HÌNH THÁI RUỘT CỦA CÁ
RƠ PHI (Oreochromis niloticus)
Nguyễn Thành Trung1*, Nguyễn Văn Nguyện1, Trần Văn Khanh1, Lê Hồng1, Trần Thị Lệ Trinh1,
Đinh Thị Mến1, Nơng Thị Nương1, Huỳnh Thị Thảo Quyên1, Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh2

TÓM TẮT
Xử lý phụ phế phẩm từ nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng bã sữa đậu nành (BSĐN) ở
dạng dễ hấp thu để sử dụng làm thức ăn thủy sản đang được đặc biệt chú trọng. Sản phẩm phụ phẩm
bã sữa đậu nành lên men bán rắn bằng vi khuẩn Bacillus subtilis B3 được sử dụng làm nguyên liệu
thay thế protein bột cá trong công thức thức ăn (CTTA) cá rô phi được đánh giá và kiểm tra ảnh
hưởng lên hệ tiêu hóa của cá. BSĐN lên men được sử dụng thay thế trong CTTA cá rô phi ở các mức
70, 80, 90 và 100% bột cá và thức ăn chứa bột cá (ĐC). Thí nghiệm được thực hiện trong 8 tuần
trong bể composite, 15 con/bể, lặp lại 3 lần cho mỗi nghiệm thức. Đánh giá tăng trưởng, các chỉ số
sinh học như VSI, HSI, GSI và ISI sau khi ni. Kiểm tra hình thái mơ học của ruột qua các chỉ số
chiều dài, độ rộng, mô liên kết và lớp dưới niêm mạc. Kết quả cho thấy cá ở nghiệm thức thay thế
bột cá ở mức 90% tăng 3,6g so với đối chứng sau 8 tuần nuôi. Chỉ số sinh học như VSI tăng cao ở
các thức ăn bổ sung BSĐN, chỉ số HSI và GSI không có sự khác biệt với thức ăn đối chứng và chỉ
số ISI ở nhóm thức ăn thay thế tương đương đối chứng ngoại trừ khi thay thế 100%. Hình thái mô
ruột của các nghiệm thức thay thế bột cá đều tăng cao so với nghiệm thức đối chứng. Kết quả cho
thấy có thể thay thế bột cá bằng BSĐN lên men trong CTTA cá rô phi và không gây ảnh hưởng đến
sự tăng trưởng cá và không ảnh hưởng đến sức khỏe của cá.
Từ khóa: Rơ phi, bã sữa đậu nành lên men bán rắn, nhung mao, hình thái ruột.

I. GIỚI THIỆU
Hiện nay nhu cầu sử dụng đậu nành cho
thực phẩm gia tăng nhanh chóng, các phụ phẩm
từ ngành cơng nghiệp chế biến sữa đậu nành
rất lớn, riêng sản lượng bã sữa đậu nành ở nhà


máy Vinasoy khoảng 1.200 tấn/tháng. Mỗi kg
đậu nành sản xuất sữa có lượng phụ phế phẩm
khoảng 1,1 kg phụ phẩm từ chế biến sữa đậu
nành (O’Toole, 1999).
Các thử nghiệm sử dụng bã sữa đậu nành
(BSĐN) làm thức ăn trên đối tượng ni thủy
sản cịn rất ít. Trên cá rơ phi đơn tính, nhóm tác
giả ở Ai Cập đã thử nghiệm sử dụng trực tiếp
phụ phẩm từ chế biến sữa đậu nành vào khẩu
phần thức ăn có thể thay thế đến 75% bột cá mà
khơng có sự khác biệt về tăng trưởng (El-Saidy,

2011). Một nghiên cứu khác sử dụng phụ phẩm
từ chế biến sữa đậu nành ở mức 10% và 20%
trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng được
thử nghiệm tại Hawaii năm 2010, kết quả tăng
trưởng kém do độ tiêu hóa thức ăn ở mức rất
thấp 18,2% (Forster và ctv., 2010).
Các nghiên cứu tiến hành xử lý nguồn phụ
phẩm này, trong đó việc ứng dụng công nghệ lên
men và thủy phân các nguyên liệu để tạo ra sản
phẩm có giá trị tiêu hóa cao để sử dụng trong
thức ăn thủy sản vẫn chưa được nghiên cứu đầy
đủ. Các phương pháp và chủng loại vi khuẩn
lên men khác nhau trên BSĐN sẽ cho ra các sản
phẩm hữu ích và đặc hiệu khác nhau (Ma và
ctv., 1997). Có rất nhiều chủng vi sinh được sử
dụng để lên men phụ phẩm từ chế biến sữa đậu

Trung tâm Công nghệ thức ăn và Sau thu hoạch thủy sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.

Viện Nghiên cứu Ni trồng Thủy sản II.
*Email:

1
2

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019

79


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

nành tạo ra các sản phẩm đặc thù từ các chủng vi
sinh khác nhau. Sử dụng chủng vi sinh Bacillus
subtilis NB22 để tạo ra kháng sinh lipopeptide,
Iturin A (Ohno và ctv., 1996), chủng NRRL
330+NCIM 653 để tạo ra citric acid (Khare và
ctv., 1995), chủng Aspergillus japonicus MU-2
cho sản phẩm β-fructofuranosidase (Hayashi.
và ctv., 1992), chủng Bacillus subtilis để thu
nhận hợp chất phenolic (Chung và ctv., 2011),
và chủng Flammulina velutipes để thu nhận
sản phẩm polysaccharides (Shi và ctv., 2012).
Nghiên cứu của (Matsuo, 1989) khi lên men
phụ phẩm từ chế biến sữa đậu nành bằng nấm
Rhizopus oligosporus có hàm lượng nitrogen
tan tăng 0,15% lên 0,84%, thêm vào đó acid
amin tự do tăng mạnh từ 0,02% lên 0,41%.
Công nghệ lên men phụ phẩm từ chế biến sữa

đậu nành bán rắn truyền thống, cho thấy tăng
hàm lượng protein từ 22% lên 25%, và các
protein bị cắt thành những mạch peptide nhỏ
hơn (Matsuo, 1997). Nghiên cứu của (Rashad
và ctv., 2011) cho thấy khi lên men phụ phẩm từ
chế biến sữa đậu nành bằng công nghệ bán rắn
với các chủng nấm men cho thấy gia tăng hàm
lượng ni-tơ từ 20 đến 50%.
Kasai và ctv., (2004) đã tiến hành thí nghiệm
tiêu hóa vách tế bào phụ phẩm từ chế biến sữa
đậu nành bằng hỗn hợp enzyme cellulose và
pectinase. Kết quả cho thấy hỗn hợp enzyme
đã tiêu hóa được 83-85% tế bào phụ phẩm từ
chế biến sữa đậu nành thô. Cũng một nghiên
cứu khác của (Kasai và ctv., 2006) cũng chỉ ra
rằng vách tế bào thực vật trong bột đậu nành
bị tiêu hóa hồn tồn bằng enzyme (cellulase
và pectinase) và lượng chất dinh dưỡng (đường
glucose và chất béo) trong tế bào được giải
phóng tăng lên sau mỗi q trình tiêu hóa.
Đậu nành khi lên men với chủng Bacillus
subtilis giảm hàm lượng β-conglycinin, biến
đổi các protein phân tử lớn thành các peptide
nhỏ hơn và làm giảm các yếu tố kháng dinh
dưỡng, thể hiện tác dụng tốt trên lợn và cá hồi

80

vân (Feng và ctv., 2007; Yamamoto và ctv.,
2010). Khi lên men bã đậu nành với vi khuẩn B.

subtilis cho thấy tiêu hóa được cải thiện (Kiers
và ctv., 2000), tăng hàm lượng protein, tăng hoạt
tính oxi hóa, và giảm các tác nhân kháng dinh
dưỡng như trypsin và kháng protein (Teng và
ctv., 2012). Cá hồi khi ăn thức ăn chứa đậu nành
lên men cải thiện hình thái mơ ruột (Yamamoto
và ctv., 2012).
Vi khuẩn Bacillus subtilis B3 sử dụng
trong nghiên cứu này là một chủng vi khuẩn có
khả năng tiết ra enzyme protease, cellulase và
amylase ngoại bào có hoạt tính mạnh, là kết quả
từ dự án “Hoàn thiện và sản xuất thử nghiệm chế
phẩm vi sinh BioShimp-RIA2 phịng bệnh do
Vibrio spp. gây ra trên tơm ni” của do nhóm
nghiên cứu (Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh, 2016),
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II thực
hiện, được sử dụng để lên men bán rắn BSĐN
trong nghiên cứu này. Nguyên liệu BSĐN sau
khi lên men được sử dụng làm thức ăn cho cá rô
phi để đánh giá tăng trưởng, chỉ số sinh học và
hình thái mơ ruột khi thay thế bột cá trong công
thức thức ăn.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu
Nguyên liệu bã sữa đậu nành từ công ty chế
biến sữa Vinasoy Bình Dương đã được lên men
bán rắn với chủng vi khuẩn Bacillus subtilis B3.
Cá rô phi giống được cung cấp bởi trại cá giống
tỉnh Tiền Giang.
2.2. Đánh giá tăng trưởng, các chỉ số sinh

học và hình thái mơ ruột của cá rơ phi
2.2.1. Thức ăn thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trên 5 nghiệm
thức thức ăn gồm thức ăn đối chứng, 4 nghiệm
thức thức ăn BSĐN lên men thay thế 70%, 80%,
90% và 100% bột cá từ cơng thức đối chứng
(Bảng 1).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 1. Thức ăn thay thế bột cá bằng BSĐN lên men
Stt

Nguyên liệu

Đối chứng

70%

80%

90%

100%

1


Bột cá

5,00

1,50

1,00

0,50

0,00

2

Bột gia cầm

2,00

3,00

3,00

3,00

3,00

3

Khơ dầu đậu nành


37,50

37,50

37,50

37,50

37,50

4

Gluten lúa mì

4,00

4,00

4,00

4,00

4,00

5

Cám gạo

20,00


15,85

16,00

16,10

16,25

6

Bột khoai mì

18,59

12,49

11,09

9,75

8,35

7

Bột mì

10,00

10,00


10,00

10,00

10,00

8

Premix-vitamin-Khống

0,50

0,50

0,50

0,50

0,50

9

Dầu cá

2,01

2,12

2,06


2,00

1,94

10

Methionine

0,25

0,25

0,25

0,25

0,25

11

Choline chloride 60%

0,05

0,05

0,05

0,05


0,05

12

Chống mốc

0,10

0,10

0,10

0,10

0,10

13

BSĐN

0,00

12,64

14,45

16,25

18,06


100,00

100,00

100,00

100,00

100,00

Tổng cộng

phi

2.2.2. Ni thử nghiệm tăng trưởng cá rơ

Cá rơ phi có khối lượng 33-40 g/con, nuôi
trong 15 bể composite 500 ml, mật độ 15 con/
bể, nuôi trong 8 tuần. Mỗi bể composite lắp đặt

hệ thống bơm lọc nước và hệ thống sục khí oxy.
Cá được cho ăn 3 lần/ngày vào thời gian: 8 giờ,
12 giờ, 16 giờ, cứ sau mỗi lần ăn khoảng 1 giờ
tiến hành thu thức ăn thừa, pH bể nuôi ln giữ
ổn định khoảng từ 6,5-7,5.

Hình 1. Bố trí thí nghiệm

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019


81


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 1. Bố trí trí thí nghiệm
Sau khi ni đánh giá các chỉ tiêu như sau:
Sau khi nuôi đánh giá các chỉ tiêu như sau:
𝑀𝑀𝑀𝑀

Tăng trọng (WG) (%) = 𝑁𝑁𝑁𝑁 -

𝑀𝑀đ

𝑁𝑁đ

𝑀𝑀𝑀𝑀

𝑀𝑀đ

Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (SGR) =100*(𝐿𝐿𝐿𝐿 𝑁𝑁𝑁𝑁 - Ln 𝑁𝑁đ )/T
𝐼𝐼

Chỉ số chuyển đổi thức ăn (FI) = 𝑀𝑀𝑀𝑀−𝑀𝑀đ−𝑀𝑀𝑀𝑀ℎ
Hệ số hấp thu thức ăn (FCR) =100*I

Tỉ lệ chết (SR) (%)=

𝑁𝑁𝑁𝑁


*100

𝑁𝑁đ

𝑀𝑀đ+𝑀𝑀𝑀𝑀
2.𝑇𝑇

ethanol, 20 mL 37% formaldehyde, 10 mL axit
Trong đó:
Trong đó:
axetic bằng và 30 mL nước cất). Cố định mẫu
Mc

khối
lượng

cuối
khi
thu
(g),

là khối
lượng
cá sang
ban đầu
Mc là khối lượng cá cuối khi thu (g), Mđ là ít nhất
2 giờ,
chuyển
cồn (g),
50%.Mch

Đặt là
bề khối
mặt
khối
lượng

ban
đầu
(g),
Mch

khối
lượng
củalàmẫu
ruột đãcáxử
vàocùng,
đáy khuôn
inox,gian
cố
lượng cá chế t(g), Nđ là số lượng cá ban đầu, Nc
số lượng
cálýcuối
T là thời
cá chế t(g), Nđ là số lượng cá ban đầu, Nc là định bằng parafin. Cắt khối paraffin có chứa
nuôi
(ngày)
số
lượng
cá cá cuối cùng, T là thời gian nuôi mẫu bằng máy cắt Microtome, độ dày lát cắt từ
(ngày) Sau 8 tuần ni, cá được nhịn ăn trong 24

5-6giờ
µm.trước
Sử dụng
Hematoxylin
& Eosin
nhuộm3
khi thu
mẫu. Chọn
ngẫu nhiên
mơ ruột, sau đó đọc kết quả trên kính hiển vi
tuầnnghiệm
ni, cáthức.
đượcXác
nhịnđịnh
ăn trong
conSau
cho8mỗi
trọng24
lượng thân, mẫu ruột được thu và bảo quản trong
giờ trước khi thu mẫu. Chọn ngẫu nhiên 3 con JVC (TK-C1380E). Chiều dài tơ ruột và khoảng
hỗn mỗi
hợp nghiệm
dung dịch
đệmXác
phosphate
7,4 và
fomalin
37%
tỉ lệđược
9:1. xác

Mẫuđịnh
được
bảokết
quản
cách
cáctheo
tơ ruột
theo
quảcho
đo
cho
thức.
định trọng
lượng
thân,
mẫu
thu và
quản
hỗn bằng thước đo trên trắc vi thị kính 10X (nhân
tới khi
sử ruột
dụngđược
để đánh
giábảo
hình
tháitrong
mơ ruột.
hợp dung dịch đệm phosphate 7,4 và fomalin với hệ số 10) và trắc vi thị kính 40X (nhân với
2.2.4. Đánh giá hình thái mơ ruột
2.2.3.theoChỉ

số9:1.
sinh họcđược bảo quản cho tới hệ số 2,525) để chuyển đổi sang đơn vị (µm).
37%
tỉ khi
lệ
Mẫu ruột sau sau
bảo quản,Mẫu
được cố định bằng dung dịch Davidson’s (30 mL 95%
ethanol,
mL 37%
formaldehyde,
mL
axetic
bằng
30 mLruột.
nước cất). Cố định mẫutạng/Wcá;
khi20sử
dụng
để đánh
giáaxit
hình
tháivàgồm

Đo
các
chỉ10 số
nội
tạng,
(VSI)=Wnội
số gan

chỉ
Với trắc chỉ
vi thị
kính(HSI)=Wgan/Wcá;
10X, các chỉ số được
ít nhất 2 giờ, chuyển sang cồn 50%. Đặt bề mặt của mẫu ruột đã xử lý vào đáy khuôn inox, cố
đánh giá đo chiều cao của niêm mạc (CNM) ở
2.2.3.
Chỉ
số sinh học
số túi
mật
(GSI)=Wmật/
vàcắtchỉ
số ruột
trong đó, W là trọng lượng.
định bằng
parafin.
Cắt khối
paraffin có chứa mẫuWcá
bằng máy
Microtome,
độ dày(ISI)=Wruột/Wcá,
lát cắt từ
3 vị trí cao nhất, thấp nhất và trung bình. Với
các chỉ &sốEosin
nội
tạng,
gồm
5-6 µm. Sử Đo

dụng Hematoxylin
nhuộm
mơ ruột,
sau đó(VSI)=Wnội
đọc kết quả trên kính hiển vi
trắc vi thị kính 40X, đo độ rộng của niêm mạc
JVC tạng/Wcá;
(TK-C1380E). Chiều
dài tơ
và khoảng
cách các tơ ruột được xác địnhchỉ
theo kết quả
chỉ
sốruộtgan
(HSI)=Wgan/Wcá;
đo bằng thước đo trên trắc vi thị kính 10X (nhân với hệ số 10) và trắc vi thị kính 40X (nhân
số túi mật (GSI)=Wmật/ Wcá và chỉ số ruột (RNM) ruột ở vị trí giữa của niêm mạc; mơ liên
với hệ số 2,525) để chuyển đổi sang đơn vị (m).
kết ở vị trí giữa niêm mạc (MLK) và lớp dưới
(ISI)=Wruột/Wcá,
trong đó, W là trọng lượng.
Với trắc vi thị kính 10X, các chỉ số được đánh giá đo chiều cao của niêm mạc (CNM) 4
niêm mạc và cơ ngoài (DNM). Số liệu được
ở 3 vị trí cao2.2.4.
nhất, thấpĐánh
nhất và trung
Với trắc
vi thịmơ
kính 40X,
đo độ rộng của niêm mạc

giábình.
hình
thái
ruột
đánh giá so sánh theo thống kê Duncan bởi phần
(RNM) ruột ở vị trí giữa của niêm mạc; mơ liên kết ở vị trí giữa niêm mạc (MLK) và lớp dưới
Mẫu
ruột
sau
sau
khi
bảo
quản,
được
cố
mềm SPSS ver.18.
niêm mạc và cơ ngoài (DNM). Số liệu được đánh giá so sánh theo thống kê Duncan bởi phần
bằng dung dịch Davidson’s (30 mL 95%
mềmđịnh
SPSS ver.18.

RNM
CNM

CNM: Chiều cao niêm mạc
RNM: Chiều rộng niêm mạc

MLK

MLK: Mô liên kết (Lamina propria)

DNM: Lớp dưới niêm mạc và cơ ngồi

DNM

Hình 2. Các vị trí đo trên mơ ruột
Hình 2.
Các vị trí đo trên mơ ruột

CNM: Chiều cao niêm mạc

RNM: Chiều rộng niêm mạc

82
MLK: Mô liên kết (Lamina propria)
DNM: Lớp dưới niêm mạc và cơ ngồi
III.

KẾT QUẢ

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

3.1.1. Thành phần dinh dưỡng trong công
thức thức ăn của cá rô phi.

III. KẾT QUẢ
3.1. Kết quả tăng trưởng, các chỉ số sinh
và hình thái mơ ruột sau


Bảng 2. Thành phần dinh dưỡng thức ăn cá rô phi (VCK) (%)
Thức ăn
ĐC
70%
80%
90%
100%

Ẩm (%)
7,15
6,75
6,87
6,83
6,75

Lipid thô (%)
6,65 ± 0,67
7,04 ± 0,29
7,49 ± 0,12
6,99 ± 0,98
7,8 ± 0,53

Protein thô (%)
33,06 ± 0,29
33,58 ± 0,39
34,41 ± 0,14
32,72 ± 0,28
33,27 ± 0,32


Xơ (%)
6,36
7,08
6,02
6,65
7,49

khơng có khác biệt nhiều. Các thức ăn đạt tiêu
chuẩn về hàm lượng dinh dưỡng cho thức ăn cá
rơ phi theo TCVN.

Kết quả thành phần phần hóa học của thức
ăn cá rô phi trong Bảng 2 cho thấy hàm lượng
protein, lipid của các nghiệm thức thức thức ăn
3.1.2. Tăng trưởng của cá rô phi.

Bảng 3. Kết quả tăng trưởng của cá rô phi ở các nghiệm thức thức ăn
Chỉ số
Trọng lượng đầu (g)
Trọng lượng cuối (g)
Tăng trọng (g)
SGR
FCR
FI (g)
SR (%)

ĐC
34,5 ± 0,95
69,26±4,51
34,76±3,58

1,34 ± 0,07
1,63 ± 0,04
2,23 ± 0,03
93,33±6,65

70%
34,5 ± 0,7
67,31±2,13
32,8 ± 1,40
1,28 ± 0,02
1,71 ± 0,11
2,26 ± 0,03
91,1 ± 3,81

Các chỉ số tăng trưởng của cá rô phi trên
các nghiệm thức thức ăn sau 8 tuần nuôi ở
Bảng 3 cho thấy khơng có sự khác biệt đáng kể
(p≥0,05). Tuy nhiên, ở thức ăn thay thế 90% cho
thấy tăng trọng cao nhất (tăng 3,6 g so với thức
ăn ĐC), ở nghiệm thức 100% cao hơn không
đáng kể 1,34 g so với nghiệm thức đối chứng,
trong khi đó nghiệm thức 70% và 80% thấp hơn

80%
34,97 ± 1,00
67,05±6,11
32,06 ±5,38
1,24 ± 0,14
1,71 ± 0,21
2,26 ± 0,04

100

90%
34,7 ± 0,56
72,78 ± 7,53
38,36 ± 7,29
1,44 ± 0,19
1,67 ± 0,13
2,4 ± 0,07
93,33±11,55

100%
35,3 ± 0,26
71,42±13,66
36,1 ± 13,41
1,33 ± 0,37
1,7 ± 0,40
2,33 ± 0,17
86,67±13,35

không đáng kể so với nghiệm thức đối chứng.
Hệ số tăng trưởng đặc biệt (SGR) có kết quả
tương tự như ở chỉ số tăng trưởng. Hệ số chuyển
đổi thức ăn (FCR) ở các nghiệm thức ăn thay
thế cao hơn so với thức ăn đối chứng, trong đó
nghiệm thức 90% thấp nhất khi thay thế bột cá
ở các nghiệm thức thức ăn.

3.1.3. Chỉ số sinh học
Bảng 4. Chỉ số nội tạng, gan, mật và ruột trên cá rô phi ở các nghiệm thức thức ăn

Chỉ số
VSI
HSI
GSI
ISI

ĐC
0,087±0,002
0,020 ±0,003
0,005 ± 0,000
0,025±0,003

70%
0,09±0,008
0,02 ± 0,002
0,005±0,001
0,023±0,004

80%
0,096 ±0,012
0,019±0,004
0,004±0,001
0,023±0,010

90%
0,088±0,003
0,02 ± 0,003
0,005±0,002
0,024±0,005


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019

100%
0,089±0,007
0,022±0,002
0,005±0,001
0,029±0,003

83


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Các chỉ số sinh học của cá rô phi sau khi ăn
thức ăn thay thế bột cá được thể hiện ở Bảng 4.
Nhìn chung, chỉ số nội tạng VSI, cũng cho thấy
có khuynh hướng cao hơn thức ăn đối chứng,
tuy nhiên ở thức ăn thay thế 70% và 80% có
chỉ số cao hơn khi thay thế 90% và 100% bột
cá. Riêng các chỉ số như chỉ số gan HSI và chỉ

số mật GSI lại cho thấy khơng có nhiều sự khác
biệt giữa các nghiệm thức với nhau. Đặc biệt,
chỉ số ruột ISI gia tăng tương ứng theo mức thay
thế của BSĐN lên men trong công thức thức ăn
và khi thay thế đến mức 100% bột cá chỉ số này
gia tăng khá cao (0,029) so với thức ăn chứa bột
cá (0,025).

3.1.4. Hình thái mơ ruột sau

Bảng 5. Hình thái mơ học ruột sau của cá rô phi
CNM
RNM
MLK
DNM
a
a
a
ĐC
157,92±50,56
40,93±13,32
19,88±7,19
27,33±10,96a
70%
177,78±74,28a
70,51±19,44b
22,54±9,78ab
31,89±8,5ab
80%
203,7±96,24a
74,7±31,2b
29,46±16,89c
34,65±12,55b
90%
183,96±76,57ab
68,39±32,4b
23,88±7,1abc
26,15±8,95a
100%
250,37±116,27a

76,5±29,11b
27,4±9,26bc
29,04±10,00ab
Các ký hiệu cùng cột khác nhau thể hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Hình thái mô ruột được so sánh ở 4 thông
số gồm chiều cao, độ rộng niêm mạc ruột, mô
liên kết của niêm mạc và lớp dưới niêm mạc
cùng cơ ngoài được đo ở Bảng 5 của các nghiệm
thức thức ăn thay thế bột cá trên cá rơ phi, nhìn
chung, các chỉ số này ở nghiệm thức thức ăn
90% có sự tương đồng với thức ăn đối chứng
(ĐC). Chiều cao của niêm mạc ruột bắt đầu
khác biệt khi thay thế mức 90% bột cá ở thức
ăn đối chứng (P<0,05), cao nhất ở nghiệm thức
BSĐN lên men. Độ rộng của niêm mạc cá rơ phi
tăng mạnh và có khác biệt đáng kể khi thay thế
BSĐN lên men ở mức 70%, tương tự như chiều
dài, độ rộng niêm mạc lớn nhất ở nghiệm thức
100%. Mô liên kết ở các nghiệm thức thay thế
BSĐN gia tăng độ rộng, ở nghiệm thức 80% và
100% có khác biệt đáng kể so với nghiệm thức
đối chứng. Lớp dưới niêm mạc và cơ ngoài cho
thấy ở nghiệm thức 90% tương đương đối với
nghiệm thức thức ăn đối chứng và thấp hơn so
với các nghiệm thức thức ăn còn lại.
IV. THẢO LUẬN
Tăng trưởng của cá rơ phi, có thể thay thế
BSĐN lên men đến mức 90 % bột cá so với
thức ăn đối chứng. Các chỉ số về tăng trọng,
tăng trưởng đặc biệt, hệ số thức ăn hay tỷ lệ

sống ở nghiệm thức 90% cao hơn thức ăn đối
chứng. Điều này chứng tỏ protein của nguyên
84

liệu BSĐN lên men có độ hấp thu tốt đối với
cá rô phi ở mức từ 90%, có thể do vi khuẩn từ
nguyên liệu này đã thủy phân tốt vách tế bào và
protein thành những mạch ở mức này đủ khả
năng giúp hấp thu khi so với mức 70% hay 80%,
tuy nhiên khi tăng đến mức 100% làm chậm
lại sự phát triển của cá do hàm lượng xơ cao
(7,49%) so với (6,36%) của thức ăn đối chứng
chứa bột cá. Việc sử dụng BSĐN lên men khơng
có khác biệt khi thay thế bột cá bởi vì BSĐN
sau khi lên men có khả năng gia tăng các chất
dinh dưỡng do việc gia tăng protein (Shiu và
ctv., 2015b; Nguyễn Thành Trung và ctv., 2018)
và hàm lượng các mạch peptide nhỏ hơn nhờ
các enzyme ngoại bào thủy phân (Kasai và ctv.,
2004). Ngồi ra, việc lên men BSĐN có tăng
trưởng tốt trên cá chẽm miệng rộng khi thay thế
đến 40g/kg khô đậu nành trong công thức thức
ăn (Jiang và ctv., 2018).
Khi gia tăng thay thế bằng BSĐN lên men,
các chỉ số sinh học như VSI tăng cao, điều này
có thể do việc chuyển hóa dinh dưỡng được tích
lũy vào nội tạng. Một điều đáng chú ý ở chỉ số
gan HSI và mật GSI, chỉ số này giống nhau ở
tất cả các nghiệm thức thức ăn, cho thấy rằng
BSĐN lên men đã không ảnh hưởng đến các

chỉ số gan và mật ở cá rơ phi. Ngồi ra, ở một
nghiên cứu (Jiang và ctv., 2018) thay thế BSĐN

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

lên men trên cá chẽm miệng rộng, cho thấy
các chỉ số VSI và HSI khi thay thế hàm lượng
cao sẽ giảm hai chỉ số này. Nghiên cứu trên cá
hồi vân (Barnes và ctv., 2014) cho thấy khi gia
tăng mức thay thế đậu nành lên men đến mức
50% sẽ cho thấy các chỉ số về nội tạng (VSI) và
gan (HSI) giảm rõ rệt. Nguyên nhân các chỉ số
ruột và gan ở các nghiệm thức BSĐN thay thế
khơng khác biệt với đối chứng, có thể do đậu
nành lên men đã cải thiện được dinh dưỡng và
giảm được kháng protein như α’-conglycinin,
α-conglycinin và β-conglycinin trong bã sữa
đậu nành. Kết quả này cũng cho thấy tương tự
như ở nghiên cứu ở cá mú (Shiu và ctv., 2015a)
khi sử dụng nguyên liệu đậu nành thay thế bột
cá cải thiện hình thái gan và ruột. Ở chỉ số ruột
lại cho thấy ảnh hưởng của BSĐN lên men lên
chỉ số ruột ở nghiệm thức 90% và 100% BSĐN
lên men, sự gia tăng chỉ số ruột này cho thấy sự
hấp thu và ảnh hưởng lên cá rô phi ở nguyên
liệu này, việc gia tăng chỉ số ruột có thể do sự
hấp thu tốt các chất dinh dưỡng do đã được thủy

phân, chỉ số này phù hợp với hình thái mơ của
chiều cao (CNM) và độ rộng niêm mạc ruột
(RNM) gia tăng so với đối chứng ở Bảng 5.
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của
(Krogdahl và ctv., 2015) cho thấy khi hấp thu
cao, chỉ số ruột gia tăng.
Ở hình thái mô ruột, như trên đã đề cập,
chiều dài (DNM) và độ rộng (RNM) của thức ăn
bổ sung BSĐN cho thấy gia tăng độ cao và độ
dày ở cá rô phi. Và tương tự cũng quan sát được
mô liên kết và lớp dưới niêm mạc cũng gia tăng,
tuy nhiên duy nhất ở thức ăn 90% có lớp dưới
niêm mạc thấp hơn đối chứng. Độ dài của các
niêm mạc gia tăng theo giải thích của (Escaffre
và ctv., 2007) là do sự thay đổi khả năng hấp
thụ của tế bào ruột ở mức niêm mạc. Cũng theo
nghiên cứu (Yamamoto và ctv., 2010) về hình
thái ruột ở cá hồi vân khi ăn đậu nành lên men,
cho thấy hình thái mơ ruột khơng gây ra bất kỳ
sự thay đổi nào.
Kết quả này cho thấy rằng nguyên liệu bã
sữa đậu nành lên men có thể thay thế bột cá
trong công thức thức ăn cá rô phi ở mức 90% mà

khơng có ảnh hưởng đến sức khỏe của cá ni.
Có thể được xem đây là một nguồn nguyên liệu
trong thức ăn cho cá rô phi trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Nguyện, Trần

Văn Khanh, Lê Hoàng, Đinh Thị Mến, Nguyễn
Thị Thu Hiền, Trần Thị Hồng Ngọc, Lê Thị Ngọc
Bích, Võ Thị Cẩm Tiên và Nguyễn Thị Ngọc
Tĩnh, 2018. Tối ưu hố điều kiện lên men khơ
đậu nành và đánh giá hình thái học mơ ruột khi
sử dụng để thay thế bột cá ở thức ăn tôm thẻ
chân trắng (Litopenaeus vannamei). Journal of
Mekong fisheries. 11, 43-58.
Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh, 2016. Đề tài: Hoàn thiện và
sản xuất thử nghiệm chế phẩm vi sinh BioShrimpRIA2 phòng bệnh do Vibrio spp. gây ra trên tôm
nuôi. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Tài liệu tiếng Anh
Barnes, M.E., Brown, M.L., Bruce, T., Sindelar,
S. và Neiger, R., 2014. Rainbow Trout Rearing
Performance, Intestinal Morphology, and
Immune Response after Long-term Feeding of
High Levels of Fermented Soybean Meal. North
American Journal of Aquaculture. 76, 333-345.
Chung, I.M., Seo, S.H., Ahn, J.K. và Kim, S.H.,
2011. Effect of processing, fermentation, and
aging treatment to content and profile of phenolic
compounds in soybean seed, soy curd and soy
paste. Food chemistry. 127, 960-967.
El-Saidy, D.M.S.D., 2011. Effect of using okara
meal, a by-product from soymilk production
as a dietary protein source for Nile tilapia
(Oreochromis niloticus L.) mono-sex males.
Aquaculture Nutrition. 17, 380-386.
Escaffre, A.-M., Kaushik, S. và Mambrini, M.,
2007. Morphometric evaluation of changes in the

digestive tract of rainbow trout (Oncorhynchus
mykiss) due to fish meal replacement with soy
protein concentrate. Aquaculture. 273, 127-138.
Feng, J., Liu, X., Xu, Z.R., Lu, Y.P. và Liu,
Y.Y., 2007. The effect of Aspergillus oryzae
fermented soybean meal on growth performance,
digestibility of dietary components and activities
of intestinal enzymes in weaned piglets. Animal
Feed Science and Technology. 134, 295-303.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019

85


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Forster, I.P., Dominy, W.G., Conquest, L.D., Ju, Z.Y.
và Grey, M., 2010. Use of agriculture byproducts
in diets for pacific white shrimp Litopenaeus
vannamei. Avances en Nutrición Accola X Memorias del Décimo Simposio Internacional
de Nutrición Accola, 8-10 de Noviembre,
San Nicolás de los Garza, N. L., México. ISBN
978-607-433-546-0. Universidad Autónoma de
Nuevo León, Monterrey, México., 366-392.
Hayashi., S., Matsuzaki., K., Kawahara., T., Takasaki.,
Y. và Imada., K., 1992. Utilisation of soybean
residue for the production of β-fructofuranosidase.
Bioresource Technology. 41, 231-233.
Jiang, Y., Zhao, P.F., Lin, S.M., Tang, R.J., Chen, Y.J.
và Luo, L., 2018. Partial substitution of soybean

meal with fermented soybean residue in diets for
juvenile largemouth bass, Micropterus salmoides.
Aquaculture Nutrition. 24, 1213-1222.
Kasai, N., Konishi, A., Iwai, K. và Maeda, G., 2006.
Efficient Digestion and Structural Characteristics of
Cell Walls of Coffee Beans. J. Agric. Food Chem. 54.
Kasai, N., Murata, A., Inui, H., Sakamoto, T. và Kahn,
R.I., 2004. Enzymatic High Digestion of Soybean
Milk Residue (Okara). J. Agric. Food Chem. 52,
5709-5716.
Khare, S., Jha, K. và Gandhi, A., 1995. Citric Acid
Production from Okara (soy-residue) by Solid-state
Fermentation. Bioresource Technology. 54 323325.
Kiers, J.L., laeken, A.E.A.V., Rombouts, F.M. và
Nout, M.J.R., 2000. In vitro digestibility of
Bacillus fermented soya bean. International
Journal of Food Microbiology. 60, 163-169.
Krogdahl, A., Gajardo, K., Kortner, T.M., Penn, M.,
Gu, M., Berge, G.M. và Bakke, A.M., 2015. Soya
Saponins Induce Enteritis in Atlantic Salmon
(Salmo salar L.). Journal of agricultural and food
chemistry. 63, 3887-3902.
Ma, C.-Y., Liu, W.-S., Kwok, K.C. và Kwok, F.,
1997. Isolation and characterization of proteins
from soymilk residue (okara) Food Research
International. 29, 799-805.
Matsuo,
M.,
1989.
Morphological

and
Physicochemical Properties and Composition of
“Okara” Fermented with Rhizopus oligosporus.
Nippon Eiyo Shokuryo Gakkaishi. 42, 173-178.
Matsuo, M., 1997. Preparation and Components
of Okara-ontjom, a Traditional Indonesian
Fermented Food. Nippon Shokuhin Kagaku

86

Kogaku Kaishi. 44, 632-639.
O’Toole, D.K., 1999. Characteristics and Use of
Okara, the Soybean Residue from SoyMilk
ProductionsA Review. J. Agric. Food Chem. 47,
363−371.
Ohno, A., Ano, T. và Shoda, M., 1996. Use of soybean
curd residue, okara, for the solid state substrate in
the production of a lipopeptide antibiotic, iturin A,
by Bacillus subtilis NB22. Process Biochemistry.
31, 801-806.
Rashad, M.M., Mahmoud, E.A., Abdou, M.H. và
Nooman, U.M., 2011. Improvement of nutritional
quality and antioxidant activities of yeast
fermented soybean curd residue. African Journal
of Biotechnology. 10, 5750-5759.
Shi, M., Yang, Y., Guan, D., Zhang, Y. và Zhang, Z.,
2012. Bioactivity of the crude polysaccharides
from fermented soybean curd residue by
Flammulina velutipes. Carbohydrate polymers.
89, 1268-1276.

Shiu, Y.-L., Hsieh, S.-L., Guei, W.-C., Tsai, Y.-T.,
Chiu, C.-H. và Liu, C.-H., 2015a. UsingBacillus
subtilisE20-fermented
soybean
meal
as
replacement for fish meal in the diet of orangespotted grouper (Epinephelus coioides, Hamilton).
Aquaculture Research. 46, 1403-1416.
Shiu, Y.-L., Wong, S.-L., Guei, W.-C., Shin, Y.-C. và
Liu, C.-H., 2015b. Increase in the plant protein
ratio in the diet of white shrimp,Litopenaeus
vannamei (Boone), using Bacillus subtilis E20fermented soybean meal as a replacement.
Aquaculture Research. 46, 382-394.
Teng, D., Gao, M., Yang, Y., Liu, B., Tian, Z. và Wang,
J., 2012. Bio-modification of soybean meal with
Bacillus subtilis or Aspergillus oryzae. Biocatalysis
and Agricultural Biotechnology. 1, 32-38.
Yamamoto, T., Iwashita, Y., Matsunari, H., Sugita,
T., Furuita, H., Akimoto, A., Okamatsu, K. và
Suzuki, N., 2010. Influence of fermentation
conditions for soybean meal in a non-fish meal
diet on the growth performance and physiological
condition of rainbow trout Oncorhynchus mykiss.
Aquaculture. 309, 173-180.
Yamamoto, T., Matsunari, H., Sugita, T., Furuita, H.,
Masumoto, T., Iwashita, Y., Amano, S. và Suzuki,
N., 2012. Optimization of the supplemental essential
amino acids to a fish meal-free diet based on fermented
soybean meal for rainbow trout Oncorhynchus
mykiss. Fisheries Science. 78, 359-366.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

EFFECT OF FERMENTED SOY MILK RESIDUES
SUPPLEMENTATION ON GROWTH PERFOMANCE AND DISTAL
INTESTINE MORPHOLOGY IN TILAPIA
Nguyen Thanh Trung1*, Nguyen Van Nguyen1, Tran Van Khanh1, Le Hoang1, Tran Thi Le Trinh1,
Dinh Thi Men1, Nong Thi Nuong1, Huynh Thi Thao Quyen1, Nguyen Thi Ngoc Tinh2
ABSTRACT
Recently, by-products from the soybean milk industry are in high abundance and are directly used
as raw ingredient. Solid-state fermented soybean curd residue (FSCR) by Bacillus subtilis B3 was
employed in this study to substitute fish meal in tipalia diet. Tilapia’s distal intestine morphology
was observed following fish meal substitution. Among five diets used in this study, four diets with
fish meal replaced at 70, 80, 90 and 100% by FSCR and a control diet without fishmeal replacement.
Experiment was conducted in composite tanks in triplicate, with 15 fish/tank. After 8 weeks, three
fish were taken from each tank to evaluate growth rate, viscera (VSI), hepato (HSI), gallbladder
(GSI) and intestine (ISI) somatic indeces as well as intestine morphology. The results showed that
fish growth rate in the 90% FSCR replacing diets was higher than that in the control diet. In terms
of biological parameters, VSI was higher in FSCR diets compared to control diet. There was no
difference among experimental diets for HSI and GSI. Similar results were observed in ISI value
as compared to control diets except 100% FSCR replacing diet. In conclusion, fish meal can be
subtituted by solid-state fermented soybean curd residue in tilapia diet without any effect on fish
growth performance and intestine morphology.
Keywords: intestine morphology, solid-state fermented soybean curd residue, tilapia
Người phản biện: TS. Trương Hà Phương
Ngày nhận bài: 18/5/2019
Ngày thông qua phản biện: 20/6/2019

Ngày duyệt đăng: 26/6/2019

Research Center for Aqua-Feed Nutrition and Fishery Post-Harvest Technology, Research Institute for Aquaculture No.2
Research Institute for Aquaculture No.2
*Email:

1

2

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019

87



×