Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

(Luận án tiến sĩ) quan hệ sở hữu ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 171 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM ĐỨC THƯ

QUAN HỆ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM ĐỨC THƯ

QUAN HỆ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.03.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Thị Lan

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Đặng Thị Lan. Các kết quả nghiên cứu


được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan. Các thơng tin trích
dẫn trong luận án đều được chỉ dẫn rõ nguồn gốc.

Hà Nội ngày tháng năm 2019
Tác giả luận án

Phạm Đức Thư

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐỀN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 7
1.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý luận chung
về quan hệ sở hữu ............................................................................................ 7
1.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng về quan hệ
sở hữu ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 17
1.3. Nhóm các cơng trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp hoàn thiện
quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay .......................................................... 22
1.4. Đánh giá chung các cơng trình nghiên cứu và những vấn đề luận án
cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ ..................................................................... 29
Chương 2. QUAN HỆ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - MỘT SỐ . 33
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ....................................................................................... 33
2.1. Khái niệm sở hữu, quan hệ sở hữu và những nội dung cơ bản của
quan hệ sở hữu............................................................................................... 33
2.2. Mối quan hệ giữa quan hệ sở hữu với các yếu tố khác thuộc quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng ............................................................... 43
2.3. Cơ cấu quan hệ sở hữu và sự vận động, phát triển của nó trong lịch

sử ..................................................................................................................... 48
2.4. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam
về giải quyết vấn đề quan hệ sở hữu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội............................................................................................................... 52
2.5. Cơ cấu quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay và những nhân tố ảnh
hưởng đến sự vận động, phát triển của quan hệ sở hữu ........................... 64
Chương 3 THỰC TRẠNG QUAN HỆ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA......................................................... 77
3.1. Thực trạng quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay ............................... 77

1


3.2. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................. 114
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUAN
HỆ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 122
4.1. Quan điểm trong việc giải quyết vấn đề quan hệ sở hữu ở Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................ 122
4.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................. 126
KẾT LUẬN .................................................................................................. 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 157

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của quan hệ sản xuất, nó xuất

hiện, tồn tại khách quan và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Quan hệ sở hữu quy định bản chất của nền sản xuất xã hội
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, là cái để phân biệt các chế độ chính trị
xã hội khác nhau (đặc biệt là giữa chế độ tư bản chủ nghĩa với chế độ xã hội
chủ nghĩa). Việc nhận thức và giải quyết hợp lý vấn đề quan hệ sở hữu sẽ tạo
động lực huy động và phân bổ hợp lý các nguồn lực để vừa bảo đảm lợi ích
của chủ sở hữu, vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, nhận
thức sai và giải quyết không hợp lý vấn đề quan hệ sở hữu sẽ tạo nên những
cản trở hữu hình và vơ hình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, thậm chí gây
nên những xung đột xã hội.
Ở Việt Nam từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (1986), nhất là từ khi hệ
thống xã hội chủ nghĩa ở Liên - Xô và Đông Âu sụp đổ (1991), ln nhất
qn kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, thực hiện đổi mới kinh tế từ
chế độ nhất nguyên về sở hữu sang chế độ đa nguyên về sở hữu. Nhờ đường
lối đổi mới này, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng
cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng lên. Nhằm tiếp tục khẳng định những thành quả đã đạt được của
công cuộc đổi mới và thể chế hóa các quan điểm của Đảng, tại kỳ họp thứ 6
quốc hội khóa XIII (2013) đã thơng qua Hiến pháp sửa đổi, trong đó khẳng
định: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Trong bối cảnh như vậy, vấn đề quan hệ sở hữu ở Việt
Nam là một trong những vấn đề rất căn bản, luôn là vấn đề quan trọng được
đề cập trong các kỳ Đại hội của Đảng, cũng như sự quan tâm của giới nghiên
3


cứu và các nhà quản lý.

Từ thực tế đã khẳng định khơng thể có một nền kinh tế thị trường lại
khơng có những quan hệ sở hữu khác nhau, như vậy, với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất như ở Việt Nam hiện nay thì quan hệ sở hữu như thế
nào là phù hợp?. Những biểu hiện đặc trưng của chế độ sở hữu tư liệu sản
xuất trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là gì?. Từ đó để phát
triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì yêu cầu cơ
cấu quan hệ sở hữu vừa phải đảm bảo các nguyên tắc hoạt động của quy luật
thị trường, vừa phải đảm bảo được mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhiều vấn đề cụ thể cần phải giải quyết như xác lập cơ cấu các hình thức sở
hữu; làm thế nào phát huy được vai trị tích cực của tất cả các hình thức sở
hữu vừa đảm bảo vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước. Cần có những giải
pháp gì để hồn thiện quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay. Trải qua hơn 30
năm thực hiện công cuộc đổi mới, đến nay những vấn đề trên mặc dù đã được
nghiên cứu và thảo luận nhiều nhưng vẫn chưa có ý kiến thống nhất, cịn rất
nhiều ý kiến khác nhau, đòi hỏi chúng ta tiếp tục tổng kết thực tiễn, rút ra
những bài học kinh nghiệm để khái quát và bổ sung những vấn đề lý luận
mới.
Hiện nay, để chuẩn bị cho Đại hội lần thứ XIII của Đảng, những vấn đề
mới về quan hệ sở hữu đã bắt đầu được đề cập, các cuộc thảo luận lại đang
nóng dần, luận án này góp sẽ góp thêm tiếng nói vào việc giải quyết một vài
nội dung liên quan đến quan hệ sở hữu ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Quan hệ sở
hữu ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của
mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận chung về quan hệ sở hữu,
luận án làm rõ thực trạng quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất
4



một số quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ sở hữu ở Việt Nam
trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận chung về quan hệ sở
hữu và xác định cơ cấu quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, khảo cứu, đánh giá thực trạng quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện
nay và khái quát những vấn đề cấp bách đang đặt ra cần giải quyết.
Thứ ba, đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và
hoàn thiện quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay trong giai đoạn tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan hệ sở hữu ở Việt Nam
hiện nay.
3.2. Phạm vi
Quan hệ sở hữu có nội dung rất rộng lớn, trong khuôn khổ nghiên cứu,
luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất ở
Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế từ khi đổi mới (1986) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về sở hữu; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề
quan hệ sở hữu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; sự vận dụng sáng
tạo những tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lê nin về sở hữu của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước. Ngồi ra, luận án có kế
thừa và phát triển những thành tựu nghiên cứu của các học giả đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án chủ yếu sử dụng các phương
pháp nghiên cứu của triết học như phương pháp logic, phương pháp lịch sử,
phương pháp phân tích, tổng hợp, khái qt hóa, so sánh, đối chiếu…
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đã phân tích làm rõ hơn một số vấn đề lý luận chung về quan
5



hệ sở hữu, lý luận về cơ cấu quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
- Căn cứ vào cơ cấu quan hệ sở hữu, luận án đã khảo cứu, phân tích thực
trạng quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề mang tính cấp
bách đang đặt ra.
- Luận án đã đề xuất và phân tích một số quan điểm và những giải pháp
cơ bản nhằm hoàn thiện quan hệ sở hữu ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu,
giảng dạy triết học, kinh tế chính trị học, quản lý kinh tế… trong các trường
đại học, học viện và cho những ai quan tâm vấn đề này.
Kết quả luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan hoạch
định chính sách liên quan đến vấn đề quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án có
kết cấu gồm 04 chương, 13 tiết.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐỀN ĐỀ TÀI
Có thể nói, vấn đề sở hữu là một phạm trù của khoa học liên ngành, được
nghiên cứu trên nhiều phương diện như kinh tế, chính trị, triết học, luật học…
Trước kia, vấn đề sở hữu ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa nói
chung, Việt Nam nói riêng được coi là đã xong xi, các cơng trình nghiên
cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu, luận giải về tính tất yếu và cần thiết của
việc xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để thiết lập chế độ sở hữu công
hữu về tư liệu sản xuất. Từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới (1986)

đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, những cuộc hội thảo với quy mô
và cấp độ khác nhau đề cập đến vấn đề sở hữu trên cả phương diện lý luận và
thực tiễn. Cũng có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về vấn
đề sở hữu, đặc biệt là quan niệm về vai trị, vị trí của sở hữu nhà nước trong
nền kinh tế quốc dân. Về các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, có
thể phân chia thành các nhóm cơng trình sau đây.
1.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý luận
chung về quan hệ sở hữu
1.1.1. Các quan niệm về sở hữu
Khi nghiên cứu vấn đề sở hữu, chúng ta thường thấy nổi lên vấn đề cơ
bản là các cơng trình nghiên cứu sử dụng khái niệm sở hữu hay sử dụng khái
niệm quan hệ sở hữu, nó làm phạm trù lịch sử hay phạm trù vĩnh viễn. Quan
niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu và việc giải quyết vấn đề sở hữu
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?
Trong cuốn Sở hữu và cây đời, tác giả Trần Đức cho rằng: “Trước hết,
sở hữu có phải là nhu cầu không…ngay trong giới động vật, người ta nhận
thấy có một loại sở hữu cá thể khi lồi cầm thú vồ được con mồi hoặc khi nó
chiếm được một chỗ trú giữa núi rừng hoang vu; một loại sở hữu gia đình
chẳng hạn, khi nó có một cái tổ; một loại sở hữu tập thể chẳng hạn, khi một
7


xã hội ong, kiến hoặc mối chiếm lĩnh một tổ ong, một tổ kiến hoặc một tổ
mối. Trong xã hội lồi người cũng vậy, có những loại sở hữu như trên; sở hữu
cá thể, sở hữu tập thể, sở hữu cơng cộng, và mỗi người đều có một nhu cầu
chiếm hữu, nhu cầu này nhằm thỏa mãn bản năng bảo tồn của con người, nói
dễ hiểu, là để con người có thể sống được” [38, tr. 130]. Như vậy, theo tác
giả, thì sở hữu bắt nguồn từ chiếm hữu, sự chiếm hữu này là bản năng tự
nhiên của cả động vật và con người nhằm mục đích sinh tồn. Khái niệm sở
hữu được tác giả nhắc đến ở đây là một phạm trù rất rộng, có thể hiểu đơn

thuần là sự chiếm hữu của con người với một đối tượng nào đó nhằm thỏa
mãn nhu cầu của mình.
Cuốn Vấn đề sở hữu do Nguyễn Thị Luyến chủ biên [75], công trình này
xuất bản năm 1991, tập hợp các bài viết chủ yếu của các học giả người Liên
Xô, Trung Quốc viết trong giai đoạn 1985 - 1991. Trong cơng trình này, mặc
dù các bài viết không đưa ra khái niệm quan hệ sở hữu là gì, chưa phân tích
đầy đủ nội hàm của quan hệ sở hữu, các yếu tố cấu thành của quan hệ sở hữu,
nhưng toàn bộ nội dung các bài viết đã xem quan hệ sở hữu là một mặt của
quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Các bài viết cũng phê
phán nhận thức cũ, những quan niệm cũ đem quy giản các quan hệ sở hữu tư liệu
sản xuất trong chủ nghĩa xã hội về hai hình thức sở hữu tồn dân và tập thể,
trong đó việc xác định các chủ thể sở hữu hết sức trừu tượng, chung chung.
Có cơng trình coi quan hệ sở hữu trước hết là sở hữu tài sản của con
người, là quan hệ giữa con người với con người trong chiếm hữu đồ vật,
chiếm hữu tài sản và nó xuất hiện cuối thời cơng xã nguyên thủy. Chẳng hạn
trong bài viết Chế độ sở hữu, quan hệ sở hữu và các khu vực kinh tế của
Nguyễn Cúc trong cuốn Kỷ yếu hội thảo quốc gia Mơ hình kinh tế tổng qt
trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [49], theo tác giả: “Về
mặt lịch sử, sở hữu xuất hiện trong xã hội loài người từ khi xuất hiện các quan
hệ chiếm hữu đồ vật, chiếm hữu tài sản, chiếm hữu đối với người khác - tức là
xuất hiện từ cuối thời công xã nguyên thủy. Cho đến khi xã hội có giai cấp
8


phát triển, sở hữu vẫn là các quan hệ trước hết là quan hệ giữa người với các
tài sản, đồ vật mà con người chiếm hữu, sau đó là quan hệ giữa người với
người trong sự liên quan đến việc chiếm hữu tài sản. Sở hữu ban đầu là khái
niệm pháp lý dùng để chỉ các quan hệ tài sản, sau đó được các nhà kinh tế học
sử dụng như một phạm trù kinh tế - chính trị - đó là quan hệ giữa người với
người trong tổ chức sản xuất xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, cách hiểu thuật

ngữ sở hữu vẫn khác nhau tùy theo quan điểm tiếp cận. Trước khi xem xét
bản chất, các yếu tố của sở hữu, chúng ta hãy xem xét vị trí của sở hữu trong
lý thuyết kinh tế. Nhiều khi chính từ yếu tố này sẽ quy định sự khác biệt trong
lập luận về bản chất và các yếu tố cấu thành của sở hữu” [49, tr. 195].
Ngược lại, tác giả Trần Minh Đạo trong bài Sở hữu trong nền kinh tế thị
trường Việt Nam đăng trên Kỷ yếu hội thảo quốc gia Mơ hình kinh tế tổng
qt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cho rằng sở hữu
không những là quan hệ sản xuất mà tùy theo góc tiếp cận sở hữu phản ánh cả
khía cạnh của lực lượng sản xuất: “Sở hữu khơng đơn giản chỉ là quan hệ sản
xuất, mà tùy vào góc độ tiếp cận mà trong đó sở hữu phản ánh quan hệ sản
xuất hay hàm chứa cả khía cạnh của lực lượng sản xuất. Nếu xét riêng về mối
quan hệ giữa người và người nhằm xác định ai là chủ thể, xét về mặt pháp lý
của đối tượng được sở hữu thì đó là quan hệ sản xuất. Nhưng nếu xét vai trò
của sở hữu với việc tạo nguồn lực và sự tác động tới tăng trưởng kinh tế thì sở
hữu lại hàm chứa cả yếu tố của lực lượng sản xuất. Trong thời đại kinh tế
nông nghiệp việc sở hữu tài nguyên, bao gồm cả số lượng nô lệ là yếu tố
trọng yếu nhất có liên quan đến sự phát triển của sức sản xuất và do đó tạo
cho người chủ sở hữu các tài nguyên này vị thế làm chủ xã hội. Trong thời đại
kinh tế công nghiệp ai sở hữu các tư liệu sản xuất, các nhà máy thì người đó
làm chủ xã hội. Theo logic tương tự, trong thời đại kinh tế tri thức, ai làm chủ
tri thức thì người đó làm chủ xã hội. Vì tri thức là yếu tố chủ chốt quyết định
sự phát triển của lực lượng sản xuất” [49, tr. 213]. Như vậy, sở hữu ở đây
được hiểu là quan hệ sở hữu, quan hệ giữa con người với con người trong sở
9


hữu đối tượng tư liệu sản xuất, một bộ phận của quan hệ sản xuất.
Có nhiều tác giả khi nói đến sở hữu trước hết là quan hệ giữa con người
với các tài sản mà con người chiếm hữu, sau đó mới là quan hệ giữa con
người với con người trong sự liên quan đến chiếm hữu. Chẳng hạn trong bài

viết Nhận thức về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ở
nước ta của tác giả Nguyễn Cúc: “Về mặt lịch sử, sở hữu xuất hiện trong các
xã hội loài người từ khi xuất hiện các quan hệ chiếm hữu đồ vật, chiếm hữu
tài sản, chiếm hữu đối với người khác - tức là xuất hiện từ cuối thời công xã
nguyên thủy. Cho đến khi xã hội có giai cấp phát triển, sở hữu vẫn là các quan
hệ trước hết giữa người với các tài sản, đồ vật mà con người chiếm hữu, sau
đó là quan hệ giữa con người trong sự liên quan đến việc chiếm hữu tài sản”
[14, tr. 36]. Tương tự như tác giả Nguyễn Cúc, tác giả Vũ Hồng Sơn trong bài
Góp phần nhận thức về vấn đề sở hữu trong văn kiện đại hội X cho rằng: “Sở
hữu là một phạm trù tồn tại vĩnh viễn cùng loại người, nhưng khi nói ai sở
hữu và sở hữu cái gì thì lại là vấn đề có tính lịch sử. Sở hữu được nghiên cứu
dưới nhiều giác độ khoa học khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội. Nếu xét ở góc độ triết học thì nó ở vị trí cơ sở hạ tầng, quyết định thượng
tầng kiến trúc, trước hết là thượng tầng kiến trúc chính trị [106, tr. 44].
Cũng có nhiều cơng trình quan niệm sở hữu là quan hệ xã hội giữa người
với người về việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Trong cuốn Tác động của quá
trình đổi mới sở hữu đến sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lĩnh vực
nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay [47] của Nguyễn Thị Hoài và Nguyễn Đức
Luận, theo các tác giả, sở hữu là quan hệ giữa con người với con người trong
việc sở hữu tư liệu sản xuất, sở hữu ở đây được hiểu là một mặt của quan hệ
sản xuất: “Sở hữu là quan hệ giữa người với người đối với việc chiếm hữu tư
liệu sản xuất và thông qua quan hệ ấy, con người thực hiện lợi ích, thỏa mãn
nhu cầu của mình”[47, tr. 13]. Cũng trong cơng trình này, các tác giả trình
bày các nội dung liên quan đến khái niệm sở hữu bao gồm: chủ thể sở hữu,
đối tượng sở hữu, hệ thống các quyền của sở hữu, hình thức sở hữu, chế độ sở
10


hữu. Bài viết Quan hệ sở hữu: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [93] của tác
giả Hồ Tấn Phong: Sở hữu là quan hệ xã hội giữa người với người về việc

chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải xã hội. Điều này có nghĩa là khi nói về
sở hữu khơng chỉ bao gồm quan hệ con người chiếm hữu tư liệu sản xuất, của
cải, mà sức quan trọng là nói về quan hệ giữa người với người diễn ra sự
chiếm hữu đó. Trong bài Sở hữu tư liệu sản xuất và các thành phần kinh tế
theo tinh thần đại hội IX của Đảng [55], tác giả Nguyễn Đình Kháng cho
rằng: sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động; sở hữu phản ánh
quan hệ giữa con người với con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất
và của cải được tạo trong quá trình sản xuất; sở hữu vừa là kết quả, vừa là
điều kiện cho sự phát triển lực lượng sản xuất, là hình thức xã hội có tác dụng
thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích và khn khổ nghiên cứu, các tác giả
nêu trên chưa đi vào làm rõ những nội dung liên quan đến quan hệ giữa con
người với con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất như: lịch sử vận
động và phát triển của chiếm hữu, yếu tố nào làm nên đặc trưng của mỗi giai
đoạn chiếm hữu trong lịch sử, việc chiếm hữu bị quy định bởi yếu tố nào…
Khi nghiên cứu quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu, các
cơng trình nghiên cứu đều thống nhất cho rằng, trong hệ thống lý luận của
mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khơng có ý định nêu ra một định nghĩa
cụ thể về khái niệm sở hữu. Tuy nhiên, khi nghiên cứu sự tồn tại và vận động
của một xã hội, đặc biệt là quá trình vận động từ xã hội tư bản lên xã hội cao
hơn, vấn đề sở hữu trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin có vị trí cực
kỳ quan trọng, tiêu biểu như một số cơng trình dưới đây:
Trong cuốn Một số vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay [112] do hai tác giả
Nguyễn Văn Thạo và Nguyễn Hữu Đạt chủ biên, theo các tác giả, dựa vào các
tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể khái quát rút ra một số
vấn đề cơ bản về sở hữu như sau: một là, sở hữu được coi là điều kiện của sản
xuất xã hội; hai là, sở hữu là quan hệ xã hội, quan hệ sở hữu không phải là
11



quan hệ giữa người với vật mà trước hết là quan hệ giữa người với người
trong việc chiếm hữu của cải vật chất; ba là, quan hệ sở hữu luôn ln biến
đổi, khơng có một hình thức sở hữu nào tồn tại vĩnh viễn; bốn là, sự vận động
và phát triển của quan hệ sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên; năm là, sự
tồn tại nhiều loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ; sáu là, việc xóa bỏ chế độ
tư hữu phải là một quá trình lâu dài; bảy là, quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa
chuyển biến theo hướng xã hội hóa, quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng.
Dựa trên sự khái quát mà hai tác giả đã trình bày ở trên, ta có thể thấy sở hữu
ở đây chính là một mặt của quan hệ sản xuất - quan hệ sở hữu. Khi nói đến
quan hệ sở hữu là một bộ phận của quan hệ sản xuất là nói đến quan hệ giữa
con người với con người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất, nó khác quan hệ
giữa con người với con người trong việc sở hữu tài sản nói chung (tài sản ở
đây có thể là tư liệu sản xuất, có thể là các đồ vật tiêu dùng của mỗi cá nhân).
Cũng tương tự như vậy, trong cơng trình Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [127] của tập thể tác giả
do Nguyễn Kế Tuấn chủ biên, theo các tác giả: khác với các nhà tư tưởng
đương thời, C. Mác đã đi sâu nghiên cứu vấn đề sở hữu gắn với việc nghiên
cứu các hình thái kinh tế - xã hội chứ không nghiên cứu khái niệm sở hữu một
cách chung chung, trừu tượng. Phương pháp luận nghiên cứu khái niệm sở
hữu phải đi từ việc phân tích nền sản xuất xã hội. Chỉ có dựa vào nghiên cứu
các điều kiện vật chất của đời sống xã hội, mới có thể đưa ra được định nghĩa
đúng đắn về sở hữu và vị trí, vai trị của nó trong hệ thống các quan hệ xã hội
nói chung. Trên cơ sở nghiên cứu sở hữu với chiếm hữu những sản vật của tự
nhiên, C. Mác đã đi đến những nhận định sau đây về sở hữu: sở hữu là một
quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể; sở hữu là quan hệ sản xuất chứ không
phải quan hệ ý chí; cơ sở của sở hữu là mối quan hệ của con người với tư liệu
sản xuất; phương thức chiếm hữu tư liệu sản xuất quy định phương thức
chiếm hữu các sản phẩm sản xuất ra; sở hữu là quan hệ mang tính pháp lý.
Trong tiến trình lịch sử, những kẻ chiếm đoạt đều nhận thấy cần phải thông
12



qua luật pháp do chính họ đặt ra để đem lại tính ổn định về mặt xã hội.
Tác giả Trần Ngọc Linh trong bài “Lý luận Mác - Lênin về vấn đề sở
hữu và công cuộc đổi mới ở nước ta” [70] cho rằng: trong quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về sở hữu thì sở hữu là mối quan hệ xã hội, tồn tại một
cách khách quan giữa người với người trong quá trình lao động sản xuất.
Theo tác giả này: “Theo Mác, sở hữu chính là phương thức chiếm hữu mang
tính xã hội, lịch sử cụ thể của con người đối với những của cải vật chất và tinh
thần được sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất (tư liệu sản
xuất, sức lao động, các yếu tố khác của lực lượng sản xuất), hoặc thỏa mãn
nhu cầu sinh hoạt về mọi mặt của cuộc sống con người (chiếm hữu tư liệu
sinh hoạt). Đặc biệt, C. Mác nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết hữu cơ của sở
hữu với quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội. Trên bình diện này, sở
hữu chính là mối quan hệ giữa người với người trong q trình lao động sản
xuất” [70, tr. 37].
Ngồi ra cịn nhiều cơng trình nghiên cứu ở mức độ khác nhau khi
nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu cũng thống nhất
coi sở hữu là một quan hệ xã hội, trước hết là quan hệ giữa con người với con
người về việc sở hữu tư liệu sản xuất. Có thể kể ra bài viết Quan niệm của C
.Mác về sở hữu và pháp luật về sở hữu với tư cách là những hình thái hiện
thực của quan hệ sản xuất của tác giả Trần Kỳ Đồng [35]; bài viết Cơ sở lý
luận của việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay của hai
tác giả Đặng Thị Lan và Lê Thị Vinh [58]…
Việc C. Mác và Ph. Ăngghen không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về
sở hữu là do chính đặc điểm lịch sử hoạt động lý luận ở thời kỳ C. Mác và Ph.
Ăngghen đã quy định hoạt động lý luận của các ông về vấn đề sở hữu. Điều
đó có nghĩa là bản thân khái niệm sở hữu với tính cách là khái niệm trừu
tượng khơng được đặt ra, mà vấn đề đặt ra là hình thức sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa có vai trò như thế nào đối với sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, các nhà

kinh điển của chủ nghĩa Mác chưa nêu ra một khái niệm cụ thể về sở hữu.
13


Vấn đề được quan tâm ở thời kỳ này là vấn đề xác định quyền sở hữu trong
các chế độ sở hữu khác nhau.
Có thể khẳng định, vào những năm 40 của thế kỷ XIX, yêu cầu lịch sử
đặt ra cho các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác là xác định vai trò của sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa và khuynh hướng vận động của chế độ sở hữu này
trong lịch sử; làm rõ quyền sở hữu trong các chế độ sở hữu cũng như tính tất
yếu của quá trình thay đổi quyền sở hữu của người lao động. Do đó, trong các
tác phẩm của mình C. Mác và Ph. Ăngghen không chủ tâm và không dành
riêng một phần nào để nói về khái niệm sở hữu mà xem xét nó trong quan hệ
với những mối quan hệ tất yếu khác như: quan hệ với trình độ lực lượng sản
xuất, quan hệ sở hữu do lực lượng sản xuất quy định, thay đổi cùng với sự
thay đổi của lực lượng sản xuất; quan hệ với các mặt khác của quan hệ sản
xuất; quan hệ với các yếu tố thuộc hệ thống kinh tế - xã hội; quan hệ với pháp
lý và chính trị.
1.1.2. Chế độ sở hữu và hình thức sở hữu
Cho đến nay, quan niệm về chế độ sở hữu và hình thức sở hữu, phân biệt
giữa chế độ sở hữu và hình thức sở hữu, mối quan hệ giữa chế độ sở hữu và
hình thức sở hữu vẫn là vấn đề được các tác giả của các cơng trình nghiên cứu
đưa ra quan niệm khác nhau. Nhiều cơng trình nghiên cứu quan niệm chế độ
sở hữu là sự thể chế hóa về mặt pháp lý của các hình thức sở hữu đang tồn tại
trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Trong xã hội đã phân chia
thành giai cấp và nhà nước, chế độ sở hữu được sử dụng như một khái niệm
pháp lý dùng để chỉ các quan hệ tài sản.
Có nhiều tác giả cho rằng, chế độ sở hữu là sự pháp lý hóa các quan hệ
sở hữu thành các quyền. Các tác giả Lương Minh Cừ, Vũ Văn Thư trong cuốn
Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, một số nhận thức về

lý luận và thực tiễn [16] cho rằng: chế độ sở hữu là sự thể chế hóa có tính chất
pháp lý của sở hữu. Ở đây, nó khơng chỉ xác định quyền sở hữu thuộc về ai
mà là cả một hệ thống thiết chế bảo đảm ổn định và vận hành thuận lợi của hệ
14


thống kinh tế. Chế độ sở hữu tồn tại dưới nhiều mức độ cụ thể, đa dạng,
phong phú như: Luật Đất đai, Luật Đầu tư…cũng có thể ở dạng dưới luật như
nội dung, quy chế, quy ước…Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một quan
hệ sở hữu đặc trưng và tên gọi của nó cũng thể hiện chế độ sở hữu đặc trưng
đó. Trong lúc đó, hình thức sở hữu cũng là một nội dung quan trọng khác của
sở hữu. Nó là cơ sở khách quan của sở hữu, tương ứng với những trình độ
phân cơng lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cũng
theo các tác giả này: cho đến nay, lồi người đã trải qua nhiều hình thức sở
hữu, phát triển qua các giai đoạn khác nhau từ sở hữu bộ lạc, đến các hình
thức sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội hiện đại ngày
nay, phần lớn các quan điểm đều cho rằng, mặc dù rất phong phú, nhưng trên
thực tế chỉ tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu nhà nước, sở hữu tư
nhân và sở hữu hỗn hợp.
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn trong bài Chế độ sở hữu và các thành phần kinh
tế, theo tinh thần nghị quyết Đại hội IX của Đảng [92] cho rằng: “Người ta
cũng có thể dùng cụm từ “chế độ sở hữu” để chỉ loại sở hữu phổ biến, loại sở
hữu thống trị trong xã hội, cịn cụm từ “hình thức sở hữu” để chỉ những hình
thức cụ thể của chế độ sở hữu. Song sự phân biệt ấy là tương đối, và nhìn
chung ngày nay nói chế độ sở hữu hoặc hình thức sở hữu là có nội dung
tương tự, về thực chất là muốn nói ai là chủ tư liệu sản xuất” [92, tr. 3].
Theo tác giả Nguyễn Đạt Lai: “Chế độ sở hữu là sự pháp lý hóa các quan
hệ sở hữu thành các quyền như; quyền định đoạt, quyền sử dụng, quyền quản
lý sản xuất kinh doanh, quyền thực thi các lợi ích kinh tế. Tương ứng với các
phương thức sản xuất khác nhau thì có các loại hình sở hữu thống trị khác

nhau. Tựu chung trong lịch sử kinh tế hàng hóa, đến nay thế giới đã có 3 hình
thức sở hữu chính: sở hữu xã hội, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. (Trong
thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta từng đồng nhất sở hữu xã hội với
công hữu - gồm sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể)” [49, tr.
228].
15


Tác giả Ngô Kim Thanh trong bài Vấn đề sở hữu và các hình thức tổ
chức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam [49] cho rằng: từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta ngày
càng nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa chế độ sở hữu, hình thức sở hữu và
loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Mỗi chế độ sở hữu trong thực tiễn có
thể có nhiều hình thức sở hữu mà ở đó có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất được thể hiện dưới các loại hình sản xuất, kinh doanh
có hiệu quả, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Nói tóm lại, kiến giải về nội dung liên quan đến quan niệm về chế độ sở
hữu và hình thức sở hữu, cũng như mối liên hệ giữa chúng đến nay vẫn còn
nhiều tranh luận chưa đi đến thống nhất. Điều này được tác giả Lương Xuân
Quỳ trong cuốn Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong
bối cảnh mới [102] cho rằng: “Trong lý luận, vẫn chưa xác định rõ ràng và
thống nhất các “chế độ sở hữu” và hình thức sở hữu trong nền kinh tế nước ta;
tư duy về kinh tế tư nhân chưa thật rõ ràng, dứt khoát; đâu đó vẫn cịn có tư
tưởng coi quan hệ sản xuất, trong đó có quan hệ sở hữu, như là mục tiêu, chứ
khơng phải là tạo điều kiện giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất. Nhận thức về
sở hữu chưa rõ ràng, dẫn đến sự lúng túng trong thể chế hóa sở hữu của khu
vực doanh nghiệp nhà nước. Vẫn xác nhận và duy trì khái niệm sở hữu tồn
dân nhưng chưa có sự luận giải rõ ràng về bản chất và nội hàm của hình thức
sở hữu này” [102, tr. 183].
Tương tự như vậy, tác giả Nguyễn Thành Trì trong bài Chế độ sở hữu,

các hình thức sở hữu, quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt và chế độ sử
dụng, phân phối nguồn lợi tài sản quốc gia trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [124] cho rằng: hiện nay chưa có sự thống
nhất trong việc sử dụng thuật ngữ chế độ sở hữu và hình thức sở hữu. Hiểu
thật đúng nội hàm các quyền của chủ sở hữu là cơ sở để giải quyết những vấn
đề lớn đang đặt ra hiện nay, như quản lý tài sản, sử dụng, phân phối nguồn lợi
từ tài sản, chính sách phúc lợi xã hội như thế nào cho công bằng và hợp lý.
16


1.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng về
quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay
Khi nghiên cứu về thực trạng quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay, các
cơng trình nghiên cứu thường trình bày theo hai nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu khẳng định có được thành tựu như
hiện nay là kết quả của đường lối đổi mới quan hệ sở hữu từ đơn nhất sang
tồn tại nhiều hình thức sở hữu, cụ thể:
Cơng trình Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lý luận và
thực tiễn [51] do Nguyễn Duy Hùng chủ tịch hội đồng biên soạn cho rằng:
“Trong những năm qua, việc giải quyết vấn đề liên quan đến sở hữu đã đạt
được nhiều thành tựu. Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thể chế về chế độ đa hình thức sở hữu đã được xác
lập thông qua các quy định trong Hiến pháp và pháp luật…Đối với sở hữu
nhà nước, nước ta đã có nhiều đổi mới trong khung khổ luật pháp. Đối với sở
hữu tư nhân, chúng ta cũng đạt được tiến bộ không thể phủ nhận trong khung
khổ luật pháp, chính sách về sở hữu tư nhân, thừa nhận và bảo hộ quyền sở
hữu tư nhân đối với các nhân tố sản xuất. Đối với sở hữu tập thể, việc ban
hành và thực thi Luật hợp tác xã năm 2003 và Luật doanh nghiệp 2005 đã
bước đầu hình thành khung khổ cho sở hữu tập thể, khẳng định vai trò ngày
càng tăng của khu vực sở hữu này. Bên cạnh những thành tựu nên trên, vẫn

còn nhiều hạn chế và tồn tại trong hệ thống thể chế hiện hành liên quan đến
vấn đề sở hữu, đặc biệt là các “khoảng trống” thể chế liên quan đến quyền sở
hữu về đất đai, tài nguyên, tài sản công. Nhận thức về sở hữu nhà nước, sở hữu
toàn dân đối với đất đai cịn chưa đầy đủ, chưa thống nhất. Tiêu chí để xác định
và phân biệt các hình thức sở hữu còn chưa hợp lý” [51, tr. 504, 505].
Bài viết Tiếp tục hoàn thiện thể chế sở hữu đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [91], tác giả Ngô
Tuấn Nghĩa đã khái quát 30 năm thực hiện từng bước hoàn thiện thể chế về sở
hữu đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường ở Việt
17


Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật sau đây: Thứ nhất, bộ máy lãnh
đạo, quản trị đất nước đã được chuyển đổi thành công tư duy về sở hữu trong
nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung sang tư duy về sở hữu trong điều
kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Thứ hai, thể chế xác lập
quyền sở hữu, cấu trúc quyền sở hữu tài sản của các chủ thể trong xã hội đã
hình thành đồng bộ. Trên cơ sở Hiến pháp, Bộ luật Dân sự 1995 được ban
hành, quy định cụ thể về xác lập quyền sở hữu, nội hàm cấu trúc quyền sở
hữu được chỉ rõ và khơng ngừng hồn thiện trong các Bộ luật Dân sự 2005,
2015. Thứ ba, thể chế phân định các hình thức sở hữu từng bước được cụ thể
hóa theo tiến trình phát triển của xã hội. Thứ tư, thể chế bảo hộ quyền sở hữu,
các đối tượng sở hữu, rành mạch giữa nội dung pháp lý và nội dung kinh tế
của sở hữu dần được chi tiết theo xu hướng phát triển của nền kinh tế thị
trường và triển khai áp dụng thực tế trong đời sống xã hội.
Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu đề cập đến thực trạng tình hình hoạt
động của các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Các cơng trình nghiên
cứu khẳng định việc tồn tại chế độ sở hữu đa hình thức sở hữu tương ứng với
đa thành phần kinh tế là tất yếu khách quan.
Công trình Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam [118], tác giả

Nguyễn Văn Thức đã trình bày thực trạng của các hình thức sở hữu và vai trị
của chúng trong nền kinh tế của Việt Nam hiện nay. Theo tác giả, trong điều
kiện phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cơ cấu
quan hệ sở hữu của nền kinh tế bao gồm các hình thức sở hữu như sau: “Sở
hữu tồn dân, được biểu hiện phổ biến dưới hình thức sở hữu nhà nước, với
nhiều dạng, mức độ, trong nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân.
Sở hữu tập thể của những người sản xuất hàng hóa nhỏ với nhiều dạng, nhiều
mức độ trong nhiều lĩnh vực từ nông nghiệp, công nghiệp đến dịch vụ. Sở
hữu cá thể của những người sản xuất nhỏ với nhiều dạng, trong nhiều lĩnh vực
khác nhau. Sở hữu tư nhân trong những lĩnh vực do luật pháp quy định. Sở
hữu nước ngoài, bao gồm các công ty nhà nước, các công ty trách nhiệm hữu
18


hạn của các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Sở hữu hỗn hợp, đó là
sự dung hợp giữa sở hữu nhà nước và sở hữu của nhà tư bản (trong và ngoài
nước) thành sở hữu chung của nhà nước và nhà tư bản” [118, tr. 115 - 116].
Cũng nghiên cứu về thực trạng phát triển của các hình thức sở hữu trong
quá trình đổi mới, phải kể đến cơng trình Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [127] của tập thể tác giả do
Nguyễn Kế Tuấn chủ biên. Trong cơng trình này, tập thể các tác giả đã trình
bày cơng phu, chi tiết thực trạng của các hình thức sở hữu và các thành phần
kinh tế bao gồm: thực trạng sở hữu nhà nước, thành phần kinh tế nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước; thực trạng sở hữu tập thể, thành phần kinh tế tập thể
và hợp tác xã; thực trạng sở hữu tư nhân, thành phần kinh tế tư nhân và các
loại hình doanh nghiệp tư nhân; thực trạng sở hữu có yếu tố nước ngồi,
thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi và các loại hình doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể, đối với sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước,
cơng trình tập trung vào hai vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay là quản lý và sử
dụng đất, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Đối với sở hữu tập

thể và kinh tế tập thể, cơng trình đã phản ánh bức tranh phát triển của kinh tế
tập thể bằng các số liệu thống kê đến năm 2008, bao gồm cả những thành tựu
đạt được và những tồn tại hạn chế yếu kém của nó. Đối với sở hữu tư nhân và
thành phần kinh tế tư nhân, cơng trình đã đưa ra một số đánh giá tổng quan về
sự phát triển kinh tế tư nhân và một số loại hình doanh nghiệp tư nhân. Đối
với thực trạng sở hữu có yếu tố nước ngồi và thành phần kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi, cơng trình đã nêu nên tiến trình đầu tư nước ngồi từ năm
1988 đến năm 2008 thơng qua số vốn đầu tư, số lượng doanh nghiệp nước
ngoài, tỷ trọng của nó trong nền kinh tế…và cả những mặt hạn chế, khuyết
điểm của nó. Nhìn chung đây là cơng trình cơng phu chi tiết của tập thể tác
giả do Nguyễn Kế Tuấn làm chủ biên, tập thể tác giả đã làm rõ thực trạng
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hình thức sở hữu với thành phần kinh
tế thơng qua các số liệu thống kê đến năm 2009.
19


Khi nghiên cứu về thực trạng vấn đề sở hữu ở Việt Nam sau 30 năm đổi
mới, các cơng trình nghiên cứu đều khẳng định chế độ sở hữu ở Việt Nam đã
được đổi mới một cách căn bản, chuyển từ chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu sang chế độ đa hình thức sở hữu, tơn trọng sở hữu tư nhân trong
và ngồi nước. Đồng thời các cơng trình nghiên cứu cũng làm rõ những đóng
góp của các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản
phẩm của nền kinh tế quốc dân, có thể kể ra các cơng trình sau đây:
Cuốn Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi của tác giả Phạm Quý Thọ
[115], theo tác giả: từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu
duy nhất là chế độ sở hữu công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất đã đi đến
quan niệm nền kinh tế của nước ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ
bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó hình thành nhiều hình thức sở
hữu và thành phần kinh tế. Cũng theo tác giả: “hiện nay tỷ lệ đóng góp vào
tổng thu nhập trong nước (GDP) của khu vực nhà nước đang giảm, từ 40,18%

năm 1995 xuống còn 32,57% năm 2012, khu vực kinh tế tập thể thậm chí
giảm nhanh hơn, khu vực cá thể cũng giảm, nhưng chậm hơn, trong khi khu
vực kinh tế tư nhân tăng nhanh, từ 3,32% GDP năm 1995 lên 11,14% năm
2012, tức là tăng khoảng gần gấp 3 lần trong gần 20 năm. Cũng tăng với tốc
độ tương tự là khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi. Có thể nói, cho
đến nay, sự đóng góp của khu vực nhà nước và tư nhân có tương quan có lợi
cho phát triển kinh tế thị trường, tuy nhiên còn một số rào cản, trong đó có
các quy định liên quan đến thể chế mang tính pháp luật, mà quan trọng nhất là
chế độ sở hữu đất đai [115, tr. 82-83].
Công trình Sở hữu trong nền kinh tế thị trường hiện đại: lý luận, thực
tiễn thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam [101] của tác giả Phạm Thái Quốc,
đã trình bày hiện trạng sở hữu các nguồn lực truyền thống như: đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, các tài sản cố định; hiện trạng về sở hữu trí tuệ; hiện
trạng về sở hữu cổ phiếu, trái phiếu; hiện trạng về các thành phần kinh tế.
Theo tác giả: “hiện nay các thành phần kinh tế ở Việt Nam đã được phân chia:
20


kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài. Số liệu Tổng cục thống kê năm 2013 cho thấy: kinh tế
nhà nước chiếm: 32,2% GDP. Kinh tế tư nhân chiếm: 10,93% GDP. Kinh tế
cá thể chiếm 32,27% GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi chiếm 19,55%
GDP”. [101, tr. 205] .
Cơng trình Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới [96], theo các
tác giả Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiển, Nguyễn Viết Thông
(đồng chủ biên) cho rằng: Việt Nam hiện nay đã hội nhập khá sâu rộng và nền
kinh tế tồn cầu, nhưng các quan điểm phát triển cịn nhiều khác biệt. Ở Việt
Nam chưa coi trọng sở hữu tư nhân, chưa đánh giá đúng về sở hữu tư nhân.
Trên thực tế, quyền sở hữu tư nhân về đất đai khơng được thừa nhận. Quyền

sở hữu trí tuệ chưa được thực thi phổ biến. Trong cơ cấu của chế độ sở hữu ở
Việt Nam, tỷ trọng sở hữu nhà nước còn quá lớn, riêng các doanh nghiệp nhà
nước đã chiếm tới 28% GDP, nếu kể cả các ngân hàng thương mại nhà nước
thì tỷ trọng này chiếm tới 34% GDP, trong khi ở các nền kinh tế thị trường
hiện đại, tỷ trọng này chỉ dưới 10% GDP. Ở Việt Nam, nhà nước sử dụng các
doanh nghiệp nhà nước như công cụ điều tiết vĩ mơ (chẳng hạn kiểm sốt
giá), dẫn đến các tín hiệu thị trường bị sai lệch; khác hẳn với các nền kinh tế
thị trường hiện đại, chủ yếu dùng chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ…làm
cơng cụ điều tiết vĩ mô. Ở các nền kinh tế thị trường hiện đại, các hình thức
sở hữu phong phú đa dạng. Đa dạng hóa sở hữu khơng chỉ đối với các loại tư
liệu sản xuất, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, mà cả trong sở hữu nhà
ở, đất đai, sở hữu tài nguyên…Ở Việt Nam, đất đai, tài nguyên, rừng, biển,
đảo…vẫn hoàn toàn thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý.
Trong bài Một số vấn đề về sở hữu tư liệu sản xuất ở Việt Nam qua 30
năm đổi mới [39], theo tác giả Nguyễn Thị Như Hà: “Đa dạng hóa hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất là tư tưởng nhất quán trong suốt gần 30 năm đổi mới.
21


Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân đến nay, hình thành 4 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi, đã tạo nên sự phong
phú của các mơ hình tổ chức sản xuất kinh doanh, mang đến sức sống mới
cho nền kinh tế. Q trình đa dạng hóa hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đã
góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Tốc độ tăng
trưởng GDP trong gần 30 năm tương đối cao và ổn định” [39, tr. 48-49].
Nói tóm lại, khi đánh giá thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới
quan hệ sở hữu 30 năm qua, cơng trình Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua
30 năm đổi mới về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam do Ban kinh tế Trung ương biên
soạn đã khẳng định: “Kết quả 30 năm đổi mới đất nước đã hình thành nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp, tổ chức
sản xuất, kinh doanh. Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác
nhau trong nền kinh tế được bảo đảm. Thực tế, phạm vi quyền sở hữu của
công dân được mở rộng, nhất là quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất mà
trước đó khơng được thừa nhận” [5, tr. 120]. Bên cạnh đó, những hạn chế yếu
kém về nhận thức chế độ sở hữu, thành phần kinh tế cũng được chỉ ra: Mặc
dù nền kinh tế đã được xây dựng trên cơ sở đa dạng hóa sở hữu, thành phần
kinh tế và loại hình doanh nghiệp, song nhận thức về chế độ sở hữu, thành
phần kinh tế, sự phát triển các loại hình doanh nghiệp Việt Nam hiện còn
nhiều vấn đề chưa thật phù hợp với nền kinh tế tổ chức theo hướng thị trường.
1.3. Nhóm các cơng trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp hoàn
thiện quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh Việt Nam chuyển từ chế độ sở hữu đơn nhất sang chế độ
sở hữu có đa dạng các hình thức sở hữu gắn với đa dạng các thành phần kinh
tế, làm thế nào để thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, điều trước tiên
là phải xóa bỏ tình trạng độc quyền của sở hữu nhà nước (sở hữu tồn dân),
đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và củng cố vai trò chủ đạo của
22


×