Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

(Luận án tiến sĩ) tư tưởng hồ chí minh về kỷ luật của đảng và vận dụng trong chỉnh đốn đảng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 179 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGUYỄN HẢI YẾN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG VÀ
VẬN DỤNG TRONG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGUYỄN HẢI YẾN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG VÀ
VẬN DỤNG TRONG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY

Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 62 31 02 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Minh Trƣởng

Hà Nội - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án này là kết quả quá trình
học tập và nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
ghi trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả

Nguyễn Hải Yến


BẢNG CHỮ CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

NQTW

: Nghị quyết Trung ương

PCTN


: Phòng chống tham nhũng

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

UBKT

: Ủy ban Kiểm tra

UBKT TƯ : Ủy ban Kiểm tra Trung ương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án .......................................4
5. Đóng góp mới của luận án ...................................................................................5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ..............................................................5
7. Kết cấu của luận án ..............................................................................................6
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ...........................................................................................................7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ...........................................7
1.2. Khái qt kết quả nghiên cứu từ các cơng trình đã công bố và các vấn đề luận án
cần tiếp tục giải quyết ..............................................................................................25
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................28
Chƣơng 2: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN ...................................................................................................................29

2.1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................29
2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng .............36
2.3. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng ...................................42
2.4. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng ........................................67
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................................73
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG TRONG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA ............................................................................................................74
3.1. Sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng trong chỉnh
đốn Đảng ................................................................................................................74


3.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng trong chỉnh
đốn Đảng ...............................................................................................................79
3.3. Những vấn đề đặt ra ......................................................................................105
Tiểu kết chƣơng 3 ..................................................................................................114
Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC VẬN DỤNG TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG TRONG CHỈNH ĐỐNĐẢNG
HIỆN NAY………………………………………………………………………..116
4.1. Các nhân tố tác động đến việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của
Đảng trong chỉnh đốn Đảng hiện nay ..................................................................116
4.2. Phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng trong
chỉnh đốn Đảng hiện nay .....................................................................................123
4.3. Giải pháp tiếp tục vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của
Đảng trong chỉnh đốn Đảng hiện nay ..................................................................128
Tiểu kết chƣơng 4 ....................................................................................................155
KẾT LUẬN ............................................................................................................157
DANH MỤC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN .....................................................................................................160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................161



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thấm nhuần và vận dụng khoa học, sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong sạch,
vững mạnh, suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến vấn đề kỷ luật của Đảng. Theo Người, kỷ luật của Đảng là một yếu tố quan
trọng bảo đảm cho Đảng có sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thống nhất ý
chí và hành động, gắn bó chặt chẽ các thành viên trong tổ chức đảng; bảo đảm cho Đảng
tồn tại, hoạt động và phát triển. Người luôn nhấn mạnh: trong cuộc đấu tranh quyết liệt,
đầy gian khổ, hy sinh để giành lấy chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam phải có kỷ
luật thật nghiêm minh thì mới vượt qua được mọi hoàn cảnh, mọi thử thách của cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh, kỷ luật của Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản, là
công việc thường xuyên nhằm chỉnh đốn Đảng. Ngược lại, muốn chỉnh đốn Đảng cần
phải có sự quyết đốn của Đảng trong xử lý tổ chức đảng và đảng viên sai phạm. Theo
Người: Kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật tự giác nhưng là kỷ luật nghiêm minh, kỷ luật sắt,
lỗi lầm có việc to, việc nhỏ, nếu nhất luật không xử phạt sẽ làm mất kỷ luật của Đảng, sẽ
để kẻ xấu lợi dụng chui vào hàng ngũ Đảng. Người đảng viên, vô luận trong hoàn cảnh
nào, địa vị nào cũng phải quyết tâm thực hiện cho kỳ được chính sách của Đảng, của
Chính phủ. Muốn kỷ luật của Đảng được thực hiện tốt, cần phải tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát và thực hiện tốt tự phê bình và phê bình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ
luật của Đảng bao gồm một hệ thống các quan điểm về mục đích, tính chất, nội dung,
phương châm, phương pháp, ý nghĩa và tác dụng kỷ luật của Đảng, là một bộ phận cấu
thành quan trọng trong khoa học xây dựng Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của
Đảng có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn rất to lớn. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều
cơng trình nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện những nội dung trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về kỷ luật của Đảng. Do đó, cần nghiên cứu một cách có hệ thống, phân tích,
luận giải làm sáng tỏ các quan điểm Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng, qua đó khẳng
định giá trị bền vững, giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật
của Đảng trong sự nghiệp cách mạng và trong giai đoạn đổi mới hiện nay.

1


Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Khi Đảng trở thành Đảng cầm
quyền, đặc biệt là trong tình hình xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; mặt trái
của cơ chế thị trường và những tác động xấu của nó đến nhiều cán bộ, đảng viên đang
trở thành những nguy cơ thách thức đối với Đảng (sai lầm về đường lối, bệnh quan
liêu, sự thối hóa biến chất của cán bộ, đảng viên v.v…) thì kỷ luật của Đảng càng có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong vấn đề chỉnh đốn Đảng. Bảo đảm cho Đảng ta luôn
thống nhất, trong sạch, vững mạnh có sức chiến đấu cao, tiếp tục lãnh đạo thành công
sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong sự nghiệp đổi mới, việc thực hiện kỷ luật của Đảng trong chỉnh đốn
Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng, Nhà nước quán triệt sâu sắc và
phải đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật
của Đảng trong chỉnh đốn Đảng đã có nhiều chuyển biến và hiệu quả thiết thực
nhưng vẫn còn hạn chế, thiếu sót, bất cập. Tình trạng vi phạm kỷ luật của tổ chức
đảng và đảng viên có chiều hướng tăng, diễn ra phức tạp và ngày càng tinh vi nhưng
chậm được phát hiện và xử lý kịp thời. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn cịn
nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh
hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình trạng suy thối về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa
bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận cịn diễn biến phức tạp hơn. Chính kỷ luật, kỷ cương
chưa nghiêm và chưa có những giải pháp đủ mạnh để khắc phục, giải quyết là một
trong những nguyên nhân cơ bản làm cho tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong bộ máy công quyền kéo dài,
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Nhận thức rõ thực tiễn ấy, Hội nghị TW4 (khóa XI) của
Đảng đã xác định ba nội dung trọng yếu, cấp bách về công tác xây dựng Đảng. Trong
đó, đặc biệt nhấn mạnh nội dung phải ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về

chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Nghị quyết số 04-NQ/TW (khóa XII) đã
2


chỉ rõ những biểu hiện, nguyên nhân và các nhóm giải pháp, nhiệm vụ nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Xuất phát từ thực tiễn trên cùng với
việc quán triệt quan điểm và tinh thần của Nghị quyết TW4 (khóa XI), Nghị quyết
TW4 (khóa XII) của Đảng vào chỉnh đốn Đảng hiện nay càng phải đẩy mạnh hơn
nữa việc quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng. Đây là
một việc có ý nghĩa rất thiết thực, là yêu cầu cấp bách, là biện pháp cơ bản trong
chỉnh đốn Đảng. Vì vậy, chúng tơi chọn đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật
của Đảng và vận dụng trong chỉnh đốn Đảng hiện nay làm luận án Tiến sỹ Khoa
học Chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật
của Đảng và phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của
Đảng trong chỉnh đốn Đảng thời gian qua, từ đó đề xuất các phương hướng, giải
pháp tiếp tục vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng
trong chỉnh đốn Đảng hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, khái quát kết
quả nghiên cứu từ các cơng trình đã cơng bố và xác định những vấn đề luận án cần
tiếp tục nghiên cứu và làm rõ.
- Hệ thống hóa và phân tích làm rõ nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
về kỷ luật của Đảng, trong đó tập trung làm rõ mối quan hệ giữa kỷ luật của Đảng
và chỉnh đốn Đảng để từ đó thấy được sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh về kỷ luật của Đảng trong chỉnh đốn Đảng hiện nay.
- Phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng
trong chỉnh đốn Đảng hiện nay và những vấn đề đặt ra.

3


- Đề xuất các phương hướng và giải pháp chủ yếu để tiếp tục vận dụng có
hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng trong chỉnh đốn Đảng hiện
nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Hệ thống các quan điểm Hồ Chí Minh về
kỷ luật của Đảng và vận dụng những quan điểm đó trong chỉnh đốn Đảng hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Tồn bộ q trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về kỷ luật của Đảng; vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình
cách mạng, đặc biệt là từ Đại hội VIII (1996) đến nay.
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh về kỷ luật
của Đảng (cả lý luận và thực tiễn chỉ đạo của Người); Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng trong chỉnh đốn Đảng hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và về kỷ luật của Đảng nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp logic và lịch sử, ngoài ra còn kết
hợp các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn
để triển khai các nhiệm vụ luận án đặt ra. Cụ thể:
+ Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp được sử dụng nhằm
phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng.
+ Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm làm rõ sự kế thừa và phát
4


triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng từ lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
+ Phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp thống kê được sử dụng
vào việc nghiên cứu, đánh giá các công trình khoa học, quan điểm của Đảng, Nhà
nước và các chuyên gia về vấn đề kỷ luật của Đảng nói chung, tư tưởng Hồ Chí
Minh về kỷ luật của Đảng nói riêng.
+ Phương pháp logic, phương pháp lịch sử và tổng kết thực tiễn được sử
dụng nhằm làm rõ việc thực hiện kỷ luật của Đảng trong chỉnh đốn Đảng mà Hồ
Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo trong quá trình cách mạng. Mặt khác, thơng qua
nghiên cứu những kết quả đạt được và hạn chế trong việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về kỷ luật của Đảng trong chỉnh đốn Đảng hiện nay để xác định các
vấn đề đặt ra, từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp để tiếp tục vận dụng có
hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đã bước đầu làm rõ khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của
Đảng; phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng.
- Luận án đã nghiên cứu một cách hệ thống những nội dung trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về kỷ luật của Đảng. Trên cơ sở đó, luận án đã rút ra giá trị to lớn của tư tưởng Hồ
Chí Minh về kỷ luật của Đảng trong sự nghiệp cách mạng và trong giai đoạn hiện nay.
- Luận án đã phân tích làm rõ mối quan hệ giữa kỷ luật của Đảng và chỉnh đốn

Đảng để từ đó thấy được sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật
của Đảng trong chỉnh đốn Đảng hiện nay. Trên cơ sở phân tích thực trạng vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng trong chỉnh đốn Đảng hiện nay và
những vấn đề đặt ra, luận án đã đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm tiếp tục
vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng, góp phần tăng
cường chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí
Minh về kỷ luật của Đảng và vận dụng trong chỉnh đốn Đảng hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
5


nghiên cứu và giảng dạy, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng,
về cơng tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các cơng trình đã cơng bố của tác
giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
thành 4 chương, 12 tiết.

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về kỷ luật của Đảng
Thời gian qua, vấn đề kỷ luật của Đảng đã được nhiều nhà khoa học, các cơ
quan chức năng và các cán bộ hoạt động thực tiễn trong nước và ngồi nước nghiên

cứu dưới nhiều góc độ, nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Qua tìm hiểu và nghiên
cứu có thể phân ra thành các nhóm tài liệu như sau:
Ủy ban Kiểm tra Trung ương (UBKT TƯ) là cơ quan có rất nhiều các cơng
trình nghiên cứu về kỷ luật của Đảng, nhằm làm tài liệu huấn luyện nghiệp vụ cho
cán bộ làm cơng tác kiểm tra nói riêng và phổ biến rộng rãi đến độc giả nói chung.
Các cơng trình được UBKT TƯ chủ trì biên soạn được viết dưới nhiều hình thức
khác nhau. Các nghiên cứu được UBKT TƯ biên soạn dùng làm tài liệu huấn luyện
nghiệp vụ như: Sách Công tác kiểm tra và việc thi hành kỷ luật trong Đảng (tài liệu
biên soạn năm 2002). Tài liệu này đã dành một mục riêng về kỷ luật của Đảng. Nội
dung tài liệu đã lý giải về mục đích, ý nghĩa, tính chất, nội dung của kỷ luật của
Đảng, thẩm quyền thi hành kỷ luật của Đảng theo tiêu chí đối tượng chịu kỷ luật là
đảng viên và tổ chức đảng. Sách: Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
trong Đảng [147], đây là tài liệu tập huấn nghiệp vụ dùng cho tổ chức đảng ở cơ sở
của UBKT TƯ. Sách do các chuyên gia, những người làm công tác kiểm tra, giám
sát của UBKT TƯ biên soạn. Cuốn sách đã đề cập đến vấn đề kỷ luật của Đảng và
việc thi hành kỷ luật trong Đảng. Nội dung được đề cập khá tồn diện về khái niệm,
mục đích, ý nghĩa, tính chất, nội dung, ý nghĩa, tác dụng, phương hướng, phương
châm, hình thức, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật của Đảng. Tuy nhiên, những
vấn đề mà cuốn sách nêu ra mới dừng lại như sự giới thiệu mà chưa đi phân tích sâu
về vấn đề kỷ luật của Đảng. Sách: Kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu
hiệu vi phạm [111] do Tạp chí Kiểm tra biên soạn. Nội dung cuốn sách là tập hợp
7


các bài viết về công tác kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm
đã được đăng trên Tạp chí những năm vừa qua. Mặc dù nội dung các bài viết không
liên quan trực tiếp đến vấn đề kỷ luật của Đảng nhưng đây cũng là nguồn tư liệu bổ
ích vì thực hiện tốt cơng tác kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi
phạm chính là cơ sở và căn cứ quan trọng để kỷ luật của Đảng được thực hiện
nghiêm minh, tự giác.

Ngồi ra, UBKT TƯ cịn xây dựng một số báo cáo tổng kết hằng năm, nửa
nhiệm kỳ và nhiệm kỳ, báo cáo chuyên đề, báo cáo hằng năm của Ủy ban Kiểm tra
(UBKT) tỉnh, thành ủy cũng được đề cập đến. Nội dung các báo cáo chuyên đề, báo
cáo tổng kết công tác mới chỉ phản ánh tình hình chấp hành kỷ luật và thi hành kỷ
luật trong Đảng là chủ yếu, chưa có sự đánh giá tồn diện, rút ra những vấn đề có
tính lý luận và thực tiễn về kỷ luật của Đảng. Các báo cáo tổng kết, sơ kết, báo cáo
chuyên đề nói trên đã cung cấp những số liệu thực tế quý báu, là cơ sở để tác giả
đánh giá thực trạng kỷ luật của Đảng, từ đó đề xuất những giải pháp tồn diện và
đồng bộ hơn. Các cơng trình nghiên cứu do UBKT TƯ chủ trì biên soạn là những
cơng trình nghiên cứu cơng phu, nghiêm túc, mang tính tổng kết cao, là tâm huyết
của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn. Các cơng trình nghiên cứu
trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả luận án nói riêng, người đọc nói chung
và rất cần thiết cho các cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Ngoài cơ quan chuyên trách là UBKT TƯ, vấn đề kỷ luật của Đảng đã được nhiều
nhà khoa học, các cán bộ hoạt động thực tiễn nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nguyễn Thị Doan (Chủ biên) cơng trình Đổi mới cơng tác kiểm tra, kỷ luật
nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới [20]. Đây
là một cơng trình thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Các tác giả đã
trình bày luận cứ khoa học của đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, các tác
giả cho rằng: Kỷ luật của Đảng là những quy tắc, quy định, quy chế trong hoạt động
của Đảng, do Đảng đặt ra, có hiệu lực bắt buộc thi hành và tuân theo đối với mọi
đảng viên và tổ chức đảng. Phân tích thực trạng cơng tác kiểm tra, kỷ luật trong
Đảng từ năm 1986 đến nay qua các nhiệm kỳ Đại hội VI và VII (từ 12-1986 đến 68


1996), các tác giả nhận định: Sự phát triển ngày càng sâu rộng và phức tạp của tình
hình kinh tế - xã hội đang tác động mạnh đến đảng viên dẫn đến tình hình vi phạm
ngày càng gia tăng, làm suy thối một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên trong
Đảng. Trên cơ sở phân tích thực trạng, các tác giả đã đưa ra quan điểm, định hướng,
yêu cầu và một số giải pháp chủ yếu đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng

trong giai đoạn cách mạng mới. Quan điểm và định hướng đổi mới công tác kiểm
tra, kỷ luật của Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền nói chung và về cơng tác kiểm tra, kỷ luật của
Đảng nói riêng làm cơ sở. Xuất phát từ yêu cầu về đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật
của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, cần đổi mới tổ chức, nâng cao phẩm chất,
năng lực của UBKT các cấp, đổi mới phương thức hoạt động kiểm tra, nội dung và
hình thức thi hành kỷ luật của Đảng. Cơng trình này thực sự hữu ích cho tác giả của
luận án nghiên cứu và tham khảo.
Tác giả Bùi Văn Thể (Chủ biên) trong cuốn sách Tự phê bình và phê bình
trong cơng tác kiểm tra, kỷ luật đảng [121] cho rằng mối quan hệ giữa tự phê bình
và phê bình với cơng tác kiểm tra là mối quan hệ giữa chủ thể kiểm tra, kỷ luật đảng
với đối tượng kiểm tra và thi hành kỷ luật đảng, với đối tượng có liên quan đến đối
tượng kiểm tra, thi hành kỷ luật của đảng. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên
cứu vì hiện nay chất lượng tự phê bình và phê bình trong đảng cịn thấp, có ảnh
hưởng khơng nhỏ đến kỷ luật của Đảng.
Lê Văn Giảng (Chủ biên) trong sách Nâng cao chất lượng thực hiện dân
chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng [45] đã nêu
những vấn đề lý luận cơ bản về dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật của Đảng. Các tác giả cho rằng, dân chủ và kỷ luật của Đảng có mối
quan hệ biện chứng với nhau, là hai mặt không thể tách rời trong một thể thống
nhất của chế độ sinh hoạt đảng. Kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải được đảm bảo
bằng kỷ luật. Kỷ luật được thể hiện bằng các nguyên tắc, quy định của Đảng. Kỷ
luật vừa phải là điều kiện thực hiện dân chủ vừa phải đảm bảo đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ. Các tác giả nhấn mạnh, trong thời đại ngày nay, dân chủ và kỷ
9


luật rất cần thiết và quan trọng cho việc xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng,
tầm trí tuệ, văn hóa cao, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Các tác giả đã phân tích thực trạng chất lượng thực hiện dân chủ

trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Từ đó đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ trong công
tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.
Một cơng trình nghiên cứu khá hệ thống về kỷ luật của Đảng phải kể đến tác
giả Nguyễn Công Học (Chủ biên) trong cuốn Một số giải pháp bảo đảm việc chấp
hành kỷ luật và thi hành kỷ luật trong Đảng hiện nay [50]. Cuốn sách đã đề cập đến
một số vấn đề lý luận về kỷ luật của Đảng; nêu ra các khái niệm và chỉ ra các đặc
trưng của kỷ luật, chấp hành kỷ luật và việc thi hành kỷ luật của Đảng; quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng Việt Nam về
kỷ luật của Đảng; các tiêu chí đánh giá chất lượng việc chấp hành kỷ luật và việc thi
hành kỷ luật trong Đảng. Thực trạng việc chấp hành kỷ luật và việc thi hành kỷ luật
trong Đảng từ năm 2001 đến năm 2010. Từ đó các tác giả đề xuất một số giải pháp
bảo đảm việc chấp hành kỷ luật và việc thi hành kỷ luật đảng trong tình hình hiện
nay. Đáng chú ý, từ trang 23 đến trang 36, các tác giả có đề cập đến tư tưởng Hồ
Chí Minh về kỷ luật của Đảng. Tuy nhiên, nội dung còn chưa đầy đủ, chưa phân
tích, làm rõ được cơ sở, nội dung và giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về kỷ luật của Đảng. Về cơ bản, đây là một cơng trình nghiên cứu sâu sắc,
tồn diện về kỷ luật của Đảng nói chung.
Kỷ luật của Đảng cũng là vấn đề được nhiều nhà khoa học chọn làm đối
tượng nghiên cứu trong các đề tài khoa học của mình. Đáng chú ý phải kể đến: Đề
tài khoa học mã số KXBĐ 11 Thực trạng và các giải pháp nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật của Đảng trong tình hình hiện nay [109] do
tập thể tác giả Hoàng Kim Sơn, Lê Văn Giảng, Lê Xu (Đồng chủ nhiệm). Đề tài
KX03.07 nhánh 2 Thực trạng công tác kiểm tra - kỷ luật trong Đảng ở các đảng bộ
Miền Trung và Tây Nguyên do Nguyễn Công Học (Chủ nhiệm). Đề tài khoa học mã
số KHBĐ-01 Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tự phê bình và phê
10


bình trong cơng tác kiểm tra, kỷ luật Đảng [120] do Bùi Văn Thể (Chủ nhiệm). Đề tài

khoa học mã số KHBĐ-45 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác kiểm tra tài
chính đảng của Ủy ban Kiểm tra các cấp [133] do Tô Quang Thu (Chủ nhiệm). Các
đề tài trên đã hệ thống, khái quát một số quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về từng mặt của công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng. Đồng thời cũng đã đánh giá được thực trạng công tác kiểm tra,
kỷ luật của Đảng, nhất là kiểm tra, kỷ luật của Đảng ở một số địa phương, ngành, rút
ra những kinh nghiệm và đề xuất được giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm
tra, kỷ luật của Đảng có giá trị. Tiếp cận từ góc độ mối quan hệ giữa kiểm tra, giám
sát, kỷ luật của Đảng với vấn đề kiểm sốt quyền lực hiện nay có đề tài cơ sở Công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng với kiểm soát quyền lực ở nước ta theo tinh
thần Đại hội XII của Đảng [138] do Mai Trực (Chủ nhiệm). Đề tài đã phân tích rõ
lý luận và thực tiễn về quyền lực và kiểm soát quyền lực; đánh giá đúng thực trạng
việc kiểm soát quyền lực qua công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng từ nhiệm
kỳ Đại hội X của Đảng đến nay, những vấn đề đặt ra và bài học kinh nghiệm; đề xuất
quan điểm, phương hướng, mục tiêu, yêu cầu và giải pháp về công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng đối với kiểm soát quyền lực và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền.
Đề tài đã làm rõ mối quan hệ giữa công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng với cơng
tác kiểm sốt quyền lực; là vấn đề đang được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm; nhiều
giải pháp kiểm soát quyền lực tập trung vào phịng, chống sự tha hóa quyền lực, tham
nhũng, “lợi ích nhóm” đưa ra có tính tính khả thi, có giá trị cao trong thực tiễn.
Kỷ luật của Đảng là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, vì vậy đã có
nhiều luận án, luận văn lựa chọn chủ đề này làm đề tài nghiên cứu. Luận án tiến sĩ
Chính trị học, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Trương Thị
Thông Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách của Đảng trong
tình hình hiện nay [122]. Luận án tiến sĩ Chính trị học của Lê Tiến Hào Công tác
kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong giai đoạn hiện nay [48]. Luận án Tiến sĩ Chính
trị học, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Thế Tư
Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của Ủy ban kiểm
11



tra huyện ủy ở các tỉnh duyên hải miền Trung giai đoạn hiện nay [142]. Nhìn
chung, các luận án nêu trên, các tác giả đề cập đến công tác kiểm tra, xây dựng đội
ngũ kiểm tra Đảng một cách toàn diện và có hệ thống. Các cơng trình nghiên cứu
tập trung vào nội dung công tác kiểm tra, kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng khi có
dấu hiệu vi phạm. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn ở các địa
phương, các tác giả đã đề xuất giải pháp để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
Liên quan trực tiếp đến vấn đề kỷ luật của Đảng phải kể đến Luận án tiến sĩ
Khoa học Chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của tác giả
Lê Văn Cường, Kỷ luật của Đảng và thi hành kỷ luật trong Đảng ở các Đảng bộ
tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ hiện nay [15].Tác giả luận án đã đưa ra khái niệm kỷ
luật của Đảng theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp; mục đích, tính chất, nội dung,
hình thức kỷ luật của Đảng; vai trò, đặc trưng, phương châm, phương pháp thi hành
kỷ luật của Đảng. Đáng chú ý, tác giả luận án đã so sánh sự giống và khác nhau
giữa thi hành kỷ luật trong nội bộ Đảng với thi hành kỷ luật của Nhà nước. Đây
chính là điểm gợi mở để tác giả luận án tiếp cận vấn đề mình nghiên cứu một cách
hợp lý, đồng bộ hơn.
Khai thác một khía cạnh khác liên quan đến kỷ luật của Đảng, một số luận án
đã nghiên cứu công tác kỷ luật của Đảng trong quân đội như: Luận án PTSKH của
Nguyễn Văn Tuấn, Nâng cao tính tự giác chấp hành kỷ luật của chiến sĩ quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị quân sự, 1995. Luận án PTSKH
của Nguyễn Thanh Long (1991), Phân tích mâu thuẫn trong q trình củng cố và
tăng cường kỷ luật của Quân đội nhân dân Việt Nam, Học viện Chính trị quân
sự,1991. Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn Văn Thanh (2004), Mối quan hệ
giữa phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường kỷ luật trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay. Luận án Tiến sĩ Lịch sử của Trần Bá Thanh (2003), Giữ
nghiêm kỷ luật tổ chức cơ sở Đảng các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng
chiến đấu trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay.


12


Thời gian qua cũng có nhiều luận văn thạc sĩ nghiên cứu về cơng tác kiểm
tra, giám sát nói chung và về kỷ luật của Đảng nói riêng. Nội dung những luận văn
đó các tác giả đã đề cập đến chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng một cách tồn diện và có hệ thống, địa bàn nghiên cứu cả ba miền Bắc Trung - Nam trải dài khắp đất nước. Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Văn Chấn, Tăng
cường kỷ luật Đảng trong giai đoạn hiện nay [13]. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Phạm Huy Giáp, Chất lượng công tác kiểm
tra của Ủy ban Kiểm tra quận, huyện ủy ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện
nay [46]. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của
Nguyễn Khắc Bát, Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Ủy ban Kiểm tra
huyện, thị ủy thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay [9]. Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Xã hội học của Nguyễn Việt Phương, Thực trạng đảng viên vi phạm
kỷ luật Đảng trên địa bàn Hà Nội hiện nay [104]. Các nghiên cứu trên đã nêu lên
quan niệm về chất lượng công tác thi hành kỷ luật trong Đảng, các yếu tố cấu thành
và các tiêu chí đánh giá chất lượng công tác thi hành kỷ luật của Đảng ở các địa
phương mà mình nghiên cứu. Trên cơ sở phân tích thực trạng, các tác giả đã rút ra
kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác thi hành
kỷ luật của Đảng nơi địa phương mình nghiên cứu.
Kỷ luật của Đảng là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, là một bộ phận cấu thành của khoa học Xây dựng Đảng. Với tầm
quan trọng đặc biệt như vậy nên rất nhiều lãnh đạo Đảng, nhà nghiên cứu đã dành
khơng ít tâm huyết để viết về đề tài này, có thể liệt kê một cách khái quát như sau:
Về những vấn đề lý luận có liên quan đến kỷ luật của Đảng, có một số
nghiên cứu sau: Một số vấn đề cần lưu ý khi thực hiện công tác kiểm tra, kỷ luật
trong Đảng [19] của Nguyễn Thị Doan. Về năm quan điểm chỉ đạo công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng [47] của Đoàn Thế Hanh. Khơng để kỷ luật nhầm đảng viên
chân chính [62] của Nguyễn Anh Liên. Giữ nghiêm kỷ luật nhưng rất cần cả tính
nhân văn [103] của Lê Mai Phương. Tơn trọng kỷ luật Đảng là đạo đức cách mạng

của người cộng sản [56] của Trần Duy Hưng.
13


Về thực trạng và phương hướng, giải pháp tăng cường kỷ luật của Đảng có các
cơng trình sau: Lê Hồng Liêm (Chủ biên), Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, trở ngại
của Ủy ban Kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi
phạm [64]. Lê Hồng Liêm (Chủ biên), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với
phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay [63]. Quán triệt và thực hiện tốt quan
điểm Đại hội XI của Đảng về quản lý, giám sát đảng viên [72] của Nguyễn Phi Long.
Giải pháp nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ - đảng viên trong giai đoạn
hiện nay [115] của Ngô Văn Thạo. Giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại
kỷ luật của Đảng [130] của Cao Văn Thống, Đỗ Xuân Tuất, Dương Trung Ý (Đồng
chủ biên). Giải pháp nâng cao chất lượng phát hiện, xác định, quyết định kiểm tra tổ
chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm [129] của Cao Văn Thống, Đỗ Xuân
Tuất, Dương Trung Ý, Phạm Đức Tiến (Đồng chủ biên). Tăng cường kiểm tra, giám
sát góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng [157] của Trần
Quốc Vượng v.v...
Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, tác giả Cao Văn Thống
đã có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu dưới dạng đề tài, sách và các bài tạp chí.
Một số nghiên cứu tiêu biểu của tác giả về vấn đề này là: Giải pháp khắc phục khó
khăn trong cơng tác nắm tình hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm [131]. Khắc phục
nhận thức và hành động lệch lạc trong thi hành kỷ luật Đảng [132].
Nhìn chung, những cơng trình kể trên của các tác giả về vấn đề kỷ luật của
Đảng đã được nghiên cứu một cách khá toàn diện, phong phú, từ quan điểm của các
nhà kinh điển cho đến thực trạng kỷ luật của Đảng. Nhiều bài viết đã luận giải sâu sắc
nguyên nhân của khuyết điểm, hạn chế, từ đó nêu lên những kiến nghị, giải pháp có giá
trị đảm bảo cho việc chấp hành kỷ luật và thi hành kỷ luật trong Đảng có hiệu quả. Ở
một khía cạnh khác, các cơng trình trên là những chỉ dẫn tham khảo quý báu giúp tác giả
có hướng tiếp cận đúng đắn, làm sâu sắc hơn những nội dung nghiên cứu trong luận án.

Kỷ luật của đảng không chỉ nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
trong nước mà cịn được nhiều nhà nghiên cứu nước ngồi quan tâm luận bàn.

14


Trung Quốc và Việt Nam đều là các nước XHCN do Đảng Cộng sản cầm
quyền. Cũng giống như Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc đang đứng trước
vấn đề xây dựng đảng phong liêm chính, kiên quyết trừng trị những đảng viên thối
hóa biến chất. Việc tăng cường xây dựng đảng cầm quyền, nâng cao năng lực cầm
quyền của đảng là vấn đề căn bản liên quan đến toàn diện công tác và sự yên ổn lâu
dài của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Chính vì vậy, xung quanh vấn đề kỷ luật của
đảng nói chung và kỷ luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc nói riêng, đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu của các nhà lãnh đạo, các nhà khoa học Trung Quốc quan tâm
luận bàn. Một số nghiên cứu đã được dịch sang tiếng Việt, đáng chú ý là cuốn sách
Cái gốc để tạo dựng Đảng - nền tảng của việc cầm quyền - ngọn nguồn của sức
mạnh [51]. Cuốn sách là tài liệu của Bộ biên tập chính trị Tạp chí Cầu Thị (Trung
Quốc) trong đó tập hợp các bài nói, bài viết của tác giả Lý Mậu Quản, Lý Kiện Vệ,
Thường Quang Dân, Cát Hồng Trạch, Quách Hằng, Trịnh Trường Minh, Trương
Thành. Nội dung chủ yếu mà các tác giả Trung Quốc đề cập đến chính là sự luận giải
về tư tưởng “ba mặt đại diện” của đồng chí Giang Trạch Dân. Trong các bài viết, các
tác giả Trung Quốc cũng đã đề cập đến quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc
về kỷ luật của Đảng và yêu cầu phải trừng trị nghiêm những đảng viên đã hủ bại, vi
phạm kỷ luật của Đảng.
Trong Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Xây dựng Đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm
của Trung Quốc, tổ chức tại Hà Nội, 2004, đã có một số bài tham luận của các tác
giả Trung Quốc bàn về xây dựng đảng và vấn đề kỷ luật của đảng. Tiêu biểu như:
Khơng ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền, tăng cường năng
lực chống tha hóa, phịng biến chất và chống rủi ro của Hạ Quốc Cường; Thực tiễn

và sự tìm tịi về xây dựng tổ chức cơ sở và xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng
Cộng sản Trung Quốc của Lý Bồi Nguyên; Kiên trì phương châm quản lý Đảng
nghiêm minh, triển khai cuộc xây dựng Đảng phong liêm chính và đấu tranh chống
tham nhũng của Chu Húc Đông; Tăng cường xây dựng Đảng ủy địa phương, phát
huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo của Triệu Gia Kỳ. Trong các bài viết, các tác
15


giả Trung Quốc đã phân tích một số nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hiện tượng vi
phạm kỷ luật của đảng viên Trung Quốc, những cách làm và kinh nghiệm chủ yếu
về tăng cường và cải tiến xây dựng bản thân của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong
điều kiện cầm quyền.
Tài liệu Điều lệ giám sát nội bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc là văn bản
quy định về giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính trong Đảng và Nhà
nước. Điều lệ giám sát nội bộ đề ra “90 điều cấm” đối với cán bộ, đảng viên. Trong
đó xác định đối tượng giám sát trọng điểm là cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo các
cấp, đặc biệt là người phụ trách của ban lãnh đạo. Tài liệu Điều lệ Xử lý kỷ luật của
Đảng Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2003 với 178 điều. Nguyên tắc chỉ đạo là
Đảng phải quản lý Đảng, quản lý Đảng phải nghiêm. Tổ chức các cấp của Đảng và
tồn thể đảng viên cần tn thủ và giữ gìn kỷ luật của Đảng. Đối với tổ chức Đảng và
đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, cần phải xử lý nghiêm túc. Ngoài những quy định
chung trong Điều lệ Đảng, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc còn ban hành bộ
quy tắc đạo đức của cán bộ, đảng viên nhằm bảo đảm tính trong sạch khi thi hành
cơng vụ, góp phần chống tham nhũng.
Cũng giống như Việt Nam và Trung Quốc, Đảng nhân dân cách mạng Lào là
Đảng Cộng sản cầm quyền. Vấn đề kỷ luật của đảng cũng được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu của Lào về vấn đề kỷ
luật của đảng được dịch sang Tiếng Việt có số lượng rất hạn chế. Chỉ có một số luận
án được bảo vệ bằng tiếng Việt có đề cập đến cơng tác kiểm tra của Lào, trong đó có
đề cập đến kỷ luật của đảng như sau: Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng

(cấp tỉnh) ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay của Khăm Phăn Mi La
Vơng (2005), Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Chất lượng công tác kiểm tra của Đảng bộ Bộ Quốc phòng nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay của Sẻng Khăm Don
Phôm Mạ Păn Nha (2010), Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Chất lượng công tác kiểm tra của Ủy ban kiểm
tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh phía Bắc nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
16


trong giai đoạn hiện nay của Chăn Sy Seng Sôm Phu (2011), Luận án Tiến sĩ Chính
trị học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đây là các
cơng trình luận án với nội dung chủ yếu đề cập đến chất lượng công tác kiểm tra và
nâng cao chất lượng công tác kiểm tra ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong
giai đoạn hiện nay. Phần bàn về kỷ luật của đảng chưa được đề cập đến nhiều và cũng
không nằm trong phạm vi nghiên cứu của Luận án.
Các cơng trình nghiên cứu kể trên đều khẳng định, kỷ luật của Đảng có vị trí,
vai trị vơ cùng quan trọng đối với các Đảng Cộng sản, nhất là trong điều kiện Đảng
cầm quyền. Các tài liệu ở nước ngoài trên đã cung cấp những tham khảo lý luận và
thực tiễn sinh động về kỷ luật của đảng ở mỗi nước, đồng thời cũng nêu ra nhiều kinh
nghiệm và bài học quý báu để tác giả tham khảo và kế thừa trong luận án.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng
Tác giả Cao Văn Thống (chủ biên) trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh
về kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng [123] đã chọn lọc một số tác phẩm của Hồ
Chí Minh liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Phần thứ
hai tập hợp bài của các nhà khoa học nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Các bài nghiên cứu được tập hợp trong cuốn
sách đã đề cập đến nhiều quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của
Đảng như: Quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kiểm tra và kỷ luật của
Đảng; quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết, dân chủ và kỷ luật của Đảng; về

đặc tính của cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; về tính chủ động,
chiến đấu, giáo dục, hiệu quả trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng;
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật đảng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng
hiện nay v.v…Đặc biệt, một số tác giả đã đề cập và đi phân tích nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về kỷ luật và thi hành kỷ luật trong Đảng ở những khía cạnh khác
nhau và phạm vi nhất định. Tác giả Tuấn Minh trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí
Minh về các đặc tính của cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng [123,
tr.238] đã cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
của Đảng là một hệ thống hoàn chỉnh, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
17


cách mạng Việt Nam, của Đảng trong quá trình hình thành, phát triển, cả trong lúc
hoạt động bí mật cũng như khi hoạt động công khai, cả khi chưa trở thành đảng cầm
quyền và cả trong điều kiện đảng cầm quyền, lãnh đạo tồn hệ thống chính trị và
tồn xã hội. Tác giả khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám
sát và kỷ luật của Đảng rất rộng, với nhiều nội dung, trong đó có các đặc tính như
tính Đảng; tính nguyên tắc, tính lãnh đạo; tính tổ chức, tính kỷ luật; tính chủ động,
tính chiến đấu, giáo dục, hiệu quả; tính dân chủ; tính khoa học, thận trọng, chặt chẽ;
tính trách nhiệm; tính nhân văn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng cũng đã được một số nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu, tiêu biểu: Kỷ luật và việc thực hiện kỷ luật trong Đảng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh [143] của Nguyễn Thế Tư. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề kỷ luật và thi hành kỷ luật của Đảng của Đỗ Xuân Tuất [140]. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về kỷ luật và thi hành kỷ luật Đảng [123, tr.297] của tác giả Thu Hà. Hồ
Chí Minh với vấn đề đồn kết, dân chủ và kỷ luật trong Đảng [124] và Tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trị, trách nhiệm của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật Đảng [126] của tác giả Cao Văn Thống. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
về kỷ luật và thi hành kỷ luật của Đảng [17] của tác giả Lê Văn Cường. Trong các
nghiên cứu này, các tác giả đã đề cập đến một số nội dung trong tư tưởng Hồ Chí

Minh về kỷ luật của Đảng như: Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết của kỷ luật
đảng; về vị trí, vai trị, nội dung, mục đích, ý nghĩa, tác dụng kỷ luật của Đảng và
thi hành kỷ luật trong Đảng; về phương châm, phương pháp thi hành kỷ luật của
Đảng. Các tác giả đều có nhận định chung rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật
của Đảng là một hệ thống quan điểm đồng bộ, hoàn chỉnh, khoa học và chặt chẽ.
Việc làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng sẽ giúp thống nhất trong
nhận thức và hành động của tổ chức đảng và đảng viên. Từ đó vận dụng và thực
hiện tốt việc xây dựng các quy định về kỷ luật đảng phù hợp với tình hình thực tế
trong từng thời kỳ, để tổ chức đảng và đảng viên có cơ sở, căn cứ chấp hành nghiêm
túc; khi có khuyết điểm, vi phạm thì xem xét, xử lý cơng minh, chính xác, kịp thời,
bảo đảm giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững
18


mạnh. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta phải nhận thức được tầng sâu bản chất các
quan điểm, tư tưởng đó của Hồ Chí Minh như thế nào và hành động ra sao trong
thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tác giả Lê Văn Cường trong bài Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển
sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác kiểm tra, kỷ luật của
Đảng [16] đã khẳng định: Hồ Chí Minh khơng chỉ tn thủ trung thành với chủ nghĩa
Mác - Lênin mà Người còn sáng tạo, bổ sung, phát triển thêm những nội dung mới,
làm phong phú thêm vấn đề kỷ luật của Đảng, phù hợp với thực tiễn của Đảng. Sự
sáng tạo, bổ sung, phát triển của Hồ Chí Minh được biểu hiện ở: Một là, cụ thể hoá rõ
hơn, đầy đủ hơn mục đích của thi hành kỷ luật trong Đảng. Hai là, giải thích rõ hơn
tính chất của kỷ luật Đảng. Ba là, làm rõ nội dung của kỷ luật Đảng, bao gồm kỷ luật
trong nội bộ Đảng (thể hiện tập trung ở Điều lệ), kỷ luật của chính quyền và kỷ luật
của các đồn thể. Bốn là, phân tích rõ mối quan hệ giữa dân chủ, đoàn kết với kỷ luật.
Đoàn kết - kỷ luật, dân chủ - kỷ luật luôn luôn đi liền với nhau, không tách rời nhau.
Năm là, phương châm thi hành kỷ luật Đảng phải đảm bảo sự công minh, công khai,
dân chủ. Mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật đảng; phải làm từ trên xuống

dưới và từ dưới lên trên một cách nghiêm túc và tự giác.
Những nghiên cứu này đã góp phần làm sáng tỏ hơn nội dung, giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng, đồng thời chỉ ra những bài học kinh
nghiệm, những giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường cơng tác kỷ luật của Đảng
trong tình hình mới.
Có thể thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng đã được nhiều
nhà khoa học quan tâm sâu sắc và có những cơng trình nghiên cứu, tổng kết cả về lý
luận và thực tiễn. Tuy nội dung các bài viết rất phong phú, đa dạng nhưng chưa làm
rõ và phân tích chuyên sâu tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng. Những nội
dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật của Đảng như mục đích, ý nghĩa, tính
chất, nội dung, hình thức, phương châm, phương pháp kỷ luật của Đảng cần phải
được phân tích và làm sáng tỏ hơn nữa, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn
to lớn đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
19


×