Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và vận dụng vào việc thực hiện đòan kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay tt.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.02 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGÔ GIA THẾ



Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
và vận dụng vào việc thực hiện đoàn kết
tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp trong
giai đoạn hiện nay




LUẬN VĂN THẠC SỸ






HÀ NỘI – 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGÔ GIA THẾ



Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
và vận dụng vào việc thực hiện đoàn kết
tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp trong
giai đoạn hiện nay

Chuyên ngành: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 64 31 27



LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Đình Hòa


HÀ NỘI - 2011

1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 4
NỘI DUNG 12
Chƣơng 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 12
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn
giáo 12
1.1.1. Cơ sở lý luận 12
1.1.2. Cơ sở thực tiễn 23
1.2. Quan điểm đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
25
1.2.1. Đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn
giáo 26
1.2.2. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau 30
1.3. Một số nguyên tắc và phương pháp về đoàn kết tôn giáo trong
tư tưởng Hồ Chí Minh 34
1.3.1. Một số nguyên tắc về đoàn kết tôn giáo trong tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh 34
1.3.2. Một số phƣơng pháp về đoàn kết tôn giáo trong tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh 39
Chƣơng 2: XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO THEO TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH Ở TỈNH ĐỒNG THÁP TỪ NĂM 1990 ĐẾN
NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .49
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn
hoá, tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp 49
2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá
49
2.1.2. Tình hình tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp 54


2

2.2 Thực trạng quá trình vận dựng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc
xây dựng khối đoàn kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp từ năm 1990
đến nay 54
2.2.1. Những thành tựu trong công tác xây dựng khối đoàn kết tôn
giáo theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh tại tỉnh Đồng Tháp 60
2.2.2. Những hạn chế trong việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo
tại tỉnh Đồng Tháp trong những năm qua 73
2.3 Giải pháp nhằm phát huy và củng cố khối đoàn kết tôn giáo tại
tỉnh Đồng Tháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh 77
2.3.1. Một số yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng quan điểm về
tôn giáo và đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh để xây dựng khối đoàn
kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp hiện nay 77
2.3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng
quan điểm tôn giáo của Hồ Chí Minh để xây dựng khối đoàn kết tôn giáo
ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay 80
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHỤ LỤC










1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 80 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cả dân tộc ta tiến hành cuộc
đấu tranh trƣờng kỳ, gian khổ giành độc lập tự do, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong
những yếu tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng nƣớc ta là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng
theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Nhìn lại mấy chục năm qua, mỗi
khi dân tộc đứng trƣớc những thử thách hiểm nghèo tƣởng nhƣ không thể vƣợt qua, chính thiên tài
trí tuệ và tay lái vững vàng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng đã
dìu dắt dân tộc vƣợt qua mọi gian lao, sóng gió để tiến lên. Từ kinh nghiệm của lịch sử, từ yêu cầu
cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã
khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tƣ tƣởng và
kim chỉ nam cho hành động”.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm khoa học về chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm hƣớng dẫn toàn Đảng, toàn dân ta đấu tranh, lao động, xây dựng,
sáng tạo, bảo vệ nƣớc Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, giầu mạnh. Xuyên suốt và nhất quán
trong tƣ duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tƣ tƣởng đại đoàn kết,
trong đó có đoàn kết tôn giáo nhằm tập hợp, phát huy sức mạnh dân tộc, quốc tế vì mục tiêu độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Với tầm cao trí tuệ và chủ nghĩa nhân văn cộng sản, Hồ Chí Minh
đã giải quyết nhuần nhuyễn mối quan hệ vô cùng phức tạp giữa dân tộc với giai cấp, giữa tôn giáo
với dân tộc, quốc gia – quốc tế thuận theo xu thế khách quan của thời đại. Thiên tài của Hồ Chí
Minh là ở chỗ, Ngƣời đã khơi dậy và phát huy triệt để sức mạnh của cả cộng đồng xã hội – từ lực
lƣợng nòng cốt của cách mạng đến các tầng lớp nhân dân trên cơ sở khối liên minh công nông, xây
dựng khối đoàn kết tôn giáo để tạo thành hợp lực, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào các thế lực thù địch
ngoan cố nhất, phản động nhất. Tƣ tƣởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận hữu
cơ trong đƣờng lối chiến lƣợc của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã thấm nhuần vào tƣ tƣởng, tình cảm
của nhân dân và chuyển hóa thành sức mạnh vô địch; về thực chất, đó là chiến lƣợc đại đoàn kết Hồ Chí
Minh.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng và lãnh đạo diễn ra gần ba
thập kỷ qua, đã và đang đạt đƣợc những thành tựu to lớn. Nƣớc ta đã thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân đƣợc cải thiện và đặc biệt, những tiền đề mới để đẩy

mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc đang đƣợc tạo ra. Trong bối cảnh toàn cầu
hóa và xu thế hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, nƣớc ta đang đứng trƣớc những cơ hội lớn và cả
những nguy cơ, thử thách lớn. Vấn đề tập hợp, đoàn kết mọi lực lƣợng xã hội trong nƣớc, kiều bào
ở nƣớc ngoài và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế nhằm tạo thành sức mạnh vật chất và tinh thần cho

2
công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nƣớc đang đặt ra cấp bách. Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị, ngày
17 tháng 11 năm 1993 và văn kiện các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng gần đây luôn luôn
nhấn mạnh vị trí và vai trò to lớn của chiến lƣợc đại đoàn kết. Tuy vậy, hàng loạt vấn đề về đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa đang tiếp tục đặt ra. Hơn nữa, trong thời đại mà quan hệ quốc tế đan xen nhiều chiều,
nhiều cực, cùng với quá trình mở cửa hội nhập, tình hình hoạt động tôn giáo có những diễn biến
phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Các thế lực thù địch trong và ngoài nƣớc
tập trung sức chống phá cách mạng Việt Nam, chúng triệt để lợi dụng chiêu bài dân chủ - nhân
quyền - tôn giáo – dân tộc để thực hiện âm mƣu “diễn biến hòa bình”; chúng tìm cách chuyển tài
chính, tài liệu cho các tổ chức phản động trong nƣớc để tổ chức hoạt động chống phá, chia rẽ nhằm
làm cho các tôn giáo thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nƣớc. Mặt khác, chúng tập trung xây dựng
những hạt nhân chống đối, phản cách mạng trong nƣớc, móc nối, chỉ đạo hoạt động tạo ra thế trận
tổ chức đa nguyên đối lập, đối trọng trong các tôn giáo, cản trở quá trình chấp hành và thực thi
chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc ta.
Lúc này, hơn bao giờ hết, việc kế thừa, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo tƣ tƣởng
đại đoàn kết Hồ Chí Minh, đặc biệt là tƣ tƣởng đoàn kết tôn giáo có ý nghĩa lý luận, thực tiễn rất
thiết thực trong sự nghiệp đổi mới.
Đồng Tháp là một tỉnh biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc, đồng thời là địa bàn có nhiều
đồng bào theo những tôn giáo khác nhau. Trong những năm qua, cùng với cả nƣớc tỉnh Đồng Tháp
đã xây dựng đƣợc khối đoàn kết tôn giáo vững mạnh. Hoạt động của các tôn giáo đƣợc các cấp uỷ
Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể tạo điều kiện thuận lợi; đồng bào các tôn giáo tích cực tham
gia các phong trào thi đua yêu nƣớc, phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn trật tự an toàn xã hội theo
hƣớng “tốt đời - đẹp đạo”. Đặc biệt, một số tổ chức tôn giáo đƣợc giao đất sản xuất, đất xây dựng
công trình tôn giáo, hoặc đƣợc giao lại cơ sở vật chất, cơ sở thờ tự trƣớc đây; công dân là ngƣời

theo đạo nếu có nhu cầu thì đƣợc vay vốn, hƣớng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ các điều kiện cần thiết để sản
xuất, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống. Những việc làm đó đã thúc đẩy tín đồ tôn giáo tích cực
tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ, góp phần ổn định vùng đồng bào có đạo. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, hoạt động của các cấp chính quyền và cấp ủy Đảng ở một số nơi còn chƣa chú
trọng vào việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nên đã để xẩy ra tình trạng mất trật tự, an ninh xã
hội. Các thế lực thù địch lợi dụng tình trạng đó để kích động và chia rẽ nhân dân. Một số tín đồ và
chức sắc tôn giáo chƣa hiểu đầy đủ và đúng đắn các chính sách của Đảng và Nhà nƣớc nên vẫn còn
những băn khoăn cả về việc đạo và việc đời, một số phần tử thậm chí còn gây ra những vụ việc làm
mất an ninh trật tự, gây chia rẽ trong quần chúng nhân dân. Xuất phát từ tình hình thực tế và nhiệm
vụ chính trị của địa phƣơng đặt ra, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về

3
đoàn kết tôn giáo và vận dụng vào việc thực hiện đoàn kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp trong giai
đoạn hiện nay” để triển khai nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Có thể nói, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là di sản lý luận quý báu và đặc biệt quan trọng không
chỉ với cách mạng Việt Nam, mà còn với phong trào cách mạng thế giới. Thực tế cho thấy, trong
những năm qua cả ở Việt Nam lẫn ở nhiều nƣớc trên thế giới đã có nhiều tổ chức, tập thể và cá
nhân các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, cho đến nay, chƣa có công trình hay đề tài khoa học nào nghiên cứu tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và vận dụng vào việc thực hiện đoàn kết tôn giáo tại tỉnh Đồng
Tháp trong giai đoạn hiện nay.
Với thái độ cầu tiến trên tinh thần học hỏi, tiếp thu và kế thừa những kết quả của những
công trình nghiên cứu đi trƣớc vào thực hiện những nhiệm vụ cụ thể của mình, tác giả luận văn tiếp
tục đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo,
phân tích sự vận dụng tƣ tƣởng đó để xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp; đồng thời
luận giải một số giải pháp nhằm củng cố và phát triển khối đoàn kết tôn giáo trong giai đoạn hiện
nay trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích

Trên cơ sở phân tích tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, luận văn làm rõ sự vận
dụng tƣ tƣởng của Ngƣời trong việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở Đồng Tháp và đƣa ra một
số giải pháp để củng cố đoàn kết tôn giáo trên địa bàn tỉnh hiện nay.
- Nhiệm vụ
Một là, phân tích làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, đối tƣợng, nội dung,
nguyên tắc và phƣơng pháp đoàn kết tôn giáo.
Hai là, làm rõ quá trình xây dựng khối đoàn kết tôn giáo theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ở tỉnh
Đồng Tháp từ khi đổi mới cho đến nay.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm củng cố và phát huy khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh
Đồng Tháp từng bƣớc đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới trên địa bàn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
- Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các văn kiện,
nghị quyết của Đảng, các báo cáo tổng kết của tỉnh ủy, UBND tỉnh, UBND các huyện về vấn đề
tôn giáo nói chung và xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nói riêng. Đồng thời, luận văn kế thừa có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình đi trƣớc có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:

4
Đề tài sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; kết hợp các phƣơng
pháp tổng hợp, thống kê, so sánh để làm rõ nội dung chủ yếu của đề tài.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở vận dụng tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh từ khi có Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị (ngày 16-10-1990) đến nay.
Những chủ trƣơng, nghị quyết, chính sách, giải pháp của Tỉnh ủy và chính quyền tỉnh
Đồng Tháp về xây dựng khối đoàn kết tôn giáo.
Hoạt động của các tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp nhằm xây dựng và củng cố khối đoàn kết
tôn giáo.
- Phạm vi nghiên cứu:

Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và sự vận dụng tƣ tƣởng đó để xây dựng khối
đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp từ khi có Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị 1990 đến
nay.
6. Những đóng góp của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ một số nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết tôn giáo.
- Làm rõ sự vận dụng của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Tháp trong việc xây dựng
khối đoàn kết tôn giáo trong những năm đổi mới vừa qua.
7. Kết cấu nội dung nghiên cứu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chƣơng, 6
tiết.
NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO TRONG TƢ TƢỞNG
HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
1.1.1. Cơ sở lý luận
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo đƣợc hình thành, phát triển dựa trên cơ sở lý
luận vững chắc. Ngƣời đã kế thừa, tiếp thu truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong suốt
bốn nghìn năm lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Đây chính là cội nguồn tinh thần quý giá của dân
tộc đã giúp cho nhiều thế hệ ngƣời Việt Nam nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng trong việc tổ
chức, xây dựng và tập hợp lực lƣợng toàn dân nhằm bảo vệ và xây dựng Tổ quốc; đồng thời cảnh
giác với các thế lực “thù trong, giặc ngoài” âm mƣu muốn chia rẽ, nô dịch và thống trị dân tộc Việt
Nam.

5
Vì vậy, cần khẳng định rằng tinh thần đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần quý báu,
thiết thực và có ý nghĩa to lớn đảm bảo cho sự trƣờng tồn và phát triển lâu dài của dân tộc Việt
Nam. Tinh thần đoàn kết đã nhanh chóng trở thành một giá trị truyền thống, gắn bó một cách tự
nhiên nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác, ăn sâu vào tiềm thức của từng cá nhân trong cộng
đồng ngƣời Việt Nam và đƣợc hun đúc qua mọi thời đại.


Ngoài truyền thống đoàn kết nêu trên thì truyền thống yêu nƣớc cũng đồng hành cùng dân
tộc trong suốt quá trình đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc. Mỗi ngƣời dân Việt Nam luôn ý thức sâu
sắc về mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhà - làng - nƣớc thành một khối thống nhất không thể
tách rời, nhờ vậy đã hình thành nên quan niệm sống đặt lợi ích chung của cộng đồng, xã hội lên
trên: “Nƣớc mất thì nhà tan”. Vì vậy, mỗi khi có giặc ngoại bang đến xâm phạm bờ cõi, từ ngƣời
già đến ngƣời trẻ không phân biệt nam, nữ, dòng tộc, vùng, miền đều đoàn kết một lòng và hăng
hái tham gia đánh giặc.
Bên cạnh những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam nêu trên, Hồ Chí Minh còn tích
cực tiếp thu những tinh hoa văn hoá phƣơng Đông - phƣơng Tây thông qua các học thuyết Nho
giáo, Phật giáo, Ki tô giáo, đặc biệt là học thuyết Mác - Lênin về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã kế thừa, học tập và tích cực vận dụng sáng tạo các giá trị truyền
thống của dân tộc Việt Nam cùng với những tinh hoa văn hoá phƣơng Đông và phƣơng Tây trong
các học thuyết Nho giáo, Phật giáo, Công giáo, đặc biệt là thế giới quan duy vật và phƣơng pháp
biện chứng, tƣ tƣởng khoa học về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin vào sự
nghiệp đấu tranh "giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc". Ngƣời khẳng định rõ: “Học thuyết
Khổng Tử có ƣu điểm của nó là tu dƣỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ƣu điểm của nó là
lòng nhân ái. Chủ nghĩa Mác có ƣu điểm của nó là phƣơng pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn
Dật Tiên có ƣu điểm của nó là chính sách của nó phù hợp với điều kiện ở nƣớc ta. Khổng Tử, Giê
su, Các Mác chẳng có những ƣu điểm đó sao? Họ là những ngƣời mƣu cầu hạnh phúc cho loài ngƣời,
mƣu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp nhau thành một
khối, tôi tin rằng họ nhất định sẽ chung sống với nhau hoà bình nhƣ những ngƣời bạn thân thiết. Tôi
cố gắng làm ngƣời học trò nhỏ của các vị ấy”[ 47, tr. 15-16].
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn xã hội Việt Nam đã chỉ ra rằng, trong suốt quá trình đấu tranh dựng nƣớc và giữ
nƣớc, đặc biệt dƣới triều đại Lý - Trần thì các tôn giáo, nhƣ Nho giáo, Phật giáo cùng với các tín
ngƣỡng dân gian luôn có vị trí quan trọng trong việc củng cố, xây dựng xã hội phong kiến Việt
Nam vững mạnh.
Thực tế cho thấy, trong lịch sử các tôn giáo khi đƣợc du nhập vào Việt Nam đã gắn kết với
vận mệnh của dân tộc, với công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc, giữa việc đời với việc đạo. Vì vậy,


6
đây chính là cơ sở để lý giải rằng tại sao ở Việt Nam không xảy ra chiến tranh hoặc xung đột giữa
các tôn giáo; thay vào đó là sự kết hợp hài hoà của tam giáo đồng nguyên Nho - Phật - Lão thành
một khối thống nhất, hoà chung cùng dòng chảy chủ lƣu của dân tộc Việt Nam.
Sau nhiều năm, Ngƣời đã tìm ra con đƣờng cứu nƣớc giải phóng cho dân tộc Việt Nam, đó
là làm cách mạng vô sản. Nhƣng muốn làm cách mạng, theo Ngƣời, cần phải tổ chức, xây dựng và
lôi kéo đƣợc đông đảo lực lƣợng yêu nƣớc trong nhân dân tham gia làm cách mạng; tức phải xây
dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nhận
thấy những yếu tố tích cực, tiến bộ của các tôn giáo, nhận thức rõ âm mƣu và thủ đoạn chính trị của
thực dân Pháp xâm lƣợc. Do đó, Ngƣời đã chủ trƣơng xây dựng, thực hiện đoàn kết dân tộc và
đoàn kết tôn giáo nhằm phấn đấu cho nền độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân
1.2. Quan điểm về đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo
Đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo có sự khác nhau về hệ tƣ tƣởng,
thế giới quan, đức tin, nhu cầu tín ngƣỡng, thực hành đạo đức xã hội Tuy nhiên, giữa họ có một
điểm chung là dƣới ách thống trị của thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ cùng với bè lũ tay
sai của chúng thì họ đều bị nô dịch, chà đạp, bóc lột thậm tệ. Chúng đã thực hiện các chính sách
phản động, nhƣ chính sách “ngu dân, nô dịch”, “chia để trị” nhằm chia rẽ đồng bào theo tín
ngƣỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín ngƣỡng, tôn giáo. Điều này đã gây ra những khó
khăn, tổn thất rất nghiêm trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trƣớc tình hình thực tiễn
trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức rất sâu sắc về công tác xây dựng khối đoàn kết dân tộc, đoàn
kết đồng bào theo và không theo tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Ngƣời coi đoàn kết tôn giáo là
một bộ phận trong chiến lƣợc đại đoàn kết toàn dân tộc, có ảnh hƣởng lớn đến sự thắng lợi hay thất
bại của cách mạng Việt Nam. Cho nên, với Hồ Chí Minh, việc xây dựng tốt khối đoàn kết tôn giáo
vừa là cơ sở, điều kiện, vừa là một bộ phận quan trọng để xây dựng thành công khối đoàn kết toàn
dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp, vận dụng rất linh hoạt những yếu tố truyền thống, lịch
sử của dân tộc với bối cảnh hiện thực tôn giáo ở Việt Nam. Bên cạnh đó, trong suốt quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Ngƣời luôn xác định và đặt nhiệm vụ đoàn kết dân tộc, đoàn kết

tôn giáo lên hàng đầu, dành nhiều thời gian và sự quan tâm đặc biệt cho công tác xây dựng khối
đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc. Theo Ngƣời, khi quyền tự do tôn giáo đƣợc tôn trọng và đảm
bảo thì mọi tín đồ tôn giáo mới tin và đi theo cách mạng, đồng thời khối đại đoàn kết toàn dân và
đoàn kết tôn giáo sẽ phát huy đƣợc sức mạnh.
1.2.2. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau

7
Thực tế cho thấy, Việt Nam là một quốc đa tôn giáo, gồm Phật giáo, Công giáo, Tin Lành
giáo, Hồi giáo cùng với các loại hình tín ngƣỡng, tôn giáo bản địa. Sự tồn tại và phát triển của các
tôn giáo có ảnh hƣởng rất lớn đến đời sống tâm linh, văn hoá và xã hội của con ngƣời Việt Nam về
phƣơng diện thế giới quan và nhận thức luận cũng nhƣ thực hành đạo đức và đời sống xã hội. Cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ đã dùng chính sách “chia để trị”
nhằm phá vỡ khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức rõ ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo đối với vận mệnh
của dân tộc. Chính vì vậy, quan điểm về đoàn kết các tôn giáo của Ngƣời đƣợc khẳng định thông
qua nhiều bài viết, bài nói và trong các bức thƣ gửi cho đồng bào các tôn giáo. Hồ Chí Minh xác
định đoàn kết đồng bào các tôn giáo phải dựa trên cơ sở tƣơng thân, tƣơng ái, các bên cùng có lợi.
Lợi ích cao nhất là độc lập cho dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Đoàn kết tôn giáo vừa đảm bảo lợi ích chung của cả dân tộc, vừa đảm bảo lợi ích riêng của
các tôn giáo và mọi tín đồ. Đây chính là phƣơng pháp làm việc biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, vận dụng vào công tác xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân, đoàn kết tôn giáo. Vì vậy, thực tế trong suốt quá trình xây dựng và tập hợp lực lƣợng
cách mạng Việt Nam, Ngƣời đã luôn quan tâm thăm hỏi tới các tôn giáo, các chức sắc, nhà tu hành
và đồng bào có đạo bằng nhiều hình thức khác nhau.
Bên cạnh chủ trƣơng tích cực vận động các tôn giáo, các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ
tham gia xây dựng tốt khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn sử
dụng phƣơng pháp lịch sử - cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lênin để soi rọi lại tình hình đoàn kết tôn
giáo trong lịch sử, đồng thời chỉ ra những mặt hạn chế trong các tôn giáo do nguyên nhân không
đoàn kết đã làm ảnh hƣởng đến tín ngƣỡng tâm linh, đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân
1.3. Một số nguyên tắc và phương pháp về đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí

Minh
1.3.1. Một số nguyên tắc về đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ nhất, lấy lợi ích của toàn dân tộc và quyền lợi căn bản của con người là mẫu số
chung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đƣa ra và sử dụng nguyên tắc trên với mong muốn quy tụ các tôn
giáo, các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ và mọi lực lƣợng yêu nƣớc khác nhau trong xã hội Việt Nam
cùng hành động hƣớng tới mục tiêu chung của dân tộc, đó là “độc lập dân tộc, thống nhất Tổ
quốc”. Đây là nguyên tắc rất đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết tôn
giáo, đồng thời có giá trị to lớn đối với việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc và công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Hồ Chí Minh xác định đó là nguyên tắc thống
nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, thực chất là sự thống nhất giữa lợi ích của quốc gia

8
dân tộc với quyền lợi riêng của mỗi con ngƣời. Vì vậy, trong suốt quá trình vận động đồng bào
theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo tham gia xây dựng khối đoàn kết toàn dân và đoàn
kết tôn giáo, Ngƣời luôn chủ động tìm kiếm những điểm tƣơng đồng, dùng cái tƣơng đồng để khắc
phục cái dị biệt, không đặt các sự việc trong sự đối lập hoặc loại trừ nhau, không khoét sâu cái dị
biệt về thế giới quan, hệ tƣ tƣởng, nhu cầu tín ngƣỡng mà luôn tìm kiếm sự thống nhất, tƣơng
đồng về lợi ích chung cho toàn thể dân tộc, đó là độc lập cho dân tộc, thống nhất cho Tổ quốc, tự
do và hạnh phúc cho nhân dân.
Thứ hai, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Tự do là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời. Trong các quyền của con ngƣời có
quyền tự do tín ngƣỡng, tự do tôn giáo; tức tự xác lập theo hoặc không theo một đức tin tín
ngƣỡng, tôn giáo nhất định. Bởi lẽ, đây là nhu cầu tinh thần không thể thiếu đối với một bộ phận
không nhỏ quần chúng nhân dân lao động, là sự thiêng liêng trong tâm linh con ngƣời, không ai
đƣợc xâm phạm hoặc làm tổn hại. Ở Việt Nam, để làm cho quyền tự do tín ngƣỡng, tự do tôn giáo
trở thành hiện thực sinh động trong đời sống tinh thần của nhân dân, Ngƣời rất chú trọng tới pháp
luật, coi đó là công cụ để bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của nhân dân.
Cho nên, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà
non trẻ vừa mới ra đời, Hồ Chí Minh đã chủ trƣơng hiện thực hoá quyền tự do tín ngƣỡng, tự do

tôn giáo bằng văn bản, pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, hoạt động tôn giáo phải tôn trọng và tuân theo Hiến pháp, pháp luật Việt Nam
hiện hành.
Trƣớc hết, để tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo ở Việt Nam hoạt động, Hồ Chủ tịch
và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến tôn giáo và hoạt động tôn giáo,
trong đó Sắc lệnh 234 về tôn giáo đã quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm và phạm vi hoạt động của
tôn giáo ở Việt Nam. Trong Sắc lệnh số 234-SL ngày 16 - 6 - 1955, do Hồ Chủ tịch thay mặt Chính
phủ Việt Nam ký đã đƣa ra nhiều điều khoản có tính hệ thống về các vấn đề liên quan đến tôn giáo,
nhƣ phạm vi hoạt động, quyền lợi và trách nhiệm của các tôn giáo.
1.3.2. Một số phương pháp về đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ nhất, tôn trọng giáo chủ, tranh thủ tình cảm giáo sỹ và quan tâm tới các tín đồ tôn
giáo
Hồ Chí Minh không chỉ tôn trọng quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của nhân dân mà còn tỏ
rõ tấm lòng tôn kính đối với các giáo chủ, giáo sỹ, linh mục, đức cha và các chức sắc, nhà tu hành
cũng nhƣ những ngƣời sáng lập ra các học thuyết tôn giáo. Đây đƣợc xem nhƣ một trong những
phƣơng pháp thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận động các chức sắc, nhà tu hành

9
và mọi tín đồ tôn giáo tham gia xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu
"Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc".
Xuất phát từ quan điểm đúng đắn đó, Hồ Chí Minh đã chủ động bày tỏ thái độ thân thiện,
thân ái đoàn kết, liên hệ chặt chẽ với nhiều chức sắc tôn giáo. Thực tế cho thấy, Ngƣời đã nhiều lần
gửi thƣ và điện thăm hỏi các giáo sỹ với thái độ ân cần, tôn trọng và coi họ có cùng mục đích phấn
đấu cho hạnh phúc của đồng bào, cho độc lập của dân tộc.
Thứ hai, tích cực tuyên truyền, khai thác các giá trị nhân bản trong các tôn giáo nhằm tập
hợp lực lượng cách mạng của toàn dân.
Theo Hồ Chí Minh, muốn đoàn kết tôn giáo cần phải tích cực tuyên truyền, giáo dục vận
động đồng bào tín đồ các tôn giáo đi theo cách mạng. Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục cần
chú trọng khai thác các giá trị nhân văn, giá trị đạo đức phù hợp trong các học thuyết tôn giáo
nhằm tập hợp mọi tín đồ tôn giáo yêu nƣớc tham gia xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn

giáo. Nét nổi bật trong phƣơng pháp cách mạng của Ngƣời là sự tiếp thu có chọn lọc các tƣ tƣởng
nhân văn, đạo đức trong các tôn giáo trên nền tảng chủ nghĩa yêu nƣớc, chủ nghĩa cộng sản nhằm
hƣớng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời. Thực tế cho
thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức rõ về ý nghĩa, tầm quan trọng của phƣơng pháp trên
trong việc tập hợp các tín đồ tôn giáo yêu nƣớc tham gia vào cuộc đấu tranh "giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc". Cho nên, trong suốt quá trình vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, Ngƣời
luôn lấy tấm gƣơng và đức hy sinh của các nhà sáng lập các học thuyết tôn giáo, những điều
khuyên răn tiến bộ, hợp lý trong giáo lý, kinh Phật, kinh Thánh để thuyết phục, giáo dục và động
viên họ tham gia tích cực vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Thứ ba, phân biệt giữa tổ chức, giáo dân chân chính với tổ chức và cá nhân giả danh tôn
giáo.
Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là một yêu cầu tất yếu, có ảnh
hƣởng quyết định đến thành công hay thất bại của cách mạng Việt Nam. Do đó, để làm tốt nhiệm
vụ trên đòi hỏi ngƣời cách mạng phải biết phân biệt đƣợc bạn - thù, phân biệt rõ đâu là tổ chức giáo
dân chân chính và đâu là tổ chức giả danh tôn giáo muốn lợi dụng tôn giáo nhằm chia rẽ khối đoàn
kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo làm phƣơng hại đến sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn phân biệt rõ những ngƣời giáo dân chân chính với những kẻ giả
danh tôn giáo để có phƣơng pháp đấu tranh đúng. Tiêu chí để phân biệt không phải gì khác hơn là
quan điểm “hãy xem họ làm, và đừng vội nghe họ nói”, tức là phải căn cứ vào hành động cụ thể
chứ không dựa vào vài ba lời lẽ xu nịnh gây ra sự bất hoà trong Đảng và trong nhân dân Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kiên trì đấu tranh chống lại những kẻ giả danh tôn giáo nhằm bảo vệ khối đoàn kết
dân tộc, đoàn kết tôn giáo
Chƣơng 2: XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ
MINH Ở TỈNH ĐỒNG THÁP TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY:

10
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá, tôn giáo ở tỉnh Đồng
Tháp
2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá

* Về điều kiện tự nhiên
Đồng Tháp là tỉnh nằm ở thƣợng nguồn sông Cửu Long, thuộc khu vực đồng bằng sông
Cửu Long và là một trong 3 tỉnh vùng Đồng Tháp Mƣời. Về vị trí địa lý, Đồng Tháp nằm ở phía
Tây Bắc đồng bằng sông Cửu Long; phía Bắc giáp Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long;
phía Tây giáp sông Tiền – ngăn cách với tỉnh An Giang, sông Hậu – ngăn cách với thành phố Cần
Thơ; phía Đông giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Nhờ có 2 nhánh sông Cửu Long chảy qua địa
bàn (sông Tiền và sông Hậu), đất đai của Đồng Tháp thƣờng xuyên đƣợc bồi đắp phù sa màu mỡ
khiến 4 mùa luôn có cây xanh trái ngọt.
* Về điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội
Đồng Tháp là tỉnh có nhiều tuyến đƣờng quốc lộ đi qua: Quốc lộ 80, 30, 54 cùng với đƣờng
Hồ Chí Minh chạy qua tỉnh lỵ và mạng lƣới giao thông đƣờng thủy cũng khá thuận lợi. Hiện Đồng
Tháp có 2 bến cảng Sa Đéc và Cao Lãnh nằm bên bờ sông Tiền. Hệ thống giao thông thủy bộ đã
gắn kết Đồng Tháp với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi
cho tỉnh phát triển và giao lƣu kinh tế - xã hội với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng
giao lƣu với các tỉnh của nƣớc bạn Campuchia.
Đời sống văn hóa – xã hội ở Đồng Tháp trong những năm gần đây có bƣớc phát triển quan
trọng. Hệ thống giáo dục của Đồng Tháp bao gồm đầy đủ các cấp học, từ giáo dục mầm non đến
đại học. Ngành y tế của tỉnh có sự phát triển đáng kể. Năm 2009, Đồng Tháp đạt tỷ lệ 4,62 bác sĩ/1
vạn dân, đạt 19,76 giƣờng bệnh/1 vạn dân, tỷ lệ trạm y tế đạt chuẩn quốc gia là 75%.
Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên, văn hóa và xã hội đó cũng tạo ra một số khó khăn nhất định.
Chẳng hạn, là tỉnh có đƣờng biên giới với nƣớc bạn Campuchia, mặc dù có điều kiện mở rộng giao
lƣu văn hóa, nhƣng điều đó cũng có tính phức tạp; hoặc việc có nhiều dân tộc cùng sinh sống, hơn
nữa lại có những tôn giáo khác nhau cùng tồn tại và hoạt động trên địa bàn… sẽ dễ xảy ra nhiều vấn
đề văn hóa, xã hội bức xúc làm ảnh hƣởng đến sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.2. Tình hình tôn giáo ở Đồng Tháp
Do chịu ảnh hƣởng của tam giáo (Nho, Phật, Lão) nên phần đông ngƣời dân Đồng Tháp lấy
đạo thờ cúng tổ tiên làm trọng. Bên cạnh đó, các tôn giáo lớn và phổ biến, nhƣ Phật giáo, Cao Đài,
Thiên Chúa giáo, Hòa Hảo… với các thiết chế chùa chiền, nhà thờ, thánh thất và những lễ hội, tín
ngƣỡng đã ăn sâu vào đời sống tâm linh của một bộ phận nhân dân nơi đây.
Ngoài những đặc điểm chung của tôn giáo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, tôn giáo ở

Đồng Tháp còn có những đặc điểm riêng mang đậm sắc thái địa phƣơng với những hệ phái, những

11
“ông đạo” mà nơi khác không có. Bên cạnh những tôn giáo lớn, phổ biến nhƣ Phật giáo, Thiên
Chúa giáo, Tin Lành, ở tỉnh Đồng Tháp cũng có một số tôn giáo địa phƣơng (nội sinh), nhƣ Cao
Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hƣơng, Tứ Ân Hiếu Nghĩa Ngoài ra, phần đông đồng bào
trong tỉnh dù có đạo hay không theo bất cứ đạo nào (ngoại trừ những ngƣời Thiên Chúa giáo và Tin
Lành) đều giữ tục thờ cúng ông bà tổ tiên.
Ở miền Nam trƣớc đây, nhất là sau năm 1945, để đƣơng đầu với phong trào đấu tranh
giành độc lập dân tộc của nhân dân ta dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày một
quyết liệt, bọn thực dân thống trị và tay sai chẳng những dùng thế quyền với súng đạn và nhà tù
nhằm đàn áp phong trào cách mạng mà còn sử dụng cả thần quyền của tôn giáo để khống chế,
cƣỡng bức nhân dân về mặt tinh thần. Kẻ thù lợi dụng những nghi thức tôn giáo có tính chất mê tín
dị đoan để ru ngủ, mê hoặc nhân dân, nhƣ an phận kiếp này để hƣởng hạnh phúc ở kiếp sau, hay ăn
ở hiền lành, cam chịu số phận hiện tại để tích phúc cho con cháu mai sau nhằm đầu độc quần
chúng trong bầu không khí đặc sệt thần quyền của tôn giáo. Ngoài ra, chúng còn nắm một số tổ
chức giáo hội thông qua việc mua chuộc những ngƣời cầm đầu và sử dụng đội ngũ này nhƣ một
công cụ đắc lực để cƣỡng bức tín đồ các tôn giáo chống lại nhân dân và cách mạng. Thực tế cho
thấy, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã bắt các tín đồ phải đi lính cầm súng chết thay
cho chúng dƣới danh nghĩa chống Cộng sản để bảo vệ đạo. Kẻ thù đã xây dựng ở Đồng Tháp cũng
nhƣ một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long các tổ chức chính trị, quân sự gồm những phần tử
phản đạo, phản dân hại nƣớc trong các tôn giáo nhƣ Cao Đài, Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Chúng tài trợ tiền bạc, trang bị vũ khí cho các tổ chức phản động này chống lại công cuộc kháng
chiến giành độc lập và đấu tranh thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta. Một số tồn tại trong lịch sử của
các tôn giáo khó đƣợc giải quyết cho đến ngày nay là do hậu quả của những âm mƣu thâm độc nói
trên. Vì vậy, cả hệ thống chính trị và nhân dân tỉnh Đồng Tháp phải phấn đấu giải quyết những khó
khăn vƣớng mắc trên bằng cách củng cố ngày càng vững chắc hơn khối đại đoàn kết dân tộc, trong
đó trọng tâm là xây dựng và củng cố khối đoàn kết tôn giáo.
Tính đến năm 2010 (theo báo cáo số liệu các tôn giáo của sở nội vụ Đồng Tháp), toàn tỉnh
có tất cả khoảng 370.000 tín đồ tôn theo các tôn giáo khác nhau.

Phần lớn giáo dân và chức sắc đạo Thiên Chúa đều là ngƣời yêu nƣớc. Trong công cuộc
kháng chiến chống Pháp, có một bộ phận giáo dân và chức sắc trực tiếp tham gia kháng chiến. Hơn
20 năm qua, với chính sách tự do tín ngƣỡng của Đảng và Nhà nƣớc ta, đạo Thiên Chúa ở Đồng
Tháp hoạt động theo phƣơng châm “sống phúc âm trong lòng dân tộc” với tôn chỉ “kính Chúa, yêu
nƣớc”. Giáo dân, chức sắc và các cơ sở tôn giáo đều cố gắng thay đổi nghi thức hoạt động cho phù
hợp với xã hội mới hiện nay. So với các tôn giáo khác trong tỉnh, đạo Thiên Chúa phát triển nhanh
hơn, hoạt động có nề nếp vững chắc, sâu sắc thể hiện rõ nhất ở khâu hành lễ, ấn hành, phổ biến

12
kinh sách, đào tạo chức sắc, xây dựng cơ sở vật chất truyền đạo. Hiện nay, Thiên Chúa giáo ở Đồng
Tháp có khoảng 49.263 giáo dân, 39 nhà thờ và 26 linh mục.
. Đến trƣớc năm 1975, trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp có 9 hội thánh với 4.983 tín đồ. Trong
hơn 30 năm qua (từ năm 1975 đến nay), đạo Tin Lành phát triển tƣơng đối chậm trên địa bàn tỉnh.
Gần đây, Hội Thánh Tin Lành Đồng Tháp chú trọng truyền đạo ở các vùng khó khăn, lũ lụt nên số
tín đồ có tăng đôi chút. Tính đến năm 2010, toàn tỉnh có 6.677 tín đồ Tin Lành với hơn 10 cơ sở
thờ tự, 10 mục sƣ. Ngày nay, dựa trên chủ trƣơng và chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về tôn giáo,
đạo Tin Lành ở Đồng Tháp đã tích cực hoạt động với mục tiêu phát triển đạo cùng với sự phát triển
của xã hội làm cho đời sống giáo dân ngày càng đƣợc nâng cao.
Đạo Cao Đài Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, đông đảo đồng bào đạo Cao Đài,
nhất là Thanh niên Đại đạo đã tham gia cƣớp chính quyền dƣới sự lãnh đạo của Việt Minh. Trong
kháng chiến chống Pháp, tất cả các phái Cao Đài trong tỉnh đều có chức sắc, chức việc, tín đồ tham
gia kháng chiến. Tuy nhiên, cũng có một số chức sắc và một bộ phận tín đồ bị thực dân Pháp lợi
dụng làm tay sai cho chúng, chống lại nhân dân và cách mạng. Trong hơn 30 năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội, các chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài trong tỉnh đã nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật của Nhà nƣớc về việc đạo cũng nhƣ việc đời, tích cực xây dựng quê hƣơng, phát triển
kinh tế - xã hội. Cho đến năm 2010, tổng số tín đồ theo đạo Cao Đài ở Đồng Tháp là 49.739 ngƣời
cùng với hơn 500 chức sắc và chức việc.
Phật giáo Hòa Hảo sau năm 1975, bên cạnh những biến chuyển chung do tác động từ chính
sách tự do tín ngƣỡng của Đảng và Nhà nƣớc ta, Phật giáo Hòa Hảo ở Đồng Tháp còn có một số
nét riêng. Nhờ thực hiện tốt chủ trƣơng hòa hợp, hòa giải dân tộc, khoan hồng, nhân đạo và chính

sách tự do tín ngƣỡng của chính quyền cách mạng, chăm lo đời sống nhân dân cả việc đạo và việc
đời, nên dần dần đa số các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo trong tỉnh tự hóa giải đƣợc những ngộ nhận
trƣớc đây về cách mạng, về Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa dần mặc cảm cũ và ngày càng tin tƣởng
vào quan điểm và đƣờng lối đúng đắn của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc, hăng hái
đẩy mạnh sản xuất cải thiện đời sống, tham gia công tác xã hội, làm tốt các nghĩa vụ công dân.
Ngày nay, đa số các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo ở Đồng Tháp tu tại gia, thờ cúng tại nhà, không bị
bọn xấu lợi dụng. Phật giáo Hòa Hảo cũng đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận và hoạt động bình đẳng
với các tôn giáo khác; vì vậy, đồng bào ngày càng tham gia tích cực vào hoạt động từ thiện, lao
động sản xuất để xây dựng quê hƣơng ngày một phát triển. Đến năm 2010, Phật giáo Hòa Hảo tại
Đồng Tháp có khoảng 173.253 tín đồ với 22 cơ sở thờ tự.
2.2. Thực trạng quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng khối
đoàn kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp từ năm 1990 đến nay
2.2.1. Những thành tựu trong công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng
Hồ Chí Minh tại tỉnh Đồng Tháp

13
Thứ nhất, tỉnh Đồng Tháp tích cực quán triệt và cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của
Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng khối đoàn kết tôn giáo.
Đảng bộ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Tháp xác định thực tế tình
hình tôn giáo ở Đồng Tháp là một trong những vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm. Việc giải
quyết vấn đề tôn giáo, đặc biệt là những nội dung liên quan đến quyền lợi, lợi ích cho các chức sắc,
nhà tu hành và các tín đồ có đạo đòi hỏi phải dựa trên những chủ trƣơng của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nƣớc Việt Nam. Xuất phát từ tình hình thực tế của địa phƣơng, Đảng bộ, UBND,
Mặt trận Tổ quốc, Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Tháp đã quán triệt đƣờng lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nƣớc về tôn giáo nói chung và xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nói riêng; đồng
thời, tích cực, chủ động triển khai nghiên cứu và ban hành các nghị quyết, chỉ thị, chƣơng trình
hành động phù hợp với đặc điểm của địa phƣơng nhằm xây dựng tốt khối đoàn kết toàn dân, đặc
biệt là đoàn kết tôn giáo tạo ra sự đồng thuận cao trong Đảng và trong nhân dân.
Tỉnh đã cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với những người
theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Các chủ trương, chính sách đoàn kết tôn giáo của

Đồng Tháp tập trung vào những nội dung sau:
Một là, tôn trọng quyền tự do tín ngƣỡng và không tín ngƣỡng, tôn giáo của nhân dân.
Quyền theo hoặc không theo một tổ chức tôn giáo nào dựa trên cơ sở của pháp luật Việt Nam.
Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của nhân dân đều bị xử lý theo đúng
pháp luật Việt Nam.
Hai là, tín đồ có quyền thực hiện hoạt động tôn giáo không trái với chủ trƣơng, chính sách
pháp luật của Nhà nƣớc, tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các
hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
Ba là, tín đồ không đƣợc lợi dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật, không đƣợc
hoạt động mê tín dị đoan.
Bốn là, ngƣời ngoài tỉnh và ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú hợp pháp ở Đồng Tháp đƣợc sinh hoạt
tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Đối với các tổ chức tôn giáo, Đồng Tháp tập trung vào một số nội dung sau:
Một là, tổ chức đƣợc coi là tổ chức tôn giáo phải có tôn chỉ, mục đích, đƣờng hƣớng hành
đạo, cơ cấu tổ chức phù hợp với pháp luật và đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ cho phép hoạt động thì
đƣợc pháp luật bảo hộ.
Hai là, tổ chức không đƣợc coi là tổ chức tôn giáo khi hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích,
đƣờng hƣớng hành đạo của Thủ tƣớng Chính phủ cho phép thì sẽ không đƣợc phép hoạt động và
những những vi phạm đó sẽ bị xử lý theo đúng tinh thần của pháp luật.

14
Ba là, các tổ chức tôn giáo hoạt động từ thiện phải theo quy định của Nhà nƣớc và UBND
tỉnh Đồng Tháp cấp phép hoạt động. Ngoài ra, các cơ sở từ thiện do chức sắc, nhà tu hành và tổ chức
tôn giáo bảo trợ hoạt động phải theo hƣớng dẫn của các cơ quan chức năng Nhà nƣớc và UBND tỉnh
Đồng Tháp.
Tỉnh Đồng Tháp cũng có những quy định cụ thể đối với các hoạt động tôn giáo trên địa
bàn, cụ thể là:
Thứ nhất, các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự tôn giáo đã đăng ký hàng năm và thực
hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép.
Thứ hai, các hoạt động tôn giáo vƣợt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc chƣa đăng ký hàng

năm phải đƣợc phép của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền.
Thứ ba, các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận, của các tu sỹ tập trung từ các cơ
sở, dòng tu của Thiên Chúa, Tin Lành, Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài và những hoạt động
tƣơng tự của các tôn giáo khác thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý nhà nƣớc cấp tỉnh về
tôn giáo. Đại hội, hội nghị của các tổ chức tôn giáo các cấp ở địa phƣơng phải đƣợc Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp cấp phép.
Thứ tư, việc in ấn các loại kinh, sách và các xuất bản phẩm tôn giáo, việc sản xuất, kinh
doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm tôn giáo, đồ dùng trong việc thực hiện truyền đạo, phải theo
quy chế của Nhà nƣớc và của UBND tỉnh Đồng Tháp về in, xuất bản, sản xuất kinh doanh, xuất
nhập khẩu văn hoá phẩm, hàng hoá.
Thứ năm, nghiêm cấm việc in ấn, kinh doanh, lƣu hành và tàng trữ sách báo, văn hoá phẩm
có nội dung chống lại Đảng, Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền các
cấp trong tỉnh gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc, ảnh hƣởng đến khối đoàn kết trong nhân dân.
Thứ sáu, các đại hội, hội nghị của các tổ chức tôn giáo ở địa phƣơng phải đƣợc Chủ tịch
UBND tỉnh Đồng Tháp cấp phép.
Về chính sách đối với nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo, tỉnh Đồng Tháp quy
định rõ:
Thứ nhất, Nhà nƣớc bảo hộ nơi thờ tự của các tôn giáo. Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm
giữ gìn, tu bổ nơi thờ tự.
Thứ hai, nhà, đất và các tài sản của các tổ chức và cá nhân tôn giáo đƣợc cơ quan nhà nƣớc
và chính quyền các cấp trong tỉnh Đồng Tháp quản lý, bảo hộ theo pháp luật.
Thứ ba, việc tu bổ, sửa chữa nhỏ không làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình thuộc cơ
sở thờ tự thì tổ chức thực hiện sau khi đã thông báo cho UBND cấp xã sở tại.

15
Thứ tư, việc sửa chữa làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở thờ tự; việc khôi
phục công trình thờ tự bị hoang phế, bị huỷ hoại do chiến tranh, thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cơ sở
thờ tự mới, xây dựng công trình thờ tự (nhà, tƣợng, bia, đài, tháp ) phải đƣợc phép của UBND
tỉnh.
Thứ năm, việc tạo nguồn tài chính từ sự ủng hộ của cá nhân, tổ chức, từ những thu nhập

hợp pháp khác để xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự phải đƣợc Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp cho
phép. Nghiêm cấm việc ép buộc tín đồ đóng góp.
Đối với các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo, tỉnh Đồng Tháp chủ trương:
Thứ nhất, chức sắc, nhà tu hành có nghĩa vụ thực hiện đúng chức trách, chức vụ tôn giáo
trong phạm vi trách nhiệm tôn giáo đã đƣợc cơ quan quản lý Nhà nƣớc có thẩm quyền chấp thuận
và chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về mọi hoạt động tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm đó. Chức
sắc, nhà tu hành phải có trách nhiệm động viên các tín đồ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và
pháp luật của Nhà nƣớc.
Thứ hai, các chức sắc, nhà tu hành trong tỉnh Đồng Tháp đƣợc hƣởng mọi quyền lợi về
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá nhƣ công dân Việt Nam.
Thứ ba, những ngƣời mạo danh các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử lý hành chính
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngƣời đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị quản chế hành
chính không đƣợc thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo. Việc phục hồi chức trách, chức vụ tôn
giáo của ngƣời đã hết hạn chấp hành các hình phạt kể trên phải do tổ chức tôn giáo quản lý ngƣời đó
đề nghị và đƣợc cơ quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền chấp thuận.
Thứ tư, việc mở trƣờng đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn giáo phải đƣợc phép của Thủ
tƣớng Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các trƣờng phải thực hiện theo các quy định của Ban
Tôn giáo Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các trƣờng thực hiện các quy chế, chính sách,
pháp luật của Nhà nƣớc theo sự hƣớng dẫn, giám sát, kiểm tra của cơ quan chức năng của Nhà
nƣớc và UBND tỉnh Đồng Tháp.
Thứ năm, việc phong giáo phẩm, phong chức cho chức sắc, nhà tu hành tôn giáo; việc
bổ nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc, nhà tu hành phải đƣợc chấp thuận của Thủ tƣớng
Chính phủ hoặc Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp.
Đối với hoạt động đối ngoại của tôn giáo, căn cứ vào chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước, tỉnh Đồng Tháp đã cụ thể hóa và quy định như sau:
Thứ nhất, hoạt động quốc tế của tổ chức, cá nhân tôn giáo trên địa bàn Đồng Tháp phải
tuân thủ pháp luật và phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, vì hoà bình, ổn định, hợp tác, hữu nghị.

16

Thứ hai, tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nƣớc mời tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nƣớc
ngoài tham gia các hoạt động tôn giáo hoặc có liên quan đến các tôn giáo ở nƣớc ngoài phải thực
hiện theo đúng quy định của Ban Tôn giáo Chính phủ.
Thứ ba, tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nƣớc ngoài, kể cả tổ chức và cá nhân tôn giáo vào Việt
Nam để hoạt động ở các lĩnh vực không phải là tôn giáo thì không đƣợc tổ chức, điều hành hoặc
tham gia tổ chức, điều hành các hoạt động tôn giáo, không đƣợc truyền bá tôn giáo.
Thứ tư, các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nƣớc muốn nhận viện trợ thuần tuý tôn giáo
phải xin phép Thủ tƣớng Chính phủ.
Tóm lại, Đảng bộ, UBND, Mặt trận Tổ quốc, Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Tháp, một mặt, quán
triệt việc thực hiện đúng đƣờng lối, chính sách và những nguyên tắc chung của Đảng, của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Chính phủ về tôn giáo; mặt khác, tỉnh Đồng Tháp đã chủ động nghiên cứu, ban
hành những nguyên tắc riêng theo Chƣơng trình hành động của Tỉnh ủy nhằm giải quyết đúng đắn
tình hình thực tiễn tôn giáo ở địa phƣơng hiện nay trên cơ sở đảm bảo quyền tự do tín ngƣỡng và
không tín ngƣỡng, tôn giáo của mọi công dân theo đúng tinh thần của pháp luật Việt Nam. Ngoài
ra, Tỉnh uỷ, UBND, MTTQ và Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Tháp còn chủ động nghiên cứu, đề xuất
những giải pháp cụ thể nhằm xây dựng và củng cố khối đoàn kết tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, các tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp tích cực, chủ động tham gia xây dựng, củng cố và
phát triển khối đoàn kết tôn giáo.
Cùng với những chủ trƣơng, chính sách của tỉnh về công tác tôn giáo nói chung, về xây
dựng khối đoàn kết tôn giáo nói riêng, các tôn giáo trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp cũng có những
hoạt động cụ thể nhằm củng cố, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó có đoàn
kết tôn giáo.
Hƣởng ứng cuộc vận động xây dựng nông thôn mới do Ủy ban nhân dân tỉnh phát động,
các chức sắc tôn giáo và các giáo dân đã thực hiện nhiều phong trào tích cực, nhƣ vận động gây
quỹ từ thiện, đoàn kết tƣơng thân tƣơng ái Trong những năm qua, (2001 - 2006) tỉnh Đồng Tháp
đã xây dựng đƣợc hơn 1.700 căn nhà tình thƣơng các loại, tổng giá trị lên tới 90 tỷ đồng trong đó
các tổ từ thiện cƣa xẻ gỗ do ban trị sự Phật giáo Hoà Hảo chủ trì xây dựng đƣợc là 1.553 căn, giá
trị hơn 70,7 tỷ đồng. Đặc biệt năm 2006 là năm huy động nguồn lực cao nhất từ trƣớc đến nay và
đã xây dựng đƣợc 5.848 căn, công tác xây dựng nhà tình thƣơng đã khơi dậy và phát huy tốt các
nguồn lực trong nhân dân theo phƣơng châm lấy sức dân để bồi dƣỡng cho dân.

Từ khi triển khai thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
ở khu dân cƣ” và “Ngày vì ngƣời nghèo”, toàn tỉnh đã có bƣớc chuyển mình về mọi mặt, đời sống
của đồng bào có đạo không ngừng đƣợc cải thiện, dân trí đƣợc nâng lên, cơ sở hạ tầng phát triển
với tốc độ nhanh, đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội. Hoạt động đƣợc xã hội và các tôn giáo quan

17
tâm nhất là chăm lo cải thiện đời sống của ngƣời nghèo, giúp họ có điều kiện vƣơn lên hòa nhập
với cộng đồng. Năm 2006, Tỉnh ủy đề ra nghị quyết chuyên đề về xóa nhà tạm bợ, dột nát, với
phƣơng châm “Toàn xã hội chăm lo cho ngƣời nghèo”. Ngay sau khi triển khai thực hiện, phong
trào này đã đƣợc các tầng lớp nhân dân đồng tình hƣởng ứng, đặc biệt là sự đồng thuận cao của các
vị chức sắc, chức việc các tôn giáo. Trong đó, nhiều vị chức sắc đã tự nguyện đảm nhận nhiều
trọng trách. Có đƣợc kết quả trên chính là nhờ sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, MTTQ, các
đoàn thể với các tổ chức tôn giáo trong các hoạt động, đặc biệt là chăm lo đời sống cho ngƣời
nghèo. Cùng với việc tích cực hƣởng ứng các phong trào thi đua yêu nƣớc, đồng bào tín đồ các tôn
giáo đã góp phần làm chuyển biến đời sống dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, tạo diện mạo mới ở
những nơi có nhiều đồng bào tôn giáo sinh sống, nhất là những vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
Nhƣ vậy, cùng với những chủ trƣơng, chính sách đúng đắn và phù hợp của Tỉnh ủy, Ủy
ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, những chức sắc tôn giáo, giáo dân trong tỉnh cũng tích cực tham gia
nhiều hoạt động nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo và góp phần cải thiện
và nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo và giữ vững trật tự, an ninh
chính trị trên địa bàn tỉnh.
Song song với chủ trƣơng đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban Tôn
giáo tỉnh đã xác định rõ phát triển kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo
sự đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân, tăng cƣờng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Với quan điểm đó, Đảng bộ, Mặt trận Tổ quốc, Ban Tôn giáo và chính quyền các cấp trong tỉnh đã
tích cực nghiên cứu, ban hành các chƣơng trình, chính sách và mục tiêu cụ thể, phù hợp với điều kiện
của địa phƣơng nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có đồng
bào theo các tôn giáo.
Trên lĩnh vực văn hóa, Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Tháp đã quán
triệt, vận dụng sáng tạo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong diễn văn khai mạc Hội nghị văn

hoá tôn giáo ngày 24 - 11 - 1946 về xây dựng đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. Trong đó,
Ngƣời cho rằng, phải làm thế nào cho văn hoá thấm sâu vào đời sống của quốc dân, nghĩa là văn
hoá phải sửa đổi đƣợc thói lƣời biếng, phù hoa, xa xỉ ; đồng thời, văn hoá phải làm thế nào cho
mỗi ngƣời dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và
biết hạnh phúc của mình nên đƣợc hƣởng; rằng, văn hoá phải soi đƣờng cho quốc dân đi. Ngoài ra,
tỉnh Đồng Tháp còn quán triệt, vận dụng sáng tạo đƣờng lối của Đảng xác định văn hoá vừa là mục
tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển của xã hội; trong đó, tôn giáo đƣợc xem nhƣ một bộ phận
cấu thành nền văn hoá vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính nhân văn, đạo đức gắn liền với nhu
cầu tinh thần không thể thiếu đƣợc của một bộ phận quần chúng nhân dân lao động ở địa phƣơng.
Chính vì vậy, Đảng bộ và chính quyền chủ động kết hợp với các tổ chức chính trị - xã hội các cấp
trong toàn tỉnh phát động và triển khai nhiều phong trào nhằm xây dựng khối đoàn kết toàn dân,

18
đoàn kết tôn giáo tăng cƣờng sự đồng thuận trong Đảng và trong nhân dân. Chẳng hạn, Đồng Tháp
đã phát động rộng rãi các phong trào, nhƣ xây dựng dòng họ, tổ dân phố và làng xã văn hóa,…
Những phong trào này do MTTQ tỉnh khởi xƣớng, có sự phối kết hợp với các ban ngành, đoàn thể
các cấp ở tỉnh, huyện, xã, thôn nhằm xây dựng nếp sống văn hoá trong cộng đồng dân cƣ nói chung
và trong đồng bào giáo dân nói riêng. Các cuộc vận động trên đã đƣợc đông đảo các linh mục, chức
sắc tôn giáo, các họ giáo và các tín đồ ủng hộ, đăng ký tham gia.
* Nguyên nhân đạt được những thành tựu trong việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo
Thứ nhất, Đảng bộ, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị- xã hội các cấp trong tỉnh
đã quán triệt việc học tập, vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cùng với đƣờng lối, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc vào công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Thứ hai, công tác tham mƣu, đề xuất phƣơng hƣớng giải quyết tình hình tôn giáo cho Đảng bộ
và UBND tỉnh đƣợc coi trọng và thực hiện tốt. Công tác phối hợp đƣợc thực hiện thƣờng xuyên và nề
nếp ở ba cấp giữa các ngành chức năng liên quan, đặc biệt là các cuộc trao đổi hoạt động nghiệp vụ với
đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở từng cấp.
Thứ ba, công tác tuyên truyền phổ biến quan điểm, đƣờng lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nƣớc đƣợc tiến hành kịp thời, thƣờng xuyên đến các chức sắc, nhà tu hành và tín
đồ. Đặc biệt là có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ và hiệu quả giữa các ngành, các địa phƣơng trong

việc triển khai thực hiện đúng pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo và nghị định hƣớng dẫn việc thi hành
pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo.
Thứ tư, công tác quản lý nhà nƣớc của Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban Tôn giáo tỉnh đối với
hoạt động tôn giáo, cụ thể là trên hai phƣơng diện phần lễ và phần hội, đƣợc coi trọng và thực hiện
chặt chẽ, có hiệu quả
Thứ năm, công tác thanh tra, giám sát của Đảng bộ, UBND, MTTQ, Ban Tôn giáo tỉnh
trong việc giải quyết đơn khiếu nại trên các lĩnh vực tôn giáo đƣợc quan tâm và tiến hành đúng quy
định.
Thứ sáu, Tỉnh uỷ, UBND, MTTQ và Ban Tôn giáo tỉnh đã xây dựng chƣơng trình phối kết
hợp chặt chẽ với các ban ngành, đoàn thể các cấp trong việc vận động đoàn viên, hội viên là tín đồ
các tôn giáo chấp hành tốt chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc đề ra. Do đó, Đồng Tháp đã
đạt đƣợc kết quả cao trong việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo.
Thứ bảy, Đảng bộ và chính quyền địa phƣơng đã lãnh đạo, chỉ đạo điều hành trực tiếp, cụ
thể, đi sâu, đi sát, chủ động và kịp thời nắm bắt tâm tƣ, nguyện vọng của nhân dân, đặc biệt là đồng
bào có đạo. Nhờ vậy, việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và đoàn kết tôn giáo đƣợc
thực hiện ngày càng sâu rộng trong toàn tỉnh.

19
2.2.2. Những hạn chế trong công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ
Chí Minh tại tỉnh Đồng Tháp
Qua hơn 20 năm đổi mới, dƣới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền kết hợp với
các tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh, Đồng Tháp đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa quan trọng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong công tác xây dựng khối
đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, ngoài những thành tựu
đã đạt đƣợc nhƣ trên, công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo trên địa bàn tỉnh vẫn còn tồn tại
một số bất cập, hạn chế, thiếu sót đƣợc thể hiện cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội,
văn hoá.
Trên lĩnh vực kinh tế, do mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng và ảnh hƣởng của lối sống thực
dụng đem lại, đã xuất hiện một bộ phận gia đình tuy biết tranh thủ và tận dụng cơ hội vƣơn lên làm
giầu nhƣng lại không sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm làm ăn hoặc giúp đỡ các gia đình còn gặp khó

khăn, thậm chí họ còn nảy sinh tƣ tƣởng “cổng cao, rào kín”.
Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, do những âm mƣu và thủ đoạn chính trị nhằm lợi dụng tôn
giáo của các thế lực phản động, đặc biệt là âm mƣu “diễn biến hoà bình” nhằm chia rẽ khối đoàn kết
toàn dân, đoàn kết tôn giáo cũng gây những tác động xấu và khó khăn nhất định đến công tác xây
dựng khối đoàn kết đoàn toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở Đồng Tháp.
Trong lĩnh vực văn hóa. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống về lối sống, nhƣ sự chung thủy,
tinh thần đoàn kết “tối lửa, tắt đèn có nhau” ở trong mỗi gia đình, các thôn, làng, tổ dân phố đã và
đang có sự rạn nứt. Ngoài ra, mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng với sự cạnh tranh khốc liệt đã tạo
ra nhiều khuyết tật xấu tác động đến tƣ tƣởng, niềm tin, đạo đức, lối sống của ngƣời dân. Đặc biệt,
trong đời sống xã hội đã xuất hiện nhiều loại hình mê tín dị đoan, nhƣ tà đạo, bùa chú, bói toán,
tranh giành đức tin , làm ảnh hƣởng không nhỏ đến niềm tin tôn giáo, đạo đức, lối sống trong nhân
dân. Có thể nói, những hiện tƣợng đó đã gây nhiều khó khăn cho công tác xây dựng khối đoàn kết
toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp trong thời gian qua.
* Nguyên nhân của những hạn chế trong việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo
Thứ nhất, do sự khác biệt về nguồn gốc lịch sử bản thân, lợi ích, thu nhập, địa vị xã hội,
trình độ nhận thức giữa các gia đình, dòng họ, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp trong xã hội đƣa đến
những khó khăn trong công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo.
Thứ hai, do sự khác nhau về thế giới quan, nhu cầu tín ngƣỡng. Trong đó, có thế giới quan
duy vật và duy tâm, có đồng bào đi theo tôn giáo này nhƣng lại có đồng bào đi theo tôn giáo khác
hoặc có đồng bào không theo tôn giáo.
Thứ ba, do công tác vận động, tuyên truyền và sự phối kết hợp giữa các ban ngành, Mặt
trận, đoàn thể và chính quyền các cấp trong việc triển khai học tập, vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng Hồ

20
Chí Minh cùng với các quan điểm chính sách, văn bản pháp luật, nghị định của Nhà nƣớc về tôn
giáo và xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở nhiều cơ sở trong tỉnh thực tế còn kém hiệu quả, chƣa có
sự thống nhất, đồng bộ.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở cấp cơ sở còn thiếu và yếu về kinh nghiệm
thực tiễn, nghiệp vụ xử lý tình huống còn kém.
Thứ năm, cán bộ tại nhiều cơ sở vẫn chƣa đi sâu, đi sát trong việc thực hiện chức năng,

nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về tôn giáo, nhiều xã còn buông lỏng công tác quản lý nhà nƣớc về tôn
giáo.
Thứ sáu, chủ trƣơng và chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta là tự do tín ngƣỡng, không
phân biệt đối xử ngƣời theo tôn giáo hay không theo tôn giáo. Tuy nhiên, cá biệt ở một số địa
phƣơng vẫn còn tồn tại sự phân biệt đối xử và kỳ thị đối với những ngƣời đi theo tôn giáo này hoặc
đi theo tôn giáo khác của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ bảy, các thế lực phản động trong và ngoài nƣớc tiếp tục thực hiện “âm mƣu diễn biến
hoà bình”. Chúng tuyên truyền, kích động trong nhân dân, nhất là đồng bào các tôn giáo vấn đề tự
do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền…
2.3. Giải pháp nhằm phát huy và củng cố khối đoàn kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.3.1. Một số yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng quan điểm về tôn giáo và đoàn kết
tôn giáo của Hồ Chí Minh để xây dựng khối đoàn kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp hiện nay
Một là, nhận thức và vận dụng đúng đắn quan điểm về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo của Hồ
Chí Minh trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách, chủ trƣơng, giải pháp về công tác tôn
giáo phù hợp với đặc điểm tình hình của tỉnh Đồng Tháp.
Hai là, tăng cƣờng xây dựng sự đoàn kết giữa các tôn giáo, giữa ngƣời có tín ngƣỡng, tôn giáo
với ngƣời không có tín ngƣỡng, tôn giáo.
Ba là, chủ động đề phòng và ứng phó kịp thời những âm mƣu của các thế lực thù địch, phản
động lợi dụng tôn giáo phục vụ âm mƣu chính trị của chúng.
2.3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng quan điểm tôn giáo
của Hồ Chí Minh để xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay
Có thể khẳng định rằng, sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết tôn
giáo ở tỉnh Đồng Tháp qua hơn 20 năm đổi mới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá
đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn và có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, cũng phải thẳng
thắn thừa nhận rằng, ngoài những thành tựu đã đạt đƣợc, quá trình đó vẫn còn một số hạn chế, bất
cập nhất định đòi hỏi phải tiếp tục khắc phục, giải quyết một cách có hiệu quả. Để phát huy những
kết quả tích cực và khắc phục những hạn chế, thiếu sót nhằm xây dựng và củng cố khối đoàn kết

21

tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn mới, theo tôi, cần tập trung thực hiện tốt một số giải
pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm và trách nhiệm của hệ thống
chính trị ở địa phƣơng trong việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo.
Hai là, tăng cƣờng công tác vận động quần chúng nhân dân, trong đó có các tín đồ và các
tổ chức tôn giáo trong tỉnh Đồng Tháp tham gia xây dựng khối đoàn kết tôn giáo.
Ba là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác vận động tôn giáo.
Bốn là, tập trung nâng cao đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, tinh thần của nhân dân trong
tỉnh, đặc biệt là ở những vùng có đông tín đồ theo các tôn giáo đang còn khó khăn, đồng thời giải
quyết tốt vấn đề theo đạo và truyền đạo ở những nơi có nhu cầu.
Năm là, tăng cƣờng và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của công tác quản lý nhà nƣớc về tôn
giáo.
Sáu là, tăng cƣờng công tác tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh có chuyên môn về
lĩnh vực tôn giáo làm công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo.
KẾT LUẬN
Đoàn kết tôn giáo là bộ phận trong chiến lƣợc đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, chiến lƣợc
này đã quyết định lớn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Ngƣời luôn quan tâm đến công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân và đoàn kết tôn
giáo.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo đƣợc hình thành trên cơ sở kế thừa truyền
thống đoàn kết, truyền thống yêu nƣớc, lòng khoan dung, thực tiễn đấu tranh chống giặc ngoại xâm
và những âm mƣu chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo ở Việt Nam. Tƣ tƣởng ấy còn đƣợc soi rọi bằng
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa
Mác – Lênin về tôn giáo, dân tộc, thời đại cùng với những tinh hoa văn hoá của nhân loại ở
phƣơng Đông và phƣơng Tây.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh mãi mãi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho toàn Đảng, toàn dân ta học
tập, vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo trong giai
đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc. Đảng và Nhà nƣớc ta luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do
tín ngƣỡng, tôn giáo của nhân dân trên tinh thần không phân biệt đối xử đối với đồng bào theo hoặc
không theo tín ngƣỡng, tôn giáo; đồng thời xử lý nghiêm đối với những trƣờng hợp vi phạm quyền

tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của nhân dân theo đúng pháp lệnh về tín ngƣỡng, tôn giáo năm 2004 và
luật pháp Việt Nam.
Tại tỉnh Đồng Tháp, trên tinh thần tiếp thu và vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo và đoàn kết tôn giáo, Đảng bộ và chính quyền các cấp trong tỉnh đã tích cực, chủ động vận

×