Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

(Luận án tiến sĩ) đạo đức doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 159 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC X HI & NHN VN

---------------------------

Vế TH DNG

ĐạO ĐứC DOANH NHÂN TRONG NềN KINH Tế THị TRƯờNG
ĐịNH HƯớNG XÃ HộI CHủ NGHÜA ë VIÖT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC X HI & NHN VN

---------------------------

Vế TH DNG

ĐạO ĐứC DOANH NHÂN TRONG NềN KINH Tế THị TRƯờNG
ĐịNH HƯớNG XÃ HộI CHủ NGHÜA ë VIÖT NAM

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số:

62.22.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số
liệu được sử dụng trong luận án có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết
luận rút ra trong luận án là kết quả tìm tịi, nghiên cứu nghiêm túc của bản
thân tác giả luận án.

Tác giả luận án

Võ Thị Dương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................................... 8
1.1. Nghiên cứu về doanh nhân và đạo đức doanh nhân, chuẩn mực đạo đức
doanh nhân ........................................................................................................ 8
1.2. Nghiên cứu về sự tác động của kinh tế thị trường và thực trạng đạo đức
doanh nhân ở nước ta hiện nay ....................................................................... 20
1.3. Nghiên cứu về những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức doanh nhân ở
nước ta hiện nay .............................................................................................. 26
Chƣơng 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC DOANH NHÂN . 35
2.1. Đạo đức doanh nhân................................................................................. 35
2.2. Nâng cao đạo đức doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN Việt Nam. ............................................................................................ 63

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC DOANH NHÂN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ..................................................................................................... 73
3.1. Thực trạng đạo đức doanh nhân trong nền kinh tế thị trưởng ở Việt Nam
hiện nay - Những biểu hiện tích cực và tiêu cực............................................. 73
3.2. Thực trạng đạo đức doanh nhân trên các mối quan hệ chính .................. 91
Chƣơng 4. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC
DOANH NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................................. 110
4.1. Những giải pháp từ phía Đảng và Nhà nước ......................................... 110
4.2. Những giải pháp từ phía cộng đồng xã hội ............................................ 125
4.3. Những giải pháp cụ thể từ đội ngũ doanh nhân ..................................... 138
KẾT LUẬN .................................................................................................. 143
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

1


ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................... 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 147

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

Ban chấp hành

CNH, HĐH


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

KHXH

Khoa học xã hội

KHXHVN

Khoa học xã hội Việt Nam

KTQD

Kinh tế quốc dân

KTTT

Kinh tế thị trường

NXB

Nhà xuất bản


TNXH

Trách nhiệm xã hội

TW

Trung ương

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nhân là một tầng lớp xã hội được hình thành khi Việt Nam phát
triển nền kinh tế thị trường.Từ khi xuất hiện cho đến nay, đội ngũ doanh nhân
Việt Nam đã và đang đóng góp rất nhiều cho xã hội, họ xứng đáng được tôn
vinh trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Song, chính nền kinh tế thị trường cũng làm xuất hiện tính hai mặt về đạo đức
của doanh nhân, bởi đặc trưng lớn nhất của thị trường là lợi nhuận, là cạnh
tranh. Khi doanh nhân tham gia vào thị trường để kiếm lợi nhuận, muốn kiếm
lợi nhuận thì họ phải cạnh tranh, muốn cạnh tranh không phải lúc nào họ cũng
đảm bảo yêu cầu của đạo đức xã hội. Trong thương trường, một doanh nhân
muốn tồn tại được không những phải thật khôn ngoan mà cịn phải có nghệ
thuật kinh doanh.
Ở Việt Nam hiện nay, tầng lớp doanh nhân ngày càng đông đảo, hoạt
động kinh doanh ngày càng phát triển, doanh nhân đã mang lại sự lành mạnh

về đạo đức xã hội. Nhưng với đồng tiền của mình, với vị thế đặc biệt của
mình, doanh nhân có thể làm khuynh đảo đạo đức xã hội. Với thực tế đó, đạo
đức doanh nhân là vấn đề thường xuyên được quan tâm nghiên cứu khi đất
nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nghiên cứu
vấn đề đạo đức doanh nhân trong kinh doanh nhằm mục tiêu xây dựng đội
ngũ doanh nhân có đủ đức và tài – nguồn lực quan trọng để đảm bảo xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Sự quan tâm càng được chú ý hơn khi đất
nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nước ta từ khi tiến hành đổi mới đến nay đã đạt được nhiều thành tựu,
nền kinh tế dần dần phục hồi và tăng trưởng, đời sống nhân dân được cải
4


thiện. Các chính sách kinh tế - xã hội cùng với cơ chế mới đã tạo điều kiện
cho con người Việt Nam trong đó có doanh nhân phát huy mọi năng lực vào
quá trình sản xuất trao đổi. Nhờ vậy, vị thế kinh tế của nước ta trên trường quốc
tế được nâng cao. Những thắng lợi đó đã khẳng định sự nghiệp đổi mới là cần
thiết và đúng hướng. Tuy nhiên, việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị
trường đã dẫn đến những biến đổi trong đời sống xã hội, xuất hiện càng nhiều
hiện tượng phản đạo đức, phi nhân tính. Cụ thể là trong lĩnh vực kinh doanh
đã xảy ra những hành vi trái đạo đức (như làm hàng giả, gian lận, trốn thuế,
bóc lột quá mức sức lao động của người làm công, khai thác bừa bãi nguồn tài
nguyên, gây ô nhiễm môi trường, xem thường trách nhiệm xã hội,v.v..) điều
đó gây thiệt hại khơng nhỏ cho nền kinh tế, cản trở tiến trình đổi mới, xây
dựng đất nước, đang trở thành mối quan ngại của cả cộng đồng.
Trong những năm qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về sự biến đổi
của đạo đức, đạo đức kinh doanh, đạo đức doanh nhân trong điều kiện nền
kinh tế thị trường. Các cơng trình đó đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau
về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đức, kinh tế thi trường và đạo

đức doanh nhân, đồng thời cảnh báo nguy cơ đạo đức, đạo đức doanh nhân bị
xói mịn dưới tác động của đồng tiền, đề xuất các biện pháp nhằm bảo vệ, duy
trì các chuẩn mực đạo đức truyền thống, nâng cao đạo đức doanh nhân. Tuy
nhiên, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào thực sự đi sâu vào đạo đức
doanh nhân trong nền kinh tế thị trường ở nước ta một cách có hệ thống.
Trước tình hình đó, việc thực hiện đề tài “Đạo đức doanh nhân trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” khơng những có
ý nghĩa về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa thực tiễn nhằm góp phần khẳng
định và hồn thiện một nền kinh tế thị trường có điều tiết và có định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

5


2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Luận án làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đạo đức doanh nhân
ở Việt Nam, nhằm đưa ra những giải pháp để nâng cao hơn nữa đạo đức
doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất: Phân tích một số vấn đề lý luận về đạo đức doanh nhân và sự
cần thiết phải nâng cao đạo đức doanh nhân trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai: Phân tích thực trạng của đạo đức doanh nhân trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba: Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức doanh
nhân ở nước ta hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo
đức, đạo đức doanh nhân.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là các phương pháp
chung của khoa học xã hội: phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh,
trừu tượng hóa, khái quát hóa…
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là đạo đức doanh nhân trong hoạt
động kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án: nghiên cứu đạo đức doanh nhân trong
giai đoạn từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay.

6


5. Những đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm rõ thêm hệ thống giá trị của đạo đức doanh nhân trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Góp phần làm rõ thực trạng của đạo đức doanh nhân trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
- Đóng góp những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức doanh nhân
hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận
Luận án nghiên cứu sâu hơn tồn diện hơn bản chất đạo đức doanh nhân
thơng qua việc xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức doanh nhân trong nền
kinh tế thị trường. Đồng thời luận án đánh giá một cách toàn diện thực trạng
của đạo đức doanh nhân, từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa
đạo đức doanh nhân ở Việt Nam hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn
Với những kết quả đã đạt được, luận án có thể dùng làm tài liệu cho việc

giảng dạy, học tập, nghiên cứu trong lĩnh vực đạo đức và kinh tế thị trường.
Luận án cịn có ý nghĩa góp phần vào việc nâng cao đạo đức doanh nhân ở
nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án được chia thành 4 chương, 10 tiết

7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Sự tác động của nền kinh tế thị trường mà nước ta thực hiện gần 30 năm
qua đã làm cho đời sống xã hội có nhiều biến đổi, trong đó có đạo đức. Chính
vì vậy, vấn đề về sự biến đổi đạo đức từ khi nước ta thực hiện công cuộc đổi
mới đã và đang lôi cuốn sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, là đối tượng
của nhiều công trình khoa học thuộc các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Đạo
đức doanh nhân (là cách gọi tắt của đạo đức doanh nhân trong kinh doanh)
cũng có được sự quan tâm như vậy.
1.1. Nghiên cứu về doanh nhân, đạo đức doanh nhân, chuẩn mực đạo đức
doanh nhân
1.1.1. Những nghiên cứu về doanh nhân, đạo đức doanh nhân
Doanh nhân và đạo đức doanh nhân không phải là một vấn đề mới xuất
hiện trong thế giới hiện nay, mà những tư tưởng của nó đã có từ rất lâu trong
lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Những nghiên cứu về doanh nhân: Trong cuốn bài giảng: “Văn hóa kinh
doanh”, tác giả Dương Thị Liễu đã làm rõ lịch sử ra đời của doanh nhân, bản
chất doanh nhân, phong cách doanh nhân. Trong lịch sử ra đời của doanh
nhân, tác giả cho rằng: Khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, phân công lao

động chưa phát triển, trao đổi sản phẩm mới chỉ là bột phát do nhu cầu sinh
tồn của các thành viên trong thị tộc, bộ lạc và nguyên tắc cùng làm cùng
hưởng vẫn được mọi người thực hiện một cách tự nhiên thì doanh nhân chưa
xuất hiện.
Cũng theo tác giả Dương Thị Liễu: chữ doanh nhân trong tiếng Việt dịch
ra tiếng Anh là businessman, đó là người chủ doanh nghiệp. Trong lịch sử, từ
8


businessman xuất hiện khá sớm trên thế giới. Năm 1700, Richard Cantitlon đã
xây dựng lý thuyết doanh nghiệp, theo ông, kinh doanh là hoạt động chứa
đựng nhiều rủi ro. Vì thế, chủ doanh nghiệp/doanh nhân là những người
thường đối mặt với rủi ro và phải biết chấp nhận rủi ro ấy. Do đặc điểm phát
triển kinh tế của mình, trong quan niệm của các nước phương Đông, doanh
nhân chủ yếu vẫn là các thương gia, thương nhân – những người hoạt động
trong lĩnh vực buôn bán.
Theo nghiên cứu của tác giả Dương Thị Liễu, đến thế kỷ 20, nhận thức
về doanh nhân có nhiều thay đổi. Doanh nhân hay chủ doanh nghiệp thường
được xem như là những người tổ chức và điều hành một doanh nghiệp, thực
hiện các hoạt động kinh doanh để kiếm lời. Với sự phát triển không ngừng
của hoạt động kinh doanh, doanh nhân được thừa nhận là tầng lớp thường
xuyên đóng góp phần sáng kiến, kỹ năng và sự khéo léo trong việc hoạch
định, tổ chức và quản trị doanh nghiệp.
Trong cuốn “Nhân cách doanh nhân và văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế” của tập thể nhiều tác giả do Phùng
Xuân Nhạ chủ biên, đã định nghĩa rằng: “Doanh nhân Việt Nam hiện nay là
một cộng đồng xã hội bao gồm những người làm nghề kinh doanh dám chịu
rủi ro và có mục tiêu vì lợi”. Với định nghĩa này, các tác giả thừa nhận, hiểu
về doanh nhân như vậy thực sự chưa đầy đủ, toàn diện, song nó đã khắc phục
được một số thiếu sót và bổ sung nhiều điểm mới của trong quan điểm của

nhiều tác giả đi trước. Theo đó, có thể khẳng định doanh nhân là khái niệm rất
rộng, bao gồm: những chủ thể kinh doanh thuộc hộ gia đình khơng lập doanh
nghiệp; những doanh nhân người Việt đang kinh doanh ở nước ngoài; lãnh
đạo và nhân viên trong doanh nghiệp nhà nước làm kinh doanh hoặc vừa kinh
doanh vừa làm công ích.

9


Trong bài viết về “Văn hóa kinh doanh - Cách tiếp cận và những vấn đề
đặt ra”, tác giả Lê Hữu Ái đã chỉ ra doanh nhân là ai. Theo tác giả: “Doanh
nhân là cá nhân có ý chí và khát vọng làm giầu, là thuyền trưởng của doanh
nghiệp vượt qua thác ghềnh”,[ tr.22], ( Kỷ yếu hội thảo, Vai trị văn hóa kinh
doanh trong kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam, Đại học kinh tế
Đà Nẵng, ngày 29/5/2015 ). Cũng theo tác giả những yếu tố tạo thành nhân
cách doanh nhân thành đạt đó là: có tri thức làm giàu (hiểu biết về kinh
doanh), có khát vọng làm giàu (có ý chí nghị lực cá nhân mạnh mẽ), biết cách
làm giàu (kỹ năng và nghệ thuật kinh doanh)
Theo kết quả khảo cứu nhiều tài liệu khác nhau trong lịch sử xã hội lồi
người, có thể thấy rằng: Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới phân
công lao động phát triển tạo ra ba nghề trong xã hội: chăn nuôi, thủ công,
buôn bán thương mại. Trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu, sản phẩm do lao
động làm ra trở thành hàng hóa, doanh nhân xuất hiện. Đồng thời với nó, đạo
đức doanh nhân cũng ra đời. Đây cũng là thời kỳ mới của nhân loại, có mâu
thuẫn đối kháng giai cấp, có bộ máy nhà nước, con người không sống “ngây
thơ thuần phác” nữa, quan hệ giữa con người với con người tự nhiên dẫn tới
u cầu đạo đức: khơng được trộm cắp, phải sịng phẳng trong giao thiệp
“tiền trao cháo múc”, phải có chữ tín, biết tơn trọng các cam kết, thỏa
thuận,v.v.. Trong cuốn bài giảng “Văn hóa kinh doanh”, khi nói về lịch sử
doanh nhân, tác giả Dương Thị Liễu đã khẳng định rằng: tầng lớp doanh nhân

xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người, sự ra đời của nền sản xuất hàng
hóa kéo theo sự hình thành tầng lớp doanh nhân, họ là những người buôn bán,
sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Nghiên cứu về đạo đức doanh nhân trong kinh doanh: Đạo đức doanh
nhân được ra đời cùng với doanh nhân và hoạt động kinh doanh của họ, tức là
nó chỉ ra đời khi sản xuất đã phát triển đến một trình độ nhất định. Cụ thể là,
10


khi xã hội có sản xuất hàng hóa và trao đổi bn bán các loại hàng hóa trên
thị trường, đặc biệt trong xã hội đã xuất hiện và tồn tại tầng lớp doanh nhân
mà trước hết là những nhà buôn (thương nhân) với nghề nghiệp chính là bn
bán. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển các hoạt động bn bán hay hoạt
động thương nghiệp cũng chính là một nguồn gốc tạo ra khái niệm đạo đức
doanh nhân trong kinh doanh.
Với kết quả khảo cứu ở nhiều cơng trình nghiên cứu, theo tác giả muốn
xác định rõ được lịch sử của sự ra đời đạo đức doanh nhân ở Việt Nam, cần
phải lần theo dấu vết lịch sử phát triển hoạt động thương nghiệp (nay gọi là
thương mại) của Việt Nam. Làm được điều này thật khó, bởi vì, từ trước tới
nay, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào chính thức cơng bố về thời gian
hình thành một cách chính xác nền thương nghiệp Việt Nam. Từ xa xưa, trong
dân gian, người Việt Nam đã có câu nói rằng “phi thương bất phú”, tức là
“khơng có bn bán thì khơng thể giàu có được”. Song, người xưa vẫn
thường khơng coi trọng nghề bn bán, thậm chí miệt thị những người làm
nghề này với cách gọi “con bn”. Cũng vì suy nghĩ như vậy mà thời kỳ bao
cấp ở nước ta trước đây, trong xã hội, cụm từ “con phe” được dùng khá thơng
dụng và phổ biến. Điều này có thể được lý giải rằng, người đời xưa thường
trọng đạo đức, coi thường những gì là tiền bạc giả dối, trong khi những người
bn bán thì thường vì tham lợi mà khơng thành thật. Do đó, trong thời phong
kiến kéo dài hàng nghìn năm tại nước ta, con người Việt Nam thường chỉ

hướng vào thi phú và quan trường. Ngành nghề duy nhất được coi trọng là
nông nghiệp.
Trong sự phát triển của mình, bản thân nền sản xuất nơng nghiệp cũng tất
yếu nảy sinh nhu cầu trao đổi buôn bán, nên nhiều chợ búa cũng được sinh ra
từ nhu cầu này. Tuy nhiên, theo các nhà sử học Việt Nam, do xã hội Việt
Nam dựa trên nền tảng của một nền kinh tế tiểu nông gắn với cơ cấu làng xã
11


cùng với chính sách có xu hướng “ức thương” của các nhà nước phong kiến
nên khó hình thành một tầng lớp thương nhân lớn, như một thế lực xã hội.
Ngay những địa điểm được coi là đô hội và buôn bán trù phú nhất trong lịch
sử nước ta như Phố Hiến cũng chỉ là sự bùng phát một thời với những yếu tố
ngoại thương của các thương nhân nước ngoài đến tham dự hội chợ theo mùa
và cuối cùng tàn lụi. Đến đầu thế kỷ 20, dù có những biến chuyển, nhưng
công nghiệp và thương nghiệp nước ta vẫn như chập chững những bước đi
đầu tiên. Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” viết năm 1925, Nguyễn Ái
Quốc khẳng định:
“Ở Đơng Dương, chúng ta có đủ tất cả những cái mà một dân tộc có thể
mong muốn như: hải cảng, hầm mỏ, đồng ruộng mênh mông, rừng rú bao la;
chúng ta có những người lao động khéo léo và cần cù.
Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức! Bởi thế công
nghiệp và thương nghiệp của chúng ta là một con số không” [86; tr. 177].
Cái “tổ chức” và “người tổ chức” ở đây chính là doanh nghiệp và doanh
nhân. Dẫu vậy, cũng không thể phủ nhận rằng, từ đầu thế kỉ 16 thương mại
của Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc với việc ra đời của các đô thị
thương mại lớn như Phố Hiến, Hội An, Vân Đồn, Thanh Hà, Gia Định.
Nhưng khái niệm đạo đức doanh nhân ở thời điểm này còn khá xa vời. Đăc
biệt, khi nói tới người làm nghề thương nghiệp là người ta chỉ nói ngay tới sự
tham lam chuộc lợi. Những nguyên nhân trên, chính là một trong những thủ

phạm khiến nước ta luôn nghèo và không theo kịp với nhịp độ kinh tế của các
nước khác.
Đến cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, khi thực dân Pháp hoàn thành xâm
chiếm và tăng cường khai thác Việt Nam, xã hội nước ta cũng bị phân hóa
mạnh mẽ. Giai cấp tư sản ra đời và tập trung đầu tư vào kinh doanh, buôn
bán. Hàng loạt cuộc vận động cải cách đất nước đều đề cao thương mại. Ví dụ
12


tiêu biểu về khái niệm đạo đức doanh nhân thời kì này được thể hiện trong tư
tưởng của Lương Văn Can. Ông để lại cho đời hai tác phẩm là “Kim cổ cách
ngơn” và “Thương học phương châm” (hiện cịn ở dạng bản thảo, lưu giữ tại
Thư viện Khoa học Trung ương và gia đình tác giả). Có thể nói đây là những
cuốn giáo khoa bàn về cách làm giàu và bàn về của cải để mong tìm ra một
“đạo làm giàu” của người Việt Nam mà không bị cuốn vào cơn lốc làm giàu
của xã hội thời thuộc địa. Tuy nhiên, ông cũng chỉ giới hạn việc kinh doanh ở
mức thương nghiệp, đưa ra những quy tắc cơ bản về đạo đức cho thương nhân
như giữ chữ Tín, khơng được đầu cơ nâng giá một cách trái lý, cân đong phải
chính xác v.v..
Tới thời Duy Tân, hoạt động kinh doanh khơng chỉ bó hẹp trên lĩnh vực
bn bán, lưu thơng nữa mà cịn được mở rộng sang nhiều lĩnh vực dịch vụ
khác, như vận tải đường sông - biển; sản xuất, khai khống; chế tạo xà bơng,
đóng tàu v.v.. Những hoạt động đó đã ghi nhận và tơn vinh tên tuổi của nhiều
doanh nhân Việt Nam như Bạch Thái Bưởi, Trương Văn Bền, Nguyễn Sơn
Hà, Nguyễn Hữu Thu, v.v..
Khi miền Bắc bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong tư
tưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan niệm rằng một nền kinh tế
phát triển vững mạnh phải dựa trên trục công – nông – thương nghiệp phát
triển. Theo Người, muốn phát triển nông nghiệp hiện đại thì cần phải có cơng
nghiệp hiện đại và thương nhiệp tương ứng. Nếu nền kinh tế không có cơng

nghiệp và thương nghiệp giúp sức thì nền kinh tế đó chỉ cịn là nền kinh tế
nơng nghiệp lạc hậu. Sinh thời, Người hằng mong muốn và khẳng định: “Nền
kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là sự kinh doanh của các công nghiệp,
thương nghiệp thịnh vượng”[87; tr.49]. Tuy nhiên, tiếp sau đó, chúng ta thực
hiện cải tạo tư bản công thương nghiệp.

13


Thành phần kinh tế tư nhân là đối tượng cần đưa vào tập thể. Vì thế,
doanh nhân và khái niệm đạo đức doanh nhân cũng khơng được nói tới.
Mốc đánh dấu quan trọng về vấn đề doanh nhân và đạo đức doanh nhân
Việt Nam chính là thời điểm chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, nhằm cải
cách kinh tế, thực hiện kinh tế thị trường vào năm 1986. Việc khẳng định nền
kinh tế nhiều thành phần đã khẳng định sự tồn tại của tầng lớp doanh nhân và
quyền tự do kinh doanh. Trên thực tế, quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam chỉ
mới được ghi nhận lại trong Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, từ việc được
ghi nhận cho đến được đảm bảo thực hiện trong cuộc sống lại là một chặng
đường dài. Vì thế, trong một thời gian ngắn và với bối cảnh như vậy, tinh hoa
đạo đức của doanh nhân Việt khó có đủ thời gian để tích tụ thành đạo đức
doanh nhân.
Từ khi chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường, vấn đề đạo đức doanh nhân trong hoạt động kinh doanh được quan
tâm chú ý là tất yếu. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về đạo đức kinh
doanh được thực hiện, một số giáo trình đạo đức kinh doanh được xuất bản và
đưa vào giảng dạy ở một vài trường kinh tế. Trong những cơng trình đó đã đề
cập và giải quyết nhiều khía cạnh đạo đức kinh doanh của doanh nhân.
1.1.2. Những nghiên cứu về chuẩn mực đạo đức doanh nhân
Hiện nay, khi bàn về đạo đức doanh nhân trong kinh doanh, về những
phẩm chất, chuẩn mực của nó hoặc về sự cần thiết phải nâng cao đạo đức

doanh nhân trong điều kiện kinh tế thị trường, các nhà nghiên cứu đã đưa ra
nhiều quan điểm khác nhau. Những khảo cứu của tác giả được bắt đầu từ
những cơng trình nghiên cứu về chuẩn mực đạo đức kinh doanh bởi nghề của
doanh nhân là kinh doanh để thu lợi nhuận.
Trong bài viết “Một số ý kiến về giáo dục trong kinh doanh tại Việt
Nam”, Tô Xuân Dân, đã khẳng định: “Đạo đức kinh doanh hiểu một cách đơn
14


giản, là những qui tắc đạo đức được vận dụng trong quá trình hoạt động kinh
doanh, là những chuẩn mực chi phối hành vi của các nhà doanh nghiệp, là
những giá trị mà người kinh doanh thừa nhận và noi theo”[126; tr. 28], “Mục
đích của nhà kinh doanh nhằm đem lại hạnh phúc cho con người, không phải
chỉ cho từng cá nhân mà cho cả xã hội. Mà hạnh phúc ở đây chính là bao gồm
những giá trị đạo đức, những giá trị văn hóa của xã hội được thừa nhận và
được tơn trọng” [126; tr. 29]. Cịn trong bài “Một số ý kiến về đạo đức kinh
doanh” tác giả Phạm Xuân Nam đã chỉ ra tiêu chuẩn hàng đầu về đạo đức của
nhà doanh nghiệp là tính trung thực. Theo tác giả: “Triết lý kinh doanh của
những người có lý tưởng, có đạo đức đều mang nội dung nhân bản sâu sắc, vì
nó dựa trên một quan niệm đúng đắn về hạnh phúc cá nhân không thể tách rời
mà gắn bó mật thiết với hạnh phúc của cộng đồng. Phải chăng đó là sự kết
tinh những giá trị đạo đức trong kinh doanh” [126; tr. 46]. Đây là những quan
điểm rất có giá trị, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đạo đức
kinh doanh.
Gần đây các bài báo và các cơng trình nghiên cứu về đạo đức doanh nhân
trong kinh doanh xuất hiện ngày càng nhiều trên các báo điện tử hoặc tạp chí
ở Việt Nam. Đã có nhiều giáo trình về đạo đức kinh doanh được giảng dạy
trong các trường đại học. Điều này cho thấy, việc kinh doanh có đạo đức đang
nhận được sự quan tâm của các doanh nghiệp và xã hội. Đa số các bài viết
hoặc các cơng trình nghiên cứu này được thực hiện bởi các nhà kinh tế hoặc

các nhà quản trị doanh nghiệp. Có thể kể đến “Đạo đức kinh doanh và văn
hóa cơng ty” (của Nguyễn Mạnh Quân, Nhà xuất bản Đại học KTQD, năm
2007); “Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp” (của Phạm Quốc
Toản, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, năm 2007); “Đạo đức kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường” (của Lê Văn Dũng, Luận văn thạc sĩ triết học,
Viện triết học); v.v.. Các cơng trình đó đã phân tích khái niệm đạo đức kinh
15


doanh, lịch sử phát triển của đạo đức kinh doanh, đưa ra những chuẩn mực cơ
bản của đạo đức kinh doanh. Các tác giả đã góp phần làm rõ vai trò của đạo
đức kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, chỉ ra nội
dung đạo đức trong từng vấn đề cụ thể của kinh doanh, như: đạo đức trong
thành lập doanh nghiệp, đạo đức trong hoạt động doanh nghiệp, đạo đức trong
chấm dứt doanh nghiệp, đạo đức bán hàng, đạo đức trong giao tiếp kinh
doanh v.v.. Về khái niệm đạo đức kinh doanh, tác giả Nguyễn Mạnh Qn đã
có câu trả lời trong giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hóa cơng ty” của
mình như sau: “Đạo đức kinh doanh gồm những nguyên tắc và chuẩn mực có
tác dụng hướng dẫn hành vi trong mối quan hệ kinh doanh; chúng được
những người hữu quan (như người đầu tư, khách hàng, người quản lí, người
lao động, đại diện cơ quan Pháp lí, cộng đồng dân cư, đối tác, đối thủ…) sử
dụng để phán xét một hành động cụ thể là đúng hay sai, hợp đạo đức hay phi
đạo đức”[107; tr.18]. Ở định nghĩa này, đạo đức kinh doanh được hiểu là
những quy tắc, nguyên tắc hoặc các chuẩn mực được đưa ra nhằm ngăn chặn
các hành vi sai nguyên tắc đạo đức trong quá trình kinh doanh.
Giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp” (của tác giả
Bùi Xuân Phong, Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà Nội, năm 2009), lại
đưa ra định nghĩa: “Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn
mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của
các chủ thể kinh doanh. Đạo đức kinh doanh chính là đạo đức được vận dụng

vào trong hoạt động kinh doanh” [99; tr. 40].
Trong cuốn “Nhân cách doanh nhân và văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế” (do tác giả Phùng Xuân Nhạ là chủ
biên, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011) khi viết về nhân cách
của doanh nhân, các tác giả đã khẳng định rằng đạo đức của doanh nhân là một
bộ phận quan trọng cấu thành nhân cách doanh nhân, là cái gốc của nhân cách
16


của doanh nhân, nó là trung tâm điều khiển hành vi của doanh nhân. Bản thân
đạo đức doanh nhân là một hệ thống gồm các yếu tố cấu thành, đó là tư tưởng,
phẩm chất đạo đức, lối sống. Từ đó theo các tác giả chuẩn mực đạo đức doanh
nhân được tạo nên từ giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc bao gồm: tính thiện, từ bi,
thương người, khơng tàn ác, ích kỷ, tín nghĩa, trọng danh dự, cam kết ứng xử có
nghĩa tình, trung thực, thật thà, khơng gian dối.
Trong giáo trình “Văn hóa kinh doanh” (của tác giả Dương Thị Liễu chủ
biên, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2009), khái niệm đạo đức
kinh doanh của các chủ thể kinh tế (trong đó có các doanh nhân), được hiểu
“là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá,
hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh”[74; tr. 25].
Ngoài việc đưa ra định nghĩa đạo đức kinh doanh, các giáo trình trên cịn đề
xuất nhiều nội dung nhằm xây dựng và hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức
kinh doanh. Điển hình trong giáo trình “Văn hóa kinh doanh” (của tác giả
Dương Thị Liễu), các nguyên tắc chuẩn mực đạo đức kinh doanh là: tính trung
thực; tơn trọng con người; gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách
hàng và xã hội; coi trọng hiệu quả gắn với tinh thần trách nhiệm xã hội; bí mật
và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt. Giáo trình “Đạo đức kinh doanh và
văn hóa doanh nghiệp” (của tác giả Phạm Quốc Toản, Nhà xuất bản Lao động
– Xã hội, năm 2007) đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu chuẩn mực trong kinh tế - xã
hội và đức tính cá nhân. Theo đó, có bốn chuẩn mực trong kinh tế - xã hội: chủ

nghĩa tập thể; lao động tự giác, sáng tạo; lòng yêu nước kết hợp với tinh thần
quốc tế; chủ nghĩa nhân đạo. Bốn đức tính cá nhân: tính trung thực; tính
ngun tắc; tính khiêm tốn; lịng dũng cảm. Giáo trình “Mơi trường kinh
doanh và đạo đức kinh doanh” (do tác giả Ngơ Đình Giao chủ biên, Nhà xuất
bản Giáo dục ấn hành năm 1997), khẳng định: “chữ tín là chuẩn mực cao nhất
của đạo đức kinh doanh, mọi nhà kinh doanh Việt Nam và nước ngoài tại Việt
17


Nam phải xây dựng chữ tín đối với khách hàng trong nước và nước ngồi”[35;
tr. 29]. Các tác giả cịn cho rằng, ở Việt Nam, với nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN thì tiêu chuẩn cơ bản nhất về đạo đức kinh doanh là đạo
đức kinh doanh XHCN, xây dựng đạo đức kinh doanh XHCN. Từ đó, các tác
giả coi: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là đạo đức kinh doanh của
người Việt Nam”[35; tr. 29].
Cùng với những giáo trình trên, thời gian qua cịn một số cơng trình
nghiên cứu với các cách tiếp cận khác nhau nhưng cùng chung mục đích
khẳng định và xây dựng những chuẩn mực đạo đức cho cộng đồng doanh
nhân Việt Nam hiện nay. Có thể kể tới cuốn “Doanh nhân Việt Nam – Nụ
cười và nước mắt” (gồm nhiều tập do Phó tổng biên tập báo Cơng An Nhân
Dân, Đại tá Lưu Vinh chủ biên, Nhà xuất bản Giao thông vận tải ấn hành, bắt
đầu từ năm 2007), trong đó các tác giả đã có những bài viết về những doanh
nhân Việt Nam, những người nặng lòng với đất nước, đã đổ quá nhiều mồ
hôi, công sức và nước mắt trong cuộc đời. Qua những bài viết về những
doanh nhân Việt Nam, những con người cụ thể, các tác giả đã cho thấy chìa
khóa thành cơng đối với mỗi doanh nhân trên thương trường chính là trung
thực, tơn trọng chữ tín, yêu thương người lao động, cần, kiệm, liêm, chính,
năng động, sáng tạo; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm với bản thân,
gia đình và xã hội.
Cuốn “Văn hóa doanh nhân - lý luận và thực tiễn” (do Lê Lựu chủ biên,

Nhà xuất bản Hội nhà văn, năm 2008) là cuốn sách tập hợp rất nhiều bài viết
về doanh nhân, khái niệm doanh nhân, các doanh nhân Việt Nam trong lịch
sử. Các tác giả đã đề cao những đóng góp to lớn của họ đối với sự phát triển
của đất nước và vai trị của họ trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
ở Việt Nam hiện nay. Các tác giả coi đạo đức của họ trong kinh doanh như là
bí quyết của thành cơng trong sự nghiệp làm giàu.
18


Cuốn “Triết lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp” (của tác giả
Nguyễn Thị Doan và tác giả Đỗ Minh Cương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia - Hà Nội, năm 1999), đã tập trung phân tích và nhấn mạnh vai trị vơ cùng
quan trọng của triết lý kinh doanh trong hoạt động của các doanh nghiệp. Dựa
trên những triết lý kinh doanh cụ thể, các doanh nhân với tư cách chủ thể kinh
doanh sẽ lựa chọn cho mình cách thức kinh doanh phù hợp. Triết lý kinh
doanh không tách rời đạo đức kinh doanh mà trái lại bao hàm, gắn bó chặt chẽ
với đạo đức kinh doanh của doanh nhân. Kinh doanh có đạo đức như là một
bí quyết để doanh nhân/doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển bền vững.
Những cơng trình kể trên với cách tiếp cận và giải quyết những khía cạnh
khác nhau về đạo đức kinh doanh của doanh nhân đều khẳng định tính tất yếu
của việc kinh doanh phải có đạo đức, góp phần làm rõ vai trò của đạo đức
doanh nhân đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh và đối với sự phát triển
kinh tế đất nước. Giáo trình “Văn hóa kinh doanh” (của tác giả Dương Thị
Liễu chủ biên) là một điển hình. Trong đó các tác giả khẳng định vai trò rất
quan trọng của đạo đức kinh doanh của doanh nhân, thể hiện qua mấy nội
dung: đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh
doanh; đạo đức kinh doanh góp phần vào chất lượng của doanh nghiệp; đạo
đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân viên; đạo đức
kinh doanh góp phần làm hài lịng khách hàng; đạo đức kinh doanh góp phần
tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp; đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững

mạnh của nền kinh tế quốc gia. Bởi vậy, việc nâng cao đạo đức doanh nhân
phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội nước ta đang là một nhu cầu cấp thiết
để giúp hoạt động sản xuất, kinh doanh không chỉ dừng lại ở mức là hành vi
kinh tế (hành vi thị trường) một cách thuần túy, mà được phát triển lên trình
độ cao hơn, mang tính nhân văn hơn, vì đó cịn là hành vi đạo đức. Đây cịn là
sự thể hiện cho trình độ văn minh trong hoạt động kinh tế của xã hội hiện đại
19


mà Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm xây dựng.
1.2. Nghiên cứu về sự tác động của kinh tế thị trƣờng và thực trạng đạo
đức doanh nhân ở nƣớc ta hiện nay
Ở Việt Nam, thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu sự biến đổi
của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường theo những cách tiếp cận khác
nhau. Nhìn ở góc độ đạo đức nói chung, các cơng trình này đã đề cập tới sự
tác động của nền kinh tế thị trường với đạo đức, mối quan hệ giữa đạo đức
với kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường, vấn đề xây dựng đạo đức mới
trong nền kinh tế thị trường v.v… Tuy nhiên, đạo đức doanh nhân cũng chỉ là
đạo đức nói chung được vận dụng vào quá trình hoạt động của doanh nhân,
trước hết là trong sản xuất, kinh doanh mà thôi. Bởi vậy, những vấn đề vừa
nêu cũng là những vấn đề gắn liền hoặc ít nhiều liên quan với đạo đức của
doanh nhân.Trong các cơng trình đó, các tác giả đã chỉ ra sự “xuống cấp” của
đạo đức trong nền kinh tế thị trường. Có thể thấy điều này qua các bài: “Cơ
chế thị trường và những điều cần báo động” (Tạp chí Cộng sản, số 10/1990,
của tác giả Vũ Hiền); “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi của các giá
trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường” (Tạp chí Triết học, số
1/1995, của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn ); “Một số chuẩn mực giá trị ưu trội
khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường” (Tạp chí Triết học, số 1/1995,
của tác giả Nguyễn Văn Huyên ); “Bàn về sự định hướng giá trị khi nước ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường” (Tạp chí Triết học, số 1/1995, của Lê

Đức Phúc); “Tệ nạn xã hội – nỗi lo không của riêng ai” (Tạp chí Cộng sản, số
2/1996, của Nguyễn Thị Hằng ); v.v.. Ở những bài viết này, các tác giả đã chỉ
ra sự biến động phức tạp trong đời sống xã hội Việt Nam khi bước vào nền
kinh tế thị trường. Cụ thể theo các tác giả: các giá trị truyền thống đang có
biến đổi đa dạng; những giá trị mới xuất hiện và ngày càng có ảnh hưởng rõ
rệt trong đời sống xã hội cùng với những phản giá trị đang có chiều hướng gia
20


tăng; những suy nghĩ về các chuẩn mực, các giá trị và cả “những điều cần báo
động” đang đòi hỏi phải có sự nhìn nhận thấu đáo, sự đánh giá nghiêm
túc;v.v..
Cơng trình “Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội” (của tác giả Trường Lưu
chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin ấn hành năm 1998) đã tập trung
bàn về nhiều vấn đề như: mấy yếu tố nền tảng của văn hóa đạo đức; mấy vấn
đề cơ bản về văn hóa đạo đức hiện nay; văn hóa đạo đức qua một số lĩnh vực
hoạt động;v.v.. Các tác giả đã thể hiện được cách nhìn nhận về vai trị của văn
hóa đạo đức trong sự tiến bộ xã hội và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta sau những năm thực hiện công cuộc đổi mới.
Bài viết “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức” (của Nguyễn Trọng Chuẩn,
Tạp chí Triết học, số 9/2001) cho rằng: tất cả những biến động trong lĩnh vực
đạo đức ở các mức độ khác nhau đều liên quan tới sự biến động trong nền
kinh tế - xã hội thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những biến động đó tuy là
khó tránh khỏi nhưng chúng sẽ giảm tác hại đi rất nhiều nếu Đảng và Nhà
nước kịp thời có những đối sách thích hợp.
Ở một số cơng trình nghiên cứu như “Qn triệt mối quan hệ giữa kinh tế
và đạo đức trong việc định hướng giá trị đạo đức hiện nay” (của Nguyễn

Ngọc Long, Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số 2/1995), “Mối quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay” (của Phạm Văn Đức, Tạp chí Triết học, số 1/2002), “Vấn đề xây dựng
đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường” (của Đỗ Lan Hiền, Tạp
chí Triết học, số 4/2002), với các góc độ khác nhau, các tác giả đã góp phần
quan trọng luận giải mối quan hệ và những tác động qua lại giữa đạo đức và
21


kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo đó, nền kinh
tế thị trường được coi là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những
biến đổi quan trọng về mặt đạo đức. Ngược lại, đạo đức cũng thể hiện tác động
to lớn của nó đối với sự phát triển xã hội, trong đó có đời sống kinh tế.
Trong cuốn “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay” (do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc đồng chủ
biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2003) đã phân tích những biến
động trong lĩnh vực đạo đức do sự tác động của nền kinh tế thị trường (cả tích
cực lẫn tiêu cực). Cơng trình cũng đã lý giải vai trò của đạo đức với tư cách là
động lực tinh thần của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đề xuất và phân
tích những giải pháp nhằm xây dựng đạo đức vừa như là mục tiêu, vừa như là
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta.
Với cơng trình “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp”
(do Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm, với sự tham gia của các nhà khoa học có uy tín
lớn như Nguyễn Đức Bình, Vũ Khiêu, Nguyễn Trọng Chuẩn, Hồng Chí Bảo) là
cơng trình tiêu biểu về nghiên cứu đạo đức sau 20 năm đổi mới. Trên cơ sở phân
tích, mổ xẻ hiện thực cuộc sống trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, cơng trình nghiên cứu đã phác họa một cách trung thực và khá
toàn diện toàn cảnh bộ mặt đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay trên cả hai
phương diện tích cực và tiêu cực với những số liệu điều tra xã hội phong phú,

thuyết phục, qua đó làm hiện rõ thêm thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên, công
chức, thanh niên, đạo đức trong lao động, giao tiếp và đạo đức trong gia đình.
Các tác giả đã chỉ ra nguyên nhân suy thối đạo đức trong xã hội: “Ngồi những
ngun nhân khách quan, sâu xa, trực tiếp cần phải nhận diện những nguyên
nhân chủ quan thuộc về chúng ta, từ lãnh đạo, quản lý, giáo dục và tổ chức đời
sống xã hội. Nhóm nguyên nhân này đã và đang trực tiếp dẫn tới sự suy thoái
22


×