Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

(Luận án tiến sĩ) đặc điểm các tộc người ở việt nam trong công cuộc đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 172 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Tộc người ln là một nội dung chính trị nhạy cảm, phức tạp liên quan đến
tất cả các quốc gia trên thế giới. Các đảng, nhà nước muốn thực hiện tốt vai trò quản
lý xã hội, thực hiện quyền lực chính trị của mình địi hỏi phải nắm vững đặc điểm
tộc người, giải quyết tốt quan hệ tộc người phù hợp với thực tiễn đất nước.
Những năm gần đây, trên thế giới có nhiều biến động lớn. Một trong những
biến động đó là tồn cầu hóa cuốn hút tất cả các nước của khắp các châu lục. Đây là
xu thế khách quan, hợp quy luật của thời đại mà không một quốc gia nào có thể
đứng ngồi nếu khơng muốn bị tụt hậu. Tồn cầu hóa, một mặt, đem lại cho các
nước, nhất là những nước đang phát triển những cơ hội lớn; mặt khác, cũng đặt ra
những thách thức không nhỏ. Một trong những thách thức đó là sự bùng nổ mâu
thuẫn, xung đột tộc người. Mặc dù, các quốc gia và những tổ chức xã hội dành
nhiều nỗ lực để cải thiện vấn đề tộc người, nhưng tình trạng mâu thuẫn, xung đột
này vẫn đang diễn ra gay gắt, thậm chí, phức tạp hơn bởi sự pha tạp trong đó cả
những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tơn giáo,… Điển hình cho các cuộc xung
đột tộc người – sắc tộc là ở: Liên Xô cũ, Liên bang Nam Tư, Kôsôvô,… và các
cuộc đấu tranh ly khai ở Chesnhia, xứ Bas của Tây Ban Nha hay tỉnh A xê ở
Indonexia,… Các cuộc xung đột này vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của sự tan
rã của khơng ít các nhà nước liên bang đa tộc người.
Bùng nổ vấn đề dân tộc trong lịch sử thường kéo theo những làn sóng ý
thức tộc người, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, do sự khác nhau về lối sống,
tâm lý, tập quán, trình độ phát triển kinh tế - xã hội,… Nó đặt ra cho bất cứ một
đảng chính trị, một nhà nước nào trong quốc gia đa tộc người, nếu khơng xuất
phát từ tình hình, đặc điểm tộc người thì cũng khơng có khả năng giải quyết
được những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ giữa các tộc người. Do vậy,
trong một quốc gia có nhiều thành phần tộc người, đặc điểm tộc người như là
một căn cứ quan trọng để xây dựng và thực hiện những chính sách phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội,… của đất nước.

1




Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, gồm 54 tộc người cùng chung
sống. Tuy có tập quán, tâm lý, trình độ phát triển khác nhau, nhưng các tộc
người đã đồn kết gắn bó, hợp tác trong suốt q trình dựng nước và giữ nước,
tạo nên một diện mạo chung của dân tộc Việt Nam - thống nhất trong đa dạng
của các quan hệ tộc người.
Ngay từ thời phong kiến, cha ông ta đặt vấn đề tộc người như một nhiệm vụ
then chốt trong hoạt động của quốc gia đa tộc người, giải quyết quan hệ tộc người
luôn gắn liền với các điều kiện cụ thể, khơng thốt ly đặc điểm tộc người. Đây là một
vấn đề vẫn có ý nghĩa thời sự và thực tiễn cho tới hôm nay.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, từ
năm 1986 đến nay, đã và đang phát triển, giành được những thành tựu có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, tiềm lực quốc gia được tăng
cường, vị thế chính trị ngày càng củng cố trên trường quốc tế. Việt Nam đang tận
dụng được thời cơ, từng bước vượt qua thách thức, tích cực và chủ động hội nhập
quốc tế. Thế giới cũng đang vận động, chuyển biến rất phức tạp và mau lẹ. Kinh tế
thị trường tạo điều kiện phát huy những tiềm năng phát triển của các tộc người, là
cơ hội lớn để các tộc người tham dự vào đời sống quốc tế, đồng thời cũng đặt ra
những thử thách khơng nhỏ trong q trình hội nhập và phát triển của mỗi tộc người.
Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xây dựng chiến lược phát triển đất nước
ln xuất phát từ tình hình thực tiễn, đặc điểm của các tộc người đề ra những chính
sách phù hợp với thực tiễn, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh. Bên cạnh đó, các tộc người ở nước ta với những thang bậc lịch sử, tâm

lý, phong tục, tập quán, trình độ phát triển kinh tế - xã hội không giống nhau,
nhưng lại cùng chung vận mệnh lịch sử, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá
trình lao động sản xuất và đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
Hiểu rõ nguồn gốc, hoàn cảnh lịch sử, đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã
hội,… của các tộc người là cơ sở quan trọng đề ra chính sách giải quyết tốt

những nhiệm vụ đặt ra của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.

2


Đó là lý do mà tác giả chọn vấn đề: “Đặc điểm các tộc người ở Việt Nam
trong công cuộc đổi mới đất nước” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích làm rõ biểu hiện và ảnh hưởng
của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước, luận
án đề xuất một số giải pháp điều tiết những ảnh hưởng đó đáp ứng u cầu cơng
cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận án hướng vào giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Phân tích các cơng trình nghiên cứu cơ bản liên quan đến nội dung luận
án và chỉ ra một số khái niệm như: tộc người, đặc điểm tộc người, đặc điểm các
tộc người ở Việt Nam.
- Phân tích một số yếu tố quy định sự hình thành đặc điểm các tộc người ở
Việt Nam và những vấn đề đặt ra từ sự tác động của công cuộc đổi mới đất nước.
- Phân tích biểu hiện và ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt
Nam trong công cuộc đổi mới đất nước.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm điều tiết những ảnh hưởng của
đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu biểu hiện và ảnh hưởng của
đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu đặc điểm các tộc người ở Việt
Nam trong công cuộc đổi mới đất nước (từ năm 1986 đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, các chính sách của Nhà nước
Việt Nam về vấn đề tộc người và liên quan. Ngoài ra, luận án cịn kế thừa có
chọn lọc một số cơng trình nghiên cứu có quan hệ đến đề tài.

3


Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như lơgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh và một số phương
pháp nghiên cứu liên ngành khác, đặc biệt là triết học – dân tộc học, triết học
– chính trị học,…
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án phân tích biểu hiện và ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở
Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước.
- Luận án đề xuất một số giải pháp điều tiết những ảnh hưởng của đặc
điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án có thể góp phần làm luận cứ khoa học cho đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước tác động đến vấn đề tộc người ở Việt Nam hiện nay.
- Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
và giảng dạy những mơn học có liên quan đến vấn đề tộc người ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, 4 chương (11 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và một số phụ lục.

4


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu về khái niệm tộc người và đặc điểm
tộc người
Khái niệm tộc người có từ rất sớm trong lịch sử. Ở ngôn ngữ Hy Lạp cổ
đại đã xuất hiện thuật ngữ "ethnos", bao hàm nhiều nghĩa khác nhau như "bầy",
"đám đơng", "một nhóm người", "bộ lạc", "bộ lạc ngoại bang", "tộc người",...
Phân tích nghĩa gốc của từ này, người ta thấy, nó dùng để "chỉ một tổng thể
người sống giống nhau, có những đặc điểm chung giống nhau như phong tục, tập
quán, thói quen hàng ngày,..." [40, 10].
Trong thời kỳ trung cổ ở châu Âu, từ "ethnos" thường được sử dụng ở dạng số
nhiều (chủ yếu trong Kinh thánh) để chỉ người. Ngồi ra, do q trình Latinh hóa mà
từ "ethnos" đã ra đời và được sử dụng để chỉ những người đa thần giáo.
Đến thời kỳ cận đại, từ "ethnos" được sử dụng trong nhiều ngành khoa
học cùng với sự xuất hiện các thuật ngữ khác như "ethnography" (tộc người học
miêu tả), "ethnology" (tộc người học lý luận),... Tuy nhiên, thuật ngữ “ethnos”
vẫn chưa được sử dụng rộng rãi. Giai đoạn này, trong hoạt động thực tiễn, các
nhà khoa học chủ yếu sử dụng các thuật ngữ "chủng tộc", "bộ lạc", "tộc người".
Nửa sau thế kỷ XIX, thuật ngữ "ethnos" vẫn được dùng theo những nghĩa khác
nhau, như để chỉ giai đoạn tiền sử trong lịch sử lồi người, hoặc để gọi các vùng
văn hóa hay các yếu tố văn hóa,...
Chỉ từ những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX trở đi, khái niệm
"ethnos" với ý nghĩa là "tộc người" mới dần được xác lập trong khoa học. Sau
này, trong giới nghiên cứu, thuật ngữ “ethnie” được dùng phổ biến hơn để chỉ
các tộc người. Chẳng hạn, trong cơng trình "Chọn lọc xã hội" (1898), học giả
Pháp Vacher de Lapouge đã đưa ra thuật ngữ "ethnie" và được A.Fouillee tiếp tục
sử dụng trong cơng trình "Tâm lý tộc người học Pháp" (1914). Tuy nhiên, phải

5



đến năm 1920, trong "Bản tin và kỷ yếu của hội Nhân chủng học Paris", học giả
Pháp F.Regnault mới tiến thêm một bước trong việc xác lập khái niệm "ethnie",
khi địi hỏi cần phải có sự phân biệt tộc người ngơn ngữ với chủng tộc hình thể.
Theo R.Breton, thuật ngữ "ethnie" đơn giản hơn so với những cụm từ khác như
"ethnos", "ethnicum", "ethnea"; và chỉ đến G.Montadon với cơng trình "Tộc người
Pháp” (1935) thì thuật ngữ "ethnie" mới bắt đầu chiếm được một cơng chúng độc
giả rộng lớn. Theo đó, các nhà tộc người học và chính quyền thuộc địa Pháp ở hải
ngoại thấy rằng, việc sử dụng thuật ngữ "ethnie" là tiện lợi hơn vì nó có ý nghĩa
trung tính hơn so với các thuật ngữ "tribu" (bộ tộc) hay "peuple" (nhân dân),... Tại
nước Pháp, thuật ngữ "ethnie" tiếp tục trở nên có uy tín và sức nặng khoa học
trong cơng trình "Châu Âu của các tộc người" (1963) của G.Heraud.
Không chỉ được sử dụng rộng rãi trong giới học giả nghiên cứu có tính
hàn lâm, từ những năm 1970 trở đi, thuật ngữ "ethnie" còn được các nhà chính
trị sử dụng để chỉ những nhóm người lao động nhập cư.
Ở Việt Nam, trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày, trên những phương tiện
thông tin đại chúng, các tài liệu sách báo chính trị - xã hội và trong các tài liệu và
cơng trình khoa học chun ngành, thuật ngữ "tộc người" không được sử dụng
phổ biến. Thay vào đó, thuật ngữ "tộc người" vừa dùng để chỉ các tộc người
trong 54 tộc người ở Việt Nam (tộc người Kinh, tộc người Thái, tộc người Ba Na,
tộc người Ê Đê,...), vừa được dùng để chỉ một quốc gia như: tộc người Việt Nam,
tộc người Pháp, tộc người Mỹ,...
Trong giới khoa học Việt Nam, có nhiều ý kiến tranh cãi xung quanh vấn đề
sử dụng thuật ngữ "dân tộc" và "tộc người". Có quan điểm cho rằng, khơng thể để
tình trạng sử dụng thuật ngữ "dân tộc" mà vừa chỉ "dân tộc", vừa chỉ "tộc người"
như trên. Tuy nhiên, đề nghị này không được đa số học giả tán thành.
Hai cuộc hội thảo về xác định thành phần dân tộc (tộc người) ở Việt
Nam năm 1973 đã thống nhất lấy “dân tộc” (tộc người) làm đơn vị cơ bản
trong xác định các thành phần tộc người. Sau đó, trong các cơng trình đăng tải
ở "Thơng báo dân tộc học" (1973), "Tạp chí dân tộc học" (1974), "Vấn đề xác

định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam" (1975), "Các dân

6


tộc ít người ở Việt Nam, các tỉnh phía Bắc" (1978), cũng như Bảng danh mục
54 dân tộc ở Việt Nam do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam cùng Ủy ban
Dân tộc trung ương trình lên Chính phủ và được cơng nhận chính thức từ cuộc
Tổng điều tra dân số 1979 đến nay - trong tất cả các cơng trình và tài liệu
quan trọng này, thuật ngữ "dân tộc" được sử dụng một cách chính thức để chỉ
54 tộc người ở Việt Nam.
Từ thập niên 1980 trở lại đây, nhiều cơng trình của các nhà nghiên cứu
như Đặng Nghiêm Vạn, Phan Hữu Dật, Bế Viết Đẳng, Lê Sĩ Giáo, Khổng
Diễn,... khái niệm "tộc người" đã được sử dụng và xác định khá rõ ràng,
thuyết phục. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu dù đã phân biệt sự khác nhau giữa
hai thuật ngữ "dân tộc" và "tộc người", nhưng trong tình huống cụ thể, vẫn sử
dụng thuật ngữ "dân tộc" để chỉ các tộc người.
Trong cơng trình: "Cộng đồng Quốc gia dân tộc Việt Nam" (2002), Đặng
Nghiêm Vạn đã chỉ ra thế nào là một dân tộc và thế nào là một tộc người.
Trong cơng trình của mình, tác giả đặt vấn đề cần nhìn nhận lại định nghĩa dân
tộc của J.V.Xtalin, đồng thời chỉ ra bốn con đường hình thành cộng đồng quốc
gia dân tộc [xem 93, 28 - 32]. Tác giả khẳng định, không thể lẫn cộng đồng tộc
người với cộng đồng dân tộc, bởi lẽ dân tộc “phải có hai yếu tố cơ bản: (1) dựa
trên một lãnh thổ, có một biên giới được xác định, (2) phải thành lập một nhà
nước được thế giới công nhận” [93, 33]. Còn tộc người, “ngược lại là một cộng
đồng mang tính tộc người, khơng nhất thiết phải cư trú trên cùng một lãnh thổ,
có chung nhà nước, dưới sự chỉ đạo của một chính phủ với những đạo luật
chung” [93, 33]. Qua đó, tác giả đưa ra định nghĩa về dân tộc và tộc người.
Phan Hữu Dật trong cuốn "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách
liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay" (2006), cũng tương đồng với

Đặng Nghiêm Vạn khi cho rằng, định nghĩa dân tộc của J.V.Xtalin ngày nay
“không phù hợp với thực tiễn không chỉ của phương Đông được hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm các dân tộc ở châu Á, châu Phi, Mỹ latinh, mà ngay cả
châu Âu cũng khơng cịn thích hợp” [23, 17 – 18]. Ơng khẳng định, cần phải
quay trở lại với quan điểm của C.Mác, Ph.Ăng ghen về dân tộc, khi các ông

7


nói, nhà nước là điều kiện tồn tại của dân tộc hay thuật ngữ dân tộc được
dùng để chỉ các cộng đồng người đạt trình độ có nhà nước, khơng phân biệt
đó là nhà nước loại gì. Trong cơng trình, tác giả cũng đưa ra định nghĩa về
quốc gia dân tộc và tộc người [xem 23, 26 – 28].
Bùi Xuân Đính (2012) trong cuốn: "Các tộc người ở Việt Nam" cũng chỉ ra
sự khác nhau giữa hai thuật ngữ "dân tộc" và "tộc người" [xem 21, 11 – 14]. Tuy
nhiên, tác giả cho rằng, việc dùng khái niệm "tộc người" vừa để chỉ dân tộc quốc
gia (dân tộc Việt Nam), lại vừa để chỉ một tộc người cụ thể (tộc người Tày,
Nùng...) trong các văn kiện chính trị, văn bản Nhà nước, các cơng trình khoa học,
sách báo và cả giao tiếp thường ngày ở nước ta lâu nay đã ăn sâu vào thói quen, ý
thức của các tầng lớp cư dân là không chuẩn về mặt khoa học.
Như vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu khi bàn đến định nghĩa dân tộc đều
thống nhất, dân tộc có hai cách hiểu: dân tộc – quốc gia và dân tộc – tộc người.
Tiếp thu các quan điểm ở những cơng trình nghiên cứu nêu trên, tác giả chỉ ra sự
khác nhau giữa hai thuật ngữ “dân tộc” và “tộc người”. Trong luận án, tác giả
bàn đến vấn đề dân tộc theo nghĩa hẹp: tộc người (ethnie).
Xét đến cùng, sự khác biệt và phức tạp của vấn đề định nghĩa tộc người
lại nằm ở việc xác định các tiêu chí cấu thành đặc điểm tộc người. Đây chính là
lĩnh vực giữa các nhà khoa học vừa có sự gặp gỡ nhau nhưng cũng có sự khác
biệt nhau trong nhận thức, lập luận và quan điểm.
Ở Việt Nam, những năm 60 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã quan

tâm đến việc xác định các tiêu chí cấu thành đặc điểm các tộc người. Trong thập
niên này, một số cơng trình viết về các tộc người Việt Nam và nhận diện đặc điểm
của các tộc người như: “Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam”
của Vương Hoàng Tuyên (1963), “Các dân tộc miền Bắc Trung Bộ” của Mạc
Đường (1964), “Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt
Nam” của Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn (1968),…
Năm 1973, sau một quá trình điều tra, nghiên cứu và chuẩn bị, tại Hà Nội đã
liên tiếp diễn ra hai hội thảo khoa học (trong tháng 6 và tháng 11) về tiêu chí xác định
đặc điểm các tộc người. Hội thảo đã đạt được sự nhất trí về các vấn đề trọng yếu là:

8


- Thống nhất lấy dân tộc (tộc người) làm đơn vị cơ bản trong việc xác
định thành phần các tộc người (tộc người) ở Việt Nam.
- Nhất trí về ba tiêu chí để xác định một dân tộc (tộc người) là:
1. Có tiếng nói chung (ngơn ngữ)
2. Có chung những đặc điểm sinh hoạt văn hóa
3.Có cùng ý thức tự giác, tự nhận cùng một dân tộc (tộc người) [xem 40,
33 - 34].
Tuy nhiên, từ năm 1979 đến nay, cả trong nghiên cứu lý luận cũng như
trong đời sống thực tiễn của các tộc người ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi.
Trong giáo trình: “Dân tộc người đại cương” xuất bản năm 1996 của Ngô
Văn Lệ và Nguyễn Văn Tiệp đã đưa ra bốn tiêu chí cấu thành đặc điểm chủ yếu
của tộc người là: ngôn ngữ tộc người, lãnh thổ tộc người, cơ sở kinh tế tộc người,
sinh hoạt văn hóa tộc người và ý thức tộc người.
Cịn Phan Hữu Dật (2002) tại Hội thảo “Bàn về tiêu chí xác định lại thành
phần một số dân tộc Việt Nam” cho rằng, ba tiêu chí ngơn ngữ, văn hóa và ý
thức tự giác tộc người, thể hiện trong tên tự gọi cần tiếp tục được duy trì và áp
dụng trong việc xác định thành phần tộc người ở nước ta. Tuy nhiên, theo ơng:

“Cần cân nhắc, có nên lấy thêm một tiêu chí thứ tư nữa khơng là có cùng chung
nguồn gốc lịch sử” [81, 44].
Một số học giả khác như Hoàng Lương, Nguyễn Văn Mạnh, Lê Ngọc
Thắng, Cao Thế Trình,… trong khi khẳng định giá trị của ba tiêu chí cấu thành
đặc điểm tộc người được đưa ra từ những năm 70 của thế kỷ XX, đã đề nghị cần
điều chỉnh hoặc bổ sung thêm một số tiêu chí khác.
Chẳng hạn, Hồng Lương đưa ra năm tiêu chí xác định đặc điểm cấu
thành của tộc người:
“1- Tiêu chí ý thức tự giác tộc người
2- Tiêu chí ngơn ngữ tộc người
3- Tiêu chí đặc trưng sinh hoạt văn hóa truyền thống
4- Tiêu chí lãnh thổ tộc người (chủ yếu là thời cổ đại)
5- Tiêu chí cơ sở kinh tế nguyên thủy” [ 81, 73]

9


Trong năm tiêu chí trên, Hồng Lương coi ý thức tự giác tộc người là tiêu
chí bao trùm nhất. Ơng nhấn mạnh: “Bốn tiêu chí trên đây khơng phải bắt đầu và
căn cứ vào tiêu chí ý thức tự giác tộc người. Nói khác đi, ý thức tự giác tộc
người sẽ là tiêu chí bao trùm và làm cơ sở cho việc xem xét các tiêu chí cịn lại.
Thực ra, khi một tộc người nào đó đã được sinh ra và tồn tại trong trong thời
gian thì tộc người đó cũng đã tự khẳng định được sức sống của mình. Khi bàn
phải dựa vào thực tế đó” [81, 73].
Ngược lại với Hoàng Lương, Nguyễn Văn Mạnh lại cho rằng, tiêu chí ý thức
tự giác tộc người chỉ là tiêu chí tham khảo, mà “1. Tiêu chí ngơn ngữ… 2. Tiêu chí
văn hóa… là hai tiêu chí cơ bản có tính quyết định cho sự tồn tại của các tộc người.
3. Ngồi ra chúng ta cịn chú ý đến các tiêu chí: ý thức tự giác tộc người, lãnh thổ
tộc người,… tộc người và chế độ nội hôn” [81, 76].
Trong khi đó, Lê Ngọc Thắng đưa ra năm tiêu chí cấu thành đặc điểm tộc

người là:
“1. Các tên gọi chung
2. Có ngơn ngữ chung
3. Có cùng nguồn gốc lịch sử và ý thức chung về nguồn gốc
4. Có bản sắc văn hóa riêng để phân biệt với tộc người khác
5. Có sự gắn kết với một vùng đất nhất định (trong lịch sử và trong hiện
tại” [81, 87].
Phân biệt dân tộc và tộc người, chỉ ra những tiêu chí để nhận diện đặc điểm
tộc người là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến. Những cơng trình nêu
trên đã đưa ra những nhận định hợp lý về sự khác nhau giữa dân tộc và tộc người và
được sự ủng hộ, thống nhất của giới nghiên cứu khoa học. Bàn về tiêu chí nhận diện
đặc điểm các tộc người, đặc biệt là tiêu chí nhận diện đặc điểm các tộc người ở Việt
Nam có khá nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều
nhận định, những tiêu chí cơ bản cấu thành đặc điểm các tộc người bao gồm: ngôn
ngữ, lịch sử tộc người, cơ sở kinh tế của tộc người, sinh hoạt văn hóa và ý thức tự
giác tộc người. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để, tác giả đã kế thừa và vận dụng vào
luận án của mình .

10


1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu biểu hiện và ảnh hưởng của đặc
điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước
Từ những năm 70 – 80 của thế kỷ XX, ở Việt Nam đã thu hút nhiều nhà
khoa học thuộc các chuyên ngành khác nhau (tộc người học, sử học, khảo cổ học,
triết học, văn hóa học, xã hội học,…) tham gia nghiên cứu về tộc người, đặc
điểm các tộc người ở Việt Nam,…
Hàng loạt cơng trình đã góp phần làm sáng tỏ q trình hình thành và biểu
hiện, ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam đến công cuộc đổi mới
đất nước. Nhiều học giả như Đặng Nghiêm Vạn, Ngô Văn Lệ, Lê Ngọc Thắng,

Phan Hữu Dật,… đều quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
Đặng Nghiêm Vạn (2003) với cơng trình: “Cộng đồng Quốc gia dân tộc
Việt Nam” khẳng định tầm quan trọng của việc nghiên cứu quá trình hình thành
các tộc người, cho thấy tính đa dạng và phức tạp của các tộc người và quan hệ
giữa các tộc người ở Việt Nam, cũng như với các tộc người của các nước láng
giềng. Trong cơng trình, trên cơ sở phân tích q trình hình thành quốc gia dân
tộc và tộc người thời kỳ tiền công nghiệp và công nghiệp, tác giả làm rõ sự ra
đời và phát triển của cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam đa tộc người [xem 93,
77 - 174]. Theo tác giả, hầu hết các tộc người hiện diện ở Việt Nam, tuy rất đa
dạng, nhưng lại có chung một cội nguồn, cùng sinh thành trong một khu vực lịch
sử - văn hóa, hay một khơng gian – xã hội, theo q trình lịch sử có biến đổi.
Bản thân tác giả cho rằng, tư liệu khảo cổ học và nhân cổ học khó lý giải vấn đề
này một cách trực tiếp, nhất là khi đề cập đến một tộc người cụ thể, mặc dầu là
những tư liệu mang tính lịch đại.
Từ đó, tác giả khẳng định, tính phức tạp của sự hình thành tộc người được
chi phối trước hết bởi hoàn cảnh địa lý – chính trị của nơi sinh tụ, trưởng thành
của từng tộc người, của thời gian mà các tộc người đã có mặt ở Việt Nam, trong
quá trình đấu tranh gay gắt chinh phục thiên nhiên, chống nguy cơ diệt chủng và
đồng hóa văn hóa của chính sách bành trướng của các triều đình phong kiến Hán
tộc, của chủ nghĩa thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, giành lại quyền tồn tại và phát

11


triển của bản thân từng tộc người và của cả cộng đồng quốc gia – dân tộc Việt
Nam. Nguyên nhân của sự tồn tại và phát triển của các tộc người Việt Nam chính
là nhờ có ý thức tự giác, tự nguyện đứng trong cộng đồng quốc gia – dân tộc Việt
Nam, luôn cùng các tộc người anh em cố kết thành một sức mạnh thống nhất về
mọi phương diện kinh tế, xã hội, văn hóa. Sức mạnh đó khơng chỉ thể hiện trong
những phút ngàn cân treo sợi tóc trước kẻ thù chung ln có sức mạnh hơn mình,

mà cịn trong những năm tháng hịa bình giúp đỡ, tương trợ nhau trong việc xây
dựng cuộc sống, trong việc tiếp biến nhuần nhuyễn những yếu tố văn hóa ngoại
sinh của các nền văn minh Ấn Độ, Trung Hoa và Tây phương để tạo nên bản sắc
và bản lĩnh văn hóa của từng tộc người và của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Trên cơ sở giải thích nguồn gốc hình thành các tộc người, tác giả cho rằng,
vấn đề phải lưu ý đến những đặc điểm của từng tộc người cũng như của các tộc
người trong đại gia đình Việt Nam, từ đó đặt ra được những chính sách, chủ
trương, biện pháp thích hợp với từng vùng, từng tộc người nhằm làm cho tất cả
các tộc người được đối xử bình đẳng, được tồn tại và phát triển ngang tầm với
thế giới văn minh trên bước đường tiến lên xây dựng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tác giả khái quát những đặc
điểm cơ bản của các tộc người ở Việt Nam [xem 93, 339 - 376]. Qua đó, khẳng
định, q trình cùng chung sống trong một đại gia đình Việt Nam, các tộc người
đã có một vận mệnh chung, hịa bình sản xuất trong những thời gian vắng bóng
quân thù, sát cánh chiến đấu trong những giây phút chống ngoại xâm, cùng cư trú
trên một vùng của Tổ quốc, sự giao lưu kinh tế, văn hóa, tương trợ, giúp đỡ nhau
giữa các tộc người ba miền đất nước quyện vào nhau thành một thể thống nhất
trong sinh hoạt kinh tế - xã hội. Do đó, trong suốt q trình lịch sử, ở Việt Nam
khơng có xu thế tự trị, ly khai giữa các tộc người, hình thành một ý thức tự giác về
bản thân bên cạnh ý thức tự giác về cộng đồng quốc gia – dân tộc Việt Nam, góp
phần làm cho tính cách con người, lối sống và văn hóa Việt Nam được biểu lộ
dưới hình thức mn màu mn vẻ, rất đa dạng và hấp dẫn. Bên cạnh đó, tình
trạng cư trú xen kẽ, các cộng đồng tộc người nhỏ bé hơn, theo tác giả, đang có tình
trạng dễ bị thu hút vào các tộc người khác do hỗn hơn, do đồng hóa văn hóa.

12


Làm rõ hơn về ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người đến các mặt của đời
sống ở Việt Nam hiện nay, tác giả cho rằng, bởi nhiều lý do, cư trú xen kẽ, trình độ

phát triển chênh lệch, sự trỗi dậy của ý thức tộc người dưới sự can thiệp của một số
nước lớn, các thế lực đối lập bên ngồi dẫn đến xu hướng một số nhóm địa phương
muốn riêng rẽ, tự mình tạo thành một tộc người, khơng khác gì xu thế phân ly từng
tộc người ra khỏi các quốc gia dân tộc đang phát triển hiện nay. Từ đó, tác giả
khẳng định, ở Việt Nam, hãy cảnh giác với âm mưu của lập nước Dega ở Tây
Nguyên, vương quốc Mông ở Tây Bắc hay ở ba nước Đông Dương được tiến hành
dưới chiêu bài quyện vấn đề tôn giáo với vấn đề tộc người, truyền bá đạo Vàng Chứ,
Thìn Hùng, Tin Lành Dega, một âm mưu đã thất bại thảm hại thông qua hai cuộc
kháng chiến, nay được dựng lại.
Ngơ Văn Lệ (2004) trong cơng trình: “Tộc người và văn hóa tộc người”
đã mơ tả chi tiết về tộc người, quá trình hình thành các tộc người trên thế giới và
Việt Nam [xem 40, 142 – 208]. Trong đó, tác giả lý giải ngun nhân hình thành
các tộc người nước ta, do vị trí địa lý Việt Nam nằm ở ngã ba giao lưu tộc người
và giao lưu kinh tế, văn hóa từ thời cổ đại nên ngồi những cư dân bản địa, nước
ta cịn tiếp nhận thêm nhiều tộc người từ bên ngoài đến. Theo tác giả, việc di cư
kéo dài trong nhiều thế kỷ làm cho bản đồ phân bố dân cư ở Việt Nam rất phức
tạp. Các tộc người do chia làm nhiều nhóm nhỏ sinh sống ở những vùng sinh thái
khác nhau, dẫn đến sự phân bố mang tính phân tán và xen kẽ rất cao. Đồng thời
tác giả chỉ ra, các tộc người ở nước ta trong quá trình phát triển của mình, do các
yếu tố tác động khơng chỉ diễn ra q trình cố kết giữa các nhóm trong nội bộ tộc
người, khơng chỉ diễn ra q trình đồng hóa tự nhiên của một bộ phận tộc người
này với tộc người khác, mà là q trình hịa hợp tộc người. Quá trình này xảy ra
giữa các tộc người thiểu số và giữa các tộc người thiểu số với các tộc người đa số.
Trong cơng trình trên, tác giả phân chia các tộc người theo những nhóm
ngơn ngữ khác nhau (ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ Nam Đảo và ngữ hệ Hán – Tạng),
đồng thời chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của các tộc người thiểu số ở Việt Nam,
cụ thể như:

13



Về đặc điểm cư trú của các tộc người, tác giả cho rằng, sự cư trú xen kẽ có
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình liên kết tộc người. Vì chính q trình sống xen kẽ đã
dẫn đến q trình tiếp xúc tộc người, dẫn đến giao lưu văn hóa giữa các tộc người,
làm cho xu hướng hòa nhập, liên kết, hình thành cộng đồng quốc gia – dân tộc.
Về đặc điểm văn hóa của tộc người, theo tác giả, văn hóa các tộc người Việt
Nam thể hiện tính thống nhất trong đa dạng. Các tộc người hiện nay sinh sống trên lãnh
thổ Việt Nam có nguồn gốc khác nhau, nhưng trải qua hàng ngàn năm cùng cộng cư
cùng tham gia vào q trình dựng nước và giữ nước, đó là cơ sở để các tộc người cố
kết lại tạo nên một cộng đồng dân cư thống nhất, một nền văn hóa thống nhất.
Về đặc trưng xã hội của tộc người, tác giả nhận định, đặc điểm xã hội của
các tộc người thiểu số ở nước ta phản ánh một thực tế có tính chất bao trùm cả
nước là sự phát triển không đồng đều giữa các tộc người. Sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945 và đặc biệt sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta có
những chính sách đối với từng vùng, từng tộc người, nhằm thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế, xã hội của các tộc người thiểu số. Cho đến nay, ở các vùng tộc
người thiểu số, tình hình đã có nhiều thay đổi, nhưng tình trạng phát triển khơng
đồng đều vẫn tồn tại cần phải có sự nỗ lực tồn diện mới có thể giảm đi sự chênh
lệch và sự cách biệt trong sự phát triển của các tộc người. Do đó, sự phát triển
chênh lệch giữa các tộc người sẽ ảnh hưởng khơng tốt đến quan hệ bình đẳng,
đồn kết giữa các tộc người ở nước ta hiện nay. Tác giả cho rằng, trong một
quốc gia đa tộc người, nếu không giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các tộc
người có thể dẫn đến làm suy yếu tính thống nhất của một cộng đồng.
Tác giả Bùi Xuân Đính (2012) với giáo trình: “Các tộc người ở Việt
Nam”, đã đánh giá, phân tích tình hình, đặc điểm của các nhóm tộc người ở Việt
Nam, từ nguồn gốc hình thành, đặc điểm kinh tế, xã hội đến đời sống văn hóa,
phong tục, tập quán, tín ngưỡng của từng vùng tộc người [xem 22, 41 – 241].
Trong cơng trình, tác giả bàn đến những đặc điểm cơ bản của các tộc người ở
nước ta. Qua đó, chỉ ra sự tác động của các yếu tố dân số, cư trú, trình độ phát
triển đến đời sống các tộc người ở Việt Nam hiện nay như:


14


Về đặc điểm dân số, tác giả cho rằng, sự chênh lệch về dân cư có ảnh
hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống, như: về kinh tế - xã hội: gây khó khăn
trong bố trí cơ cấu kinh tế, đào tạo và bố trí nguồn nhân lực cho các ngành kinh
tế - xã hội ở miền núi và vùng các tộc người thiểu số, nhất là các tộc có dân số
q ít. Về văn hóa: chênh lệch dân số dễ làm cho những vùng miền núi, vùng sâu,
vùng xa bị “đói văn hóa”, đối mặt với nguy cơ mai một văn hóa; cịn ở những
vùng có nhiều tộc người sống đan xen dễ xảy ra hiện tượng văn hóa của các tộc
người có dân số ít bị hịa vào văn hóa của nhóm đơng hơn. Về tính chất cư trú:
theo tác giả, tính chất cư trú xen kẽ có mặt thuận lợi là tạo ra sự đa dạng văn hóa,
tạo điều kiện để các tộc người giao lưu học hỏi những cái hay, cái đẹp của nhau,
thúc đẩy quá trình xích lại gần nhau giữa các tộc người. Tuy nhiên, tác giả cho
rằng, cư trú xen kẽ, do các tộc người khác nhau về lối sống, phong tục tập qn,
tín ngưỡng, tâm lý, tơn giáo, tính cách nên gây khó khăn trong quản lý xã hội,
đồng thời dễ mai một văn hóa các tộc người, nhất là đối với những tộc người có
số dân ít. Về trình độ phát triển: tác giả chỉ ra rằng, các tộc người ở Việt Nam có
sự chênh lệch đáng kể về trình độ phát triển (hay phát triển khơng đồng đều) và
có xuất phát điểm thấp. Tác giả phân tích làm rõ sự chênh lệch giữa các nhóm
tộc người cả ở lĩnh vực kinh tế và xã hội. Đồng thời, khẳng định, xã hội và con
người của các tộc người có mặt tích cực là thuần phác, đơn hậu, tính cộng đồng
tương trợ rất cao. Song, bên cạnh đó, có mặt hạn chế là sức ỳ, bảo thủ, trì trệ, níu
kéo cộng đồng [xem 22, 60 – 80].
Các tác giả: Trần Quang Nhiếp (1997):“Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt
Nam hiện nay”, Trịnh Quốc Tuấn – Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) (1999):
“Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam,
Phan Hữu Dật (chủ biên) (2001): “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên
quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay”, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương

(2002): “Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam”,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006): “Tập bài giảng Lý luận về dân
tộc và chính sách dân tộc”, Đậu Tuấn Nam (chủ biên) (2010): “Vấn đề dân tộc và

15


quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay”,… đã đề cập và phân tích làm rõ những
biểu hiện của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong bối cảnh đổi mới đất nước.
Bên cạnh đó, có nhiều cơng trình nghiên cứu những đặc trưng về kinh tế xã hội hay văn hóa của các tộc người. Tiêu biểu cho nhóm nghiên cứu về đặc
điểm kinh tế - xã hội các tộc người có thể kể đến cơng trình của Khổng Diễn
(1995): “Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam”, của Lê Du Phong, Hoàng
Văn Hoa (1998): “Phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo
hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, của Ủy ban Dân tộc và Miền núi (2001):
“55 năm công tác dân tộc và miền núi (1946 – 2001)”, của Lê Ngọc Thắng
(2005): “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam”, của Phan Xuân
Sơn, Lưu Văn Quảng (2006): “Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở
nước ta hiện nay” và một số bài viết ở các tạp chí như: Tạp chí Sinh hoạt lý luận,
số 1 – 2000, Trương Minh Dục: “Quản lý, sử dụng đất đai ở Tây Nguyên – nhìn
từ thực tiễn”, Tạp chí Cộng sản, số 7 – 2002, Bùi Minh Đạo: “Nghèo đói và
giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt Nam”,…
Các nghiên cứu này đã phân tích tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội các
tộc người ở Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua; đánh giá các biến đổi
về chỉ số phát triển kinh tế, đặc điểm di cư tộc người, chất lượng nguồn nhân
lực, những nghiên cứu về giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, lao động việc làm
được đặt trong mối quan hệ tương hỗ với phát triển toàn diện vùng đồng bào
các tộc người.
Tiêu biểu cho nhóm nghiên cứu về đặc điểm văn hóa các tộc người là các
cơng trình: “Văn hóa tộc người, văn hóa Việt Nam” của Hồng Nam (1998),
“Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển đất

nước” của Phan Hữu Dật, Ngô Đức Thịnh, Lê Ngọc Thắng, Nguyễn Xuân Độ
(Ban chủ nhiệm đề tài) (1998), “Tộc người và văn hóa tộc người” của Ngơ Văn
Lệ (2004), “Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa” của Trần Văn Bính (2006), “Văn hóa, văn hóa tộc người và
văn hóa Việt Nam” của Ngơ Đức Thịnh (2006), “Đại cương về văn hóa dân tộc
thiểu số Việt Nam” của Phan Đăng Nhật (2012),…

16


Các nghiên cứu loại này cho thấy tính phong phú và đa dạng của bức
tranh văn hóa các tộc người ở nước ta. Đây là một trong những căn cứ để việc
xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Có thể nói, các cơng trình trên được coi là cơ sở khoa học và thực tiễn
cho việc nghiên cứu đặc điểm các tộc người ở Việt Nam. Nước ta đang tiến hành
công cuộc đổi mới đất nước trong điều kiện Việt Nam là một quốc gia đa tộc
người, đánh giá những biểu hiện và ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người đến
tiến trình đổi mới góp phần thực hiện nhiệm vụ đặt ra của đất nước hiện nay. Do
vậy, những cơng trình nghiên cứu về đặc điểm các tộc người nêu trên là chất liệu
để tác giả kế thừa, qua đó làm rõ những vấn đề liên quan đến đặc điểm các tộc
người: sự hình thành, biểu hiện và ảnh hưởng của nó đối với cơng cuộc đổi mới
đất nước hiện nay.
1.1.3. Những cơng trình nghiên cứu về giải pháp điều tiết những ảnh
hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới đất nước
Việc phân tích làm rõ những đặc điểm các tộc người ở Việt Nam là một căn
cứ quan trọng để giải quyết vấn đề tộc người và quan hệ tộc người trong công cuộc
đổi mới đất nước. Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều cơng trình nghiên cứu khẳng định
sự cần thiết của việc nhận thức rõ đặc điểm các tộc người trong việc định hướng
phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… của đất nước, cụ thể như:
Hoàng Đức Nghi (2001) trong cuốn: “Về công tác dân tộc trong 10 đổi

mới (1990 – 2000)” khẳng định việc nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện chính sách
tộc người phải căn cứ vào trình độ phát triển của từng tộc người, từng vùng tộc
người, căn cứ vào bản sắc văn hóa riêng của từng tộc người, như tiếng nói, chữ
viết, trang, sắc phục, tập qn, dịng họ để thực hiện cơng tác dân tộc ở các
ngành, các cấp có hiệu quả. Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng tức là nghiên
cứu, thấm nhuần và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào hồn cảnh cụ thể của Việt Nam, nghiên cứu và nắm vững thực trạng từng
vùng tộc người, từng tộc người, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân các tộc người
để cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho phù hợp với

17


trình độ và hồn cảnh, điều kiện của mỗi tộc người và vùng tộc người; các chính
sách phải phù hợp với quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và thích hợp với phong
tục, tập qn của đồng bào, khơng áp đặt kinh nghiệm của vùng dân trí cao, như
thành thị, khiến cho đồng bào các tộc người khó tiếp thu, thực hiện.
Tác giả Phan Hữu Dật (2001) trong cuốn: “Mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay” cho rằng, giải quyết
vấn đề tộc người phải khơng thốt ly đặc điểm tộc người. Đây là một vấn đề có ý
nghĩa thời sự và thực tiễn cho tới hôm nay. Các triều đại phong kiến trước đây
khi giải quyết vấn đề tộc người đã căn cứ vào đặc điểm tộc người (tập quán, tâm
lý, trình độ phát triển kinh tế - xã hội,...) và đó là bài học kinh nghiệm q giá.
Trong cơng trình, tác giả phân tích những đặc điểm cơ bản của các tộc người thiểu
số nước ta; đánh giá đặc trưng của một số vùng tộc người như vùng tộc người Khơ
Me, Chăm, Mông, Thái, Hoa và vùng Tây Nguyên. Qua đó, tác giả nêu một số
khuyến nghị và phương hướng phấn đấu thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [xem 24, 331 – 348].
Ngô Văn Lệ (2004) trong cuốn: “Tộc người và văn hóa tộc người”, trên
cơ sở phân tích những tiêu chí xác định tộc người, đặc điểm các tộc người ở

Việt Nam, tác giả nhận định, không nên coi thường đặc điểm tộc người, san
bằng đặc điểm tộc người. Trong sự phát triển hiện nay của các tộc người không
nên thúc đẩy q trình hịa hợp tộc người một cách giả tạo, chủ quan thiếu hiểu
biết trước từng khởi đầu của từng tộc người những trình độ kinh tế, xã hội khác
nhau, bắt tay vào xây dựng mới chưa có tiền lệ. Mặt khác, phải chống những
biểu hiện của chủ nghĩa tộc người hẹp hòi, quá đề cao những đặc điểm tộc
người, làm cản trở quá trình phát triển khách quan tất yếu của tộc người, của
nhân loại. Đương nhiên, cũng cần lưu ý đúng mức những đặc điểm có thể dẫn
đến những hậu quả nghiêm trọng. Vì vấn đề tộc người là vấn đề hết sức nhạy
cảm, cần phải giải quyết [xem 40, 221 – 222].
Cơng trình: “Một số vấn đề về dân tộc và phát triển” của Lê Ngọc Thắng
(2005), tác giả nhận định, trong thời kỳ này, tộc người đang trở thành vấn đề quốc

18


gia, quốc tế mang tính thời sự sâu sắc. Nếu khơng có chính sách đảm bảo được lợi
ích tộc người sẽ làm nảy sinh những yếu tố gây nên tình trạng mất ổn định, an
ninh chính trị ở một số nước và khu vực trên thế giới. Đây cũng là mục tiêu mà
các thế lực thù địch trên thế giới lợi dụng triệt để nhằm kích động sự nổi dậy của
chủ nghĩa dân tộc – chủ nghĩa tộc người; nhằm kích động sự ly khai, chia rẽ khối
đại đồn kết của các dân tộc và tộc người trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Tác
giả cho rằng, phát triển kinh tế - xã hội các vùng tộc người là trách nhiệm của tồn
Đảng, tồn dân, trong đó, nhấn mạnh vai trò quản lý của Nhà nước đối với vấn đề
tộc người, nhưng phải trên cơ sở thích ứng với tình hình, đặc điểm tộc người. Theo
tác giả, quản lý Nhà nước về công tác tộc người phải được xây dựng trên các cơ sở
lý luận và thực tiễn nhất định, phù hợp với tình hình cụ thể của từng quốc gia về
thực trạng thành phần tộc người, đặc điểm lịch sử, văn hóa quốc gia; yêu cầu và
nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước trong từng giai đoạn cụ thể [xem 69, 27].
Cơng trình: “Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện

nay” của các tác giả Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng (đồng chủ biên) (2006)
đưa ra cái nhìn hệ thống về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta qua các
thời kỳ từ năm 1930 đến nay; có những tổng kết và phân tích sâu sắc về những
vấn đề đặt ra cho việc thực hiện chính sách dân tộc. Các tác giả cho rằng, trong
những năm đổi mới, song song với bước phát triển về kinh tế, những đổi mới về
chính trị, thì chính sách dân tộc với tư cách là một bộ phận của chính sách quốc
gia đã bộc lộ nhiều yếu kém, xơ cứng và bất cập. Chính sách đó chưa phản ánh
đầy đủ những thực tế, yêu cầu bức xúc trong quá trình chuyển đổi tồn bộ nền
tảng kinh tế - xã hội từ mơ hình tập trung quan liêu bao cấp sang mơ hình kinh tế
thị trường, mở rộng dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền. Một số mục tiêu
như định canh, định cư, xóa đói giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, bảo tồn văn hóa
tộc người, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các tộc người,… đều không thực
hiện được như kế hoạch đề ra. Từ những kiến giải về tình hình, đặc điểm các tộc
người, nhóm tác giả đã đưa ra một số quan điểm, giải pháp góp phần thực hiện
tốt chính sách dân tộc ở nước ta thời kỳ đổi mới [xem 60, 209 – 248].

19


Hồng Chí Bảo (2009) trong cơng trình: “Bảo đảm bình đẳng và tăng
cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện
nay” đã chỉ ra tầm quan trọng của việc đổi mới nhận thức và tăng cường giáo
dục nhận thức về tộc người. Theo tác giả, trong khi chú trọng giáo dục ý thức
tộc người, trách nhiệm và bổn phận đối với việc giữ gìn, bảo vệ độc lập chủ
quyền quốc gia – dân tộc người và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam,
chúng ta đồng thời phải nêu cao ý thức tơn trọng những gì thuộc về ý thức, tâm
lý và văn hóa tộc người của đồng bào các tộc người thiểu số. Bởi lẽ, theo tác
giả, hình thành trong những điều kiện tự nhiên và lịch sử, các tộc người không
sinh sống biệt lập mà xen kẽ nhau, cùng tham gia vào cộng đồng, hòa nhập để
phát triển nhưng vẫn bảo tồn những nét riêng, sắc thái riêng của mình từ cách

thức sản xuất, tổ chức đời sống, tiếng nói, chữ viết đến tâm lý, phong tục, tập
quán, cả những luật tục như những thỏa ước trong một bộ phận cộng đồng tộc
người ở miền núi, tương tự như hương ước ở nông thôn đồng bằng, trong ứng
xử, tự quản cộng đồng. Đồng thời, tác giả cho rằng, thực hiện chính sách dân
tộc trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, xây dựng hệ thống chính trị và
đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở vùng đa tộc người, đào tạo
nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện vùng đồng bào các tộc người
thiểu số và miền núi là những giải pháp quan trong trong giải quyết vấn đề tộc
người ở nước ta hiện nay [xem 3, 289 – 392].
Lơ Quốc Toản (2010) với cơng trình: “Phát triển nguồn cán bộ dân tộc
thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”, tập trung phân tích thực
trạng cơng tác phát triển nguồn cán bộ các tộc người thiểu số ở các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta. Tác giả cho rằng, để giải quyết vấn đề cán bộ làm công tác dân
tộc, cần tiến hành tổng kết thực tiễn, từng bước đổi mới nội dung chính sách,
phương thức thực hiện chính sách và mơ hình tạo nguồn cán bộ các tộc người
thiểu số theo hướng khắc phục dần tính chất phân tán, tập trung vào những vấn
đề có tính chất chiến lược và những địa bàn dân tộc trọng điểm. Có thể thấy,
phát triển nguồn cán bộ của các tộc người cũng không thể tách rời việc xem xét

20


đặc điểm tộc người, vùng tộc người, tổng kết, đánh giá tình hình thực tiễn. Đây
là căn cứ quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược đặt ra trong giải quyết
vấn đề tộc người nước ta hiện nay [xem 76, 160 – 228].
Có thể nói, trong thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu cơng
bố, đưa ra những nhận định về đặc điểm các tộc người ở Việt Nam, tuy nhiên,
còn ở dạng nhận diện, thống kê, chưa nghiên cứu sâu và có hệ thống. Một số
cơng trình đã chỉ ra những đặc điểm khái quát của các tộc người ở Việt Nam.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở việc phân tích những biểu hiện của các đặc điểm đó.

Đặc biệt, có ít cơng trình nghiên cứu những đặc điểm tộc người: biểu hiện và
những ảnh hưởng của nó đến cơng cuộc đổi mới đất nước. Đây là một nội dung
cần tập trung nghiên cứu sâu sắc hơn, phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện
chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Sau
30 năm đổi mới, chúng ta có điều kiện nhìn lại tồn diện q trình đổi mới. Việc
đánh giá một cách khách quan, khoa học quá trình đổi mới, rút ra những bài học
thiết thực, tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối, đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ
cơng cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng, đáp ứng nguyện vọng và sự mong đợi của nhân dân” [20, 31 – 32].
Qua nhiều năm đổi mới, Đảng ta đã đúc kết thêm kinh nghiệm và rút ra những
bài học trong giải quyết các vấn đề tộc người, miền núi và vùng tộc người, trong
đó, đặc điểm tộc người là một trong những căn cứ quan trọng để xây dựng chính
sách đối với tộc người hiện nay. Do đó, địi hỏi cần có nhiều cơng trình nghiên
cứu xem xét, đánh giá những biểu hiện và ảnh hưởng của đặc điểm tộc người
đến quá trình đổi mới của đất nước. Đây cũng là một mảng vấn đề chưa có nhiều
cơng trình nghiên cứu đồng bộ, chun sâu. Vì vậy, tác giả luận án với mong
muốn xây dựng một cách hệ thống quan điểm về đặc điểm các tộc người ở Việt
Nam, đặc biệt là xem xét những biểu hiện và ảnh hưởng của các đặc điểm đó
trong cơng cuộc đổi mới, qua đó đưa ra một số giải pháp điều tiết những ảnh
hưởng của đặc điểm các tộc người đến q trình phát triển của đất nước. Những
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu nêu trên là căn cứ lý luận quan trọng để tác giả
triển khai luận án của mình.

21


Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án:
- Phân tích, làm rõ biểu hiện và ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở
Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Q trình đổi mới đang đặt ra hàng
loạt vấn đề phải tập trung giải quyết, trong đó, nổi lên vấn đề mối quan hệ giữa

phát triển kinh tế và phát triển văn hóa – xã hội. Sự nghiệp đổi mới gắn với q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa hướng tới một mục tiêu rõ rệt: tăng trưởng kinh tế phải gắn với
phát triển văn hóa – xã hội, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nhằm mục tiêu đó, sự
nghiệp đổi mới đất nước địi hỏi phải giữ gìn những giá trị truyền thống của dân
tộc, đặc biệt là những giá trị thể hiện quan hệ hài hịa, mang tính cộng đồng giữa
cá nhân và xã hội, giữa con người và tự nhiên.
Đối với một quốc gia đa tộc người như nước ta, để có căn cứ xây dựng và
thực hiện những nhiệm vụ nêu trên, đặc điểm tộc người trở thành thước đo đánh
giá, tác động đến mọi mặt của tiến trình đổi mới đất nước. Ở các tộc người khác
nhau, có đặc điểm lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau. Vì thế, mỗi tộc
người sẽ hình thành đặc điểm văn hóa với những phong tục, tập quán, tâm lý,
thói quen, chuẩn mực đạo đức, tư tưởng,… không giống nhau, phản ánh tồn tại
xã hội của chính tộc người ấy. Những đặc điểm đó tác động ít hay nhiều đến tiến
trình phát triển của cộng đồng tộc người. Do đó, ở Việt Nam, làm rõ những biểu
hiện và ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người đến công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay là nhiệm vụ trọng tâm mà luận án muốn làm sáng tỏ.
- Đặc điểm các tộc người có tác động nhiều chiều đến công cuộc đổi mới
đất nước, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Do vậy, luận án đưa ra một
số giải pháp điều tiết những ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam
trong công cuộc đổi mới đất nước .
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Tộc người
Dân tộc (nation) và tộc người (ethnie) là những khái niệm có mối liên hệ
mật thiết với nhau, tuy thống nhất mà không đồng nhất, giữa chúng có những
điểm khác biệt cần nhận rõ.

22



Tuy nhiên, việc phân biệt làm rõ sự khác nhau giữa hai thuật ngữ dân tộc
và tộc người và vẫn còn nhiều tranh cãi. Kể từ khi trên thế giới hình thành một
hình thức cộng đồng dân tộc mới: dân tộc tư bản chủ nghĩa, trong giới khoa học
và chính trị ở các quốc gia này phát sinh những cuộc tranh luận dai dẳng về hình
thức cộng đồng dân tộc kiểu mới trên. Bối cảnh đó, xuất hiện định nghĩa về dân
tộc của J.V.Xtalin. Quan niệm này đã chi phối suốt một thời gian dài trong giới
mác xit toàn thế giới: “Dân tộc là một khối cộng đồng người ổn định, thành lập
trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt
kinh tế và về hình thành tâm lý biểu hiện trong cộng đồng về văn hoá” [100, 15].
Ở định nghĩa của mình, J.V.Xtalin cho rằng dân tộc là một phạm trù lịch
sử, là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của nhiều nhân tố, trong đó lần đầu tiên
nhân tố kinh tế được khẳng định. Ông cũng quan niệm, phải có đủ cả bốn nhân
tố (ngơn ngữ, lãnh thổ, kinh tế, văn hóa) mới hình thành dân tộc. Tuy nhiên,
trong thực tế có những cộng đồng chưa hội tụ đủ cả bốn nhân tố hoặc một nhân
tố tạm thời bị phủ định (như lãnh thổ hoặc nền kinh tế tạm thời bị chia cắt)
nhưng cộng đồng đó vẫn được coi là dân tộc. Định nghĩa này của J.V.Xtalin chỉ
phù hợp với dân tộc – quốc gia gắn với sự hình thành của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Việc không thừa nhận sự tồn tại của dân tộc trước chủ nghĩa tư
bản của ông đã không phản ánh đúng đặc trưng của tiến trình phát triển các cộng
đồng người trong lịch sử.
Theo C.Mác: “Sự hình thành dân tộc gắn liền với sự ra đời của nhà nước.
Nhà nước là điều kiện tồn tại sau này của dân tộc” [43, 713]. C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, nếu như nhà nước là điều kiện tồn tại của dân tộc thì hình
thái cộng đồng người dưới chế độ chiếm hữu nô lệ là dân tộc chiếm hữu nô lệ,
dưới chế độ phong kiến là dân tộc phong kiến, trong chế độ tư bản là dân tộc tư
sản. Các ông khẳng định: “Nhờ cải tiến mau chóng cơng cụ sản xuất và làm cho
các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả
những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của
giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc

những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục.
Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không

23


sẽ bị tiêu diệt; nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa
là phải trở thành tư sản” [43, 602]. Trong cuộc cách mạng vô sản, hai ông cho
rằng: “… giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự
vươn lên thành dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” [43, 623 - 624].
Như vậy, không giống J.V.Xtalin, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê
nin đều cho rằng, thuật ngữ dân tộc không chỉ để áp dụng cho dân tộc tư sản, mà
còn để gọi các cộng đồng người trong các xã hội có nhà nước, dưới các hình thái
kinh tế - xã hội khác nhau: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng
sản chủ nghĩa. Nói cách khác, có dân tộc tư sản, dân tộc tiền tư sản và dân tộc
hậu tư sản. Thuật ngữ dân tộc được dùng để chỉ các cộng đồng người đạt trình
độ có nhà nước, khơng phân biệt đó là nhà nước loại gì.
Ở Việt Nam, cần có quan niệm thống nhất dựa trên những tiêu chí chung
của tộc người, bởi vấn đề khơng chỉ liên quan đến nhận thức tộc người dưới góc
độ khoa học mà còn liên quan đến nhận thức trong hoạt động thực tiễn như việc
xác định thành phần tộc người ở một quốc gia đa tộc người, giải quyết các quan
hệ tộc người mà nhiệm vụ quan trọng là việc đưa ra và thực hiện đúng chính
sách đối với các tộc người. Do nhu cầu cấp thiết của vấn đề tộc người, trong các
văn kiện chính trị, văn bản pháp luật, chính sách nhà nước, các cơng trình khoa
học hay trên các phương tiện thông tin đại chúng và cả giao tiếp thường ngày, ở
nước ta dùng khái niệm “dân tộc” vừa để chỉ một tộc người cụ thể (dân tộc
Mường, dân tộc Kinh, dân tộc Thái…), vừa để chỉ một cộng đồng quốc gia của
nhiều tộc người (dân tộc Việt Nam).
Lúc sinh thời, khi bàn về vấn đề dân tộc, Hồ Chí Minh phân biệt rất rõ hai
khái niệm dân tộc – quốc gia và dân tộc – tộc người. “Khi nói về tất cả các dân

tộc đa số và thiểu số sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, Người dùng thuật ngữ
dân tộc Việt Nam, hay nhân dân Việt Nam. Đó là dân tộc – quốc gia mà sinh thời
GS. Vương Hồng Tun đã từng có bài viết gọi là “quốc tộc”” [24 ,57]. Tuy
nhiên, Người quan niệm rằng, trên đất nước Việt Nam khơng chỉ có một tộc
người cụ thể sinh sống, mà Việt Nam là quốc gia gồm nhiều thành phần tộc
người khác nhau. Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại

24


Plâycu, ngày 19/4/1946, Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau,
no đói giúp nhau” [45, 217]. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ
họp Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người khẳng định:
“Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc” [47, 587].
Trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt, dân tộc được định nghĩa như sau:
“Dân tộc. 1. Một cộng đồng người ổn định hình thành trong quá trình lịch sử của
xã hội, có chung tiếng nói, lãnh thổ, đời sống kinh tế và tâm lý: đoàn kết dân tộc.
2. Dân tộc thiểu số, nói tắt: ưu tiên học sinh dân tộc. Cán bộ dân tộc. 3. Cộng
đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, một quốc gia gắn bó với nhau
trong truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi: dân tộc Việt Nam” [101, 520].
Trong cơng trình “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến
mối quan hệ dân tộc hiện nay”, tác giả cho rằng:
“a) Dân tộc – quốc gia, quốc tộc dưới các hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau (từ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, đến tư sản và xã hội chủ nghĩa) chỉ tất cả
các dân tộc, đa số và thiểu số, nằm trong một quốc gia (đối với quốc gia đa dân
tộc) như: Việt Nam, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Mỹ .v.v., hoặc để chỉ dân tộc
nằm trong một quốc gia đơn nhất thành phần dân tộc, như dân tộc Triều Tiên
(Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên).

b) Dân tộc chưa đạt trình độ hình thành dân tộc quốc gia.
c) Dân tộc đa số trong một quốc gia đa dân tộc.
d) Các dân tộc thiểu số trong một quốc gia đa dân tộc” [24, 24 - 25].
Còn trong cuốn: “Dân tộc học đại cương” của Lê Sĩ Giáo, tác giả quan
niệm: “Khái niệm dân tộc thực chất phải được hiểu là tộc người (ethnie). Tộc người
là một hình thái đặc biệt của một tập đoàn xã hội xuất hiện không phải do ý nguyện
của con người mà là trong kết quả của quá trình tự nhiên – lịch sử” [29 ,8].
Hồng Chí Bảo trong cơng trình: “Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp
tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay” cho
rằng: “Dân tộc hay quốc gia – dân tộc (nation) là một cộng đồng chính trị - xã

25


×