Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

(Luận án tiến sĩ) ngôn ngữ văn học việt nam nửa đầu thế kỷ XX ngôn ngữ văn xuôi mới qua một số tác phẩm văn học chữ quốc ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 199 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HOA

NGÔN NGỮ VĂN HỌC VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX:
NGÔN NGỮ VĂN XUÔI MỚI
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC CHỮ QUỐC NGỮ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC


Hà Nội - 2016

2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGUYỄN THỊ HOA

NGÔN NGỮ VĂN HOC VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX:
NGÔN NGỮ VĂN XUÔI MỚI
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC CHỮ QUỐC NGỮ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số:



62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : GS.TS ĐINHVĂN ĐỨC
PGS. TS TRẦN NHO THÌN
XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA LUẬN ÁN
THEO QUYẾT NGHỊ CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN
T/M TẬP THỂ HƯỚNG DẪN

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN

PGS.TS Hà Văn Đức

PGS.TS Đoàn Đức Phƣơng


Hà Nội - 2016

ii


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận án xin bày tỏ lòng tri ân tới GS.TS Đinh Văn Đức (Khoa
Ngôn ngữ học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) và PGS. TS
Hà Văn Đức (Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội), người đã tận tình hướng dẫn tác giả luận án nghiên
cứu và hoàn thành luận án này.
Tác giả luận án cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thành viên trong các Hội

đồng đánh giá luận án bởi những góp ý của Hội đồng sẽ giúp tác giả luận án
có những tiến bộ nhanh hơn trên con đường học tập và nghiên cứu.
NGHIÊN CỨU SINH

Nguyễn Thị Hoa

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được cơng bố trong các cơng
trình nghiên cứu của ai khác.
- Luận án đã được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu một
cách trung thực, cẩn trọng trong luận án.
NGHIÊN CỨU SINH

Nguyễn Thị Hoa

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5

5. Đóng góp của luận án ................................................................................ 5
6. Cấu trúc của luận án .................................................................................. 6
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............... 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu...................................................... 7
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước .............................................. 7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ............................................ 23
1.2. Giới thuyết về một số khái niệm .................................................... 24
1.2.1. Văn xuôi và văn xuôi mới ........................................................... 24
1.2.2. Ngôn ngữ văn xuôi mới ............................................................... 27
1.2.3. Ngôn ngữ trần thuật .................................................................... 29
1.2.4. Ngôn ngữ hội thoại ..................................................................... 30
Chƣơng 2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ HÌNH
THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ VĂN XUÔI MỚI NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XX ........................................................................................... 34
2.1. Nhân tố chính trị, xã hội ................................................................. 34
2.1.1. Thực dân Pháp đơ hộ trên tồn xứ Đơng Dương, đưa Việt Nam
vào quỹ đạo Âu hóa .............................................................................. 34
2.1.2. Sự hình thành và phát triển của đơ thị Việt Nam theo mơ hình
phương Tây ........................................................................................... 36
2.2. Nhân tố văn hóa, văn học và tƣ tƣởng .......................................... 39
2.2.1. Sự tiếp xúc văn hóa Pháp - Việt qua hệ thống giáo dục Pháp - Việt.. 39
2.2.2. Chữ Quốc ngữ và sự hình thành một nền quốc văn mới ............ 43
2.2.3. Ý thức cá nhân trong quan hệ: nhà văn - cuộc sống - tác phẩm công chúng và trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa .............................. 47

iii


2.2.4. Báo chí tiếng Việt đầu thế kỷ XX với sự hình thành và phát triển
của ngơn ngữ văn xi mới ................................................................... 52
2.2.5. Dịch thuật phát triển - thúc đẩy q trình hình thành và phát

triển vượt bậc cho ngơn ngữ văn xuôi mới ........................................... 55
Chƣơng 3. ĐỔI MỚI VỀ KẾT CẤU VĂN BẢN VĂN XUÔI MỚI NỬA
ĐẦU THẾ KỶ XX .................................................................................. 59
3.1. Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn xuôi nửa đầu thế kỷ XX ..... 59
3.1.1. Đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi trước thế kỷ XX ............................ 59
3.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi từ năm 1900 đến năm 1930 ......... 63
3.1.3. Đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi từ năm 1930 đến năm 1945 ......... 68
3.2. Kết cấu văn bản văn xuôi mới nửa đầu thế kỷ XX ...................... 71
3.2.1. Hình thái cốt truyện chịu ảnh hưởng của phương Tây .............. 71
3.2.2. Phương thức triển khai tạo ra kịch tính ..................................... 77
3.2.3. Thốt ra khỏi kiểu kết cấu truyền thống, có hậu ........................ 81
3.2.4. Ngơi trần thuật ............................................................................ 86
3.2.5. Nhịp điệu trần thuật .................................................................... 92
3.2.6. Giọng điệu trần thuật .................................................................. 96
3.2.7. Đoạn văn mạch lạc, tổ chức chặt chẽ, tinh giản ...................... 100
Chƣơng 4: NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT VÀ NGÔN NGỮ HỘI THOẠI
TRONG VĂN BẢN VĂN XUÔI MỚI NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX .........105
4.1. Ngôn ngữ trần thuật ...................................................................... 106
4.1.1. Ngôn ngữ người trần thuật ....................................................... 106
4.1.2. Các kiểu ngôn ngữ trần thuật ................................................... 107
4.1.2.1. Lời kể .................................................................................. 107
4.1.2.2. Lời tả .................................................................................. 112
4.1.2.3. Lời bình .............................................................................. 121
4.1.2.4. Lời nửa trực tiếp ................................................................. 123
4.2. Ngôn ngữ hội thoại ........................................................................ 124
4.2.1. Ngôn ngữ nhân vật .................................................................... 124
4.2.2. Ngôn ngữ nhân vật qua hệ thống từ xưng hô ........................... 125
4.2.3. Ngôn ngữ nhân vật qua hệ thống từ ngữ dùng để kể, tả, bình
luận ..................................................................................................... 128
iv



4.2.4. Ngôn ngữ nhân vật qua độc thoại............................................. 133
4.2.5. Ngôn ngữ nhân vật qua đối thoại ............................................. 140
KẾT LUẬN ............................................................................................148
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .........................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................152
PHỤ LỤC ...............................................................................................161

v


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Bảng thống kê tỉ lệ % sử dụng ngôi trần thuật trong các truyện
ngắn và tiểu phẩm .................................................................................... 89
Bảng 2: Thống kê tần số xuất hiện lời độc thoại trong truyện ngắn và tiểu
phẩm .......................................................................................................135
Bảng 3: Thống kê tần số xuất hiện lời độc thoại trong tiểu thuyết ...........137
Bảng 4: Thống kê tần số xuất hiện lời đối thoại trong truyện ngắn và tiểu
phẩm ......................................................................................................142
Bảng 5: Thống kê tần số xuất hiện lời đối thoại trong tiểu thuyết ............143

vi


DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng thống kê ngôi trần thuật trong truyện ngắn Thạch Lam .........161
Phụ lục 2: Bảng thống kê ngôi trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng ..........162
Phụ lục 3: Bảng thống kê ngôi trần thuật trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố ......163

Phụ lục 4: Bảng thống kê ngôi trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan .......................................................................................................164
Phụ lục 5: Bảng thống kê ngôi trần thuật trong truyện ngắn của Nam Cao ......165
Phụ lục 6: Bảng thống kê ngôi trần thuật trong truyện ngắn của Nhất Linh .....166
Phụ lục 7: Bảng thống kê ngôi trần thuật trong truyện ngắn của Khái Hưng ....167
Phụ lục 8: Bảng thống kê tỉ lệ % ngôi trần thuật trong các truyện ngắn ...........168
Phụ lục 9: Bảng thống kê tần suất đối thoại trong truyện ngắn của Khái Hưng 169
Phụ lục 10: Bảng thống kê tần suất đối thoại trong truyện ngắn của Nhất Linh 170
Phụ lục 11: Bảng 11 thống kê tần suất đối thoại trong truyện ngắn của
Thạch Lam .............................................................................................171
Phụ lục 12: Bảng thống kê tần suất đối thoại trong truyện ngắn của Nam Cao .173
Phụ lục 13: Bảng thống kê tần suất đối thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan ........................................................................................................................... 176
Phụ lục 14: Bảng thống kê tần suất đối thoại trong truyện ngắn của Vũ Trọng
Phụng ......................................................................................................182
Phụ lục 15: Bảng thống kê tần suất đối thoại trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố .183
Phụ lục 16: Bảng thống kê tần số xuất hiện lời đối thoại trong truyện ngắn và tiểu
phẩm .......................................................................................................187
Phụ lục 17: Bảng thống kê tần số xuất hiện lời độc thoại trong truyện ngắn và tiểu
phẩm .......................................................................................................187
Phụ lục 18: Bảng thống kê tần số xuất hiện lời độc thoại trong tiểu thuyết ......188
Phụ lục 19: Bảng thống kê tần số xuất hiện lời đối thoại trong tiểu thuyết .......188

vii


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nửa đầu thế kỷ XX đánh dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của đất nước, bảo tồn văn hóa, văn học Việt

Nam, trong đó có ngơn ngữ. Thời kỳ này diễn ra nhiều biến động lớn trên mọi
phương diện: từ chính trị, xã hội, kinh tế đến văn hóa, tư tưởng, lối sống và
các giá trị. Nền văn học Việt Nam, trong đó có văn xuôi cũng diễn ra những
biến đổi hết sức sâu sắc, tồn diện và vơ cùng mau lẹ, với nhiều giá trị khác
nhau, theo một lộ trình khơng đơn giản và bằng phẳng, nhưng nhìn bao quát
vẫn là một hành trình theo hướng hiện đại hóa ngày càng sâu rộng và triệt để.
Ngơn ngữ văn học nói chung và ngơn ngữ văn xi trên nền Quốc văn nói
riêng cũng là một bộ phận của quá trình văn học ấy, cũng vận động theo
hướng hiện đại hóa ngày càng sâu sắc, trên mọi phương diện và cấp độ. Như
vậy, trong bối cảnh lịch sử, xã hội mới và trong môi trường văn hóa mới, văn
học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX vận động theo hướng hiện đại hóa ngày
càng mạnh mẽ.
Giai đoạn 1930 - 1945 được nhiều nhà nghiên cứu coi như là giai đoạn
phát triển đến độ ổn định, hoàn chỉnh của nhiều thể loại và thuần thục, trưởng
thành của văn học mới. Hơn nữa, tốc độ phát triển về số lượng, chất lượng
của các tác phẩm văn học thời kỳ này cũng rất đáng nể. Nhiều tên tuổi và kiệt
tác có thể trường tồn với thời gian. Nghiên cứu những tác giả, tác phẩm,
những khuynh hướng văn học thuộc thời kỳ này đến nay đã có rất nhiều cơng
trình, chun luận, luận án với những quy mơ khác nhau. Trong đó, hiển
nhiên vấn đề ngơn ngữ cũng được nói đến khơng ít. Nghiên cứu ngơn ngữ văn
học giai đoạn 1930 - 1945 vẫn là một nhiệm vụ khá quan trọng của nhà
nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại.
1


Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, là chất liệu của văn chương
“văn học là nghệ thuật của ngôn từ”. Ngôn ngữ văn học vừa là điều kiện, lại
vừa là kết quả của quá trình vận động, biến đổi của văn học qua các thời kỳ,
giai đoạn và qua đó phản ánh sự biến đổi của đời sống xã hội, của tư duy, của
mơi trường văn hóa tinh thần và các giá trị của quan niệm thẩm mỹ. Do đó,

nghiên cứu văn học nói chung và văn xi nói riêng nhất thiết khơng thể bỏ
qua bình diện ngơn ngữ, khơng chỉ bởi mọi bình diện của văn học đều chỉ có
thể được biểu đạt qua ngơn ngữ, mà cịn vì sáng tạo ngơn ngữ là một trong
những mục đích quan trọng, là một phần khơng nhỏ góp phần hình thành nên
những giá trị độc đáo, riêng biệt của văn chương “Trong tác phẩm, ngôn ngữ
văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong
cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng
về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động để trau dồi ngơn
ngữ trong q trình sáng tác” [32, tr.186].
Như vậy, xét thấy tầm quan trọng của sự thay đổi chất liệu của một nền
văn học và từ yêu cầu giải thích và làm rõ sự chuyển biến hiện đại hóa văn
xi Việt Nam đầu thế kỷ XX, đi vào nghiên cứu văn xuôi quốc ngữ thời kỳ
này từ góc độ ngơn ngữ là một việc làm có ý nghĩa. Do đó, chúng tơi quyết
định chọn đề tài nghiên cứu trong luận án của mình là: “Ngôn ngữ văn học
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX: Ngôn ngữ văn xuôi mới qua một số tác phẩm
văn học chữ quốc ngữ”. Đây là hướng nghiên cứu mới có điều kiện đi sâu
cắt nghĩa về những biến đổi tư duy nghệ thuật, về kỹ thuật viết văn, sự phát
triển của câu văn xuôi nghệ thuật trong một thời đại văn qua các sản phẩm
sáng tạo của các tài năng tiểu thuyết và truyện ngắn ở nước ta đầu thế kỷ XX.
Luận án là một hướng tiếp cận liên ngành (ngơn ngữ và văn học) để có thể
nhận diện q trình hiện đại hóa văn xi Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX một
cách khoa học. Từ đó ghi nhận sự đóng góp của các nhà văn trên các bước
2


đường phát triển của văn học nước nhà, vượt ra ngồi khn khổ của văn xi
thời phong kiến.
2. Mục đích nghiên cứu
- Giới thuyết các khái niệm: văn xuôi, văn xuôi mới, ngôn ngữ văn xuôi
mới, ngôn ngữ trần thuật, ngơn ngữ hội thoại và xem đó là cơng cụ then chốt,

chiếu ứng với đối tượng nghiên cứu;
- Đi sâu tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và
phát triển của ngơn ngữ văn xi nửa đầu thế kỷ XX (chính trị, xã hội, văn
hóa, văn học, tư tưởng…) từ đó có cơ sở để lý giải về sự cách tân của văn
xuôi và ngôn ngữ văn xi mới;
- Phân tích những đổi mới trong kết cấu văn bản văn xuôi mới như: cốt
truyện; phương thức triển khai tạo ra kịch tính; kết cấu văn bản, nhịp điệu,
giọng điệu. Từ đó làm rõ sự chuyển biến theo hướng hiện đại của văn xuôi
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX;
- Vận dụng các khái niệm vào nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật và ngôn
ngữ hội thoại trong các tác phẩm của các nhà văn trên. Thông qua khảo sát
thống kê, miêu tả đặc điểm các cấp độ ngôn ngữ trong ngôn ngữ người trần
thuật và ngôn ngữ hội thoại chỉ ra những biến đổi tư duy nghệ thuật, kỹ thuật
viết văn của từng tác giả và sự phát triển câu văn xuôi nghệ thuật của giai
đoạn 1930 - 1945 so với giai đoạn trước đó.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng
Luận án nghiên cứu về ngôn ngữ văn xuôi mới giai đoạn 1930 - 1945
qua một số tác phẩm văn học chữ quốc ngữ của Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch
Lam, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao: các nhân
tố ảnh hưởng, sự đổi mới về kết cấu văn bản, ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ
hội thoại.
3


- Về nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ
văn xuôi mới nửa đầu thế kỷ XX: luận án nghiên cứu các nhân tố chính trị, xã
hội, văn hóa, văn học, tư tưởng;
- Về sự đổi mới kết cấu văn bản: luận án nghiên cứu hình thái cốt
truyện, phương thức triển khai, kết cấu, giọng điệu, nhịp điệu, tổ chức;

- Về ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ hội thoại: luận án nghiên cứu các
kiểu ngơn ngữ trần thuật (kể, tả, bình, nửa trực tiếp); đặc điểm của ngôn ngữ
nhân vật qua từ xưng hô, qua hệ thống từ ngữ dùng để tả, kể, bình và qua độc
thoại, đối thoại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Như trên đã nói, giai đoạn 1930 - 1945 là giai đoạn ổn định và hồn
chỉnh của nhiều thể loại, trong đó có tiểu thuyết và truyện ngắn. Tiểu thuyết
và truyện ngắn giai đoạn này lớn mạnh cả về lượng và chất. Do khả năng và
thời gian có hạn nên tác giả luận án lựa chọn một tiểu thuyết và một số truyện
ngắn của các nhà văn tiêu biểu đại diện cho hai trào lưu văn học lãng mạn và
hiện thực:
- Nửa chừng xuân (Khái Hưng)
- Bướm trắng (Nhất Linh)
- Ngày mới (Thạch Lam)
- Giông tố (Vũ Trọng Phụng)
- Tắt đèn (Ngô Tất Tố)
- Bước đường cùng (Nguyễn Cơng Hoan)
- Sống mịn (Nam Cao)
Và những truyện ngắn trong tuyển tập truyện ngắn của các nhà văn
sáng tác trong giai đoạn 1932 - 1945: Nhất Linh (13 truyện), Khái Hưng (26
truyện), Thạch Lam (33 truyện), Nguyễn Công Hoan (73 truyện), Vũ Trọng
Phụng (15 truyện), Nam Cao (39 truyện) và Ngô Tất Tố (50 tiểu phẩm).
4


Trong số đó, nhà văn Ngơ Tất Tố viết rất nhiều tiểu phẩm và những tiểu phẩm
của ông được chọn làm đối tượng khảo sát trong luận án của chúng tôi. (Xem
cụ thể ở phần phụ lục).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:

- Phương pháp lịch sử - xã hội: Do đối tượng lựa chọn nghiên cứu của
luận án có tính lịch sử nên khi nhìn nhận và phân tích vấn đề trong ngun
trạng hiện thời của nó thì chúng ta sẽ có được những đánh giá xác đáng, khoa
học và khách quan.
- Phương pháp phân tích văn bản: Đây là phương pháp cơ bản thường
được sử dụng trong khi nghiên cứu về văn học. Phương pháp này sẽ được sử
dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích diễn ngơn: Phương pháp này được dùng khi
phân tích cấu trúc văn bản và các biểu hiện của ngơn ngữ trần thuật và ngơn
ngữ hội thoại.
Ngồi ra chúng tơi cịn sử dụng một số phương: Phương pháp tiếp cận hệ
thống, Phương pháp so sánh đối chiếu, Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
5. Đóng góp của luận án
Với đề tài: Ngôn ngữ văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX: Ngôn
ngữ văn xuôi mới qua một số tác phẩm văn học chữ quốc ngữ, đóng góp
của luận án như sau:
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Bước đầu đưa ra những nhận định có ý nghĩa khoa học về q trình
hình thành và phát triển của ngơn ngữ văn xuôi trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ
XX, tập trung chủ yếu giai đoạn 1930 - 1945, có so sánh đối chiếu với giai
đoạn trước qua khảo sát một số tác phẩm văn xuôi chữ quốc ngữ;

5


- Đưa ra cái nhìn tổng qt nhất về ngơn ngữ văn xuôi quốc ngữ Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX (giai đoạn 1930 - 1945) trên các bình diện: sự đổi mới kết cấu
văn bản văn xuôi mới, ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ hội thoại.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Vận dụng kết quả nghiên cứu của luận án nhằm đưa ra những đề

xuất, định hướng trong việc nghiên cứu và tiếp nhận ngôn ngữ văn xuôi
chữ quốc ngữ;
- Với tư cách là một cơng trình nghiên cứu khoa học, những kết quả
của luận án sẽ là tư liệu quan trọng cho những người nghiên cứu sau này và
các sinh viên đang học ngành văn học và ngành ngơn ngữ.
6. Cấu trúc của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
ngôn ngữ văn xuôi mới nửa đầu thế kỷ XX
Chương 3: Đổi mới về kết cấu văn bản văn xuôi mới nửa đầu thế kỷ XX
Chương 4: Ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ hội thoại trong văn bản
văn xuôi mới nửa đầu thế kỷ XX

6


Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Văn học nửa đầu thế kỷ XX là thời kỳ có nhiều biến đổi sâu sắc, mạnh
mẽ trên nhiều phương diện từ nội dung đến hình thức thể hiện, trong đó đặc
biệt chú ý là sự hình thành và phát triển của văn xi mới (văn xuôi viết bằng
chữ quốc ngữ) thay thế cho văn vần.
Văn xuôi mới nửa đầu thế kỷ XX được nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngồi nước nhìn nhận đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Có rất nhiều cơng
trình nghiên cứu trong và ngoài nước được đánh giá rất cao. Tuy nhiên, cho
đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu sâu về ngơn ngữ văn xi
quốc ngữ giai đoạn 1930 - 1945, có chăng thì chỉ dừng lại ở từng tác giả, tác
phẩm mà chưa có được cái nhìn tồn diện và có hệ thống về văn xuôi cũng

như ngôn ngữ văn xuôi mới giai đoạn 1930 - 1945.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
1. Trước năm 1945, các cơng trình, bài viết chủ yếu tập nghiên cứu
về thể loại và thi pháp của văn xuôi quốc ngữ. Các nhà nghiên cứu Phạm
Quỳnh, Phan Khôi, Trúc Hà, Hải Đường, Vũ Ngọc Phan, Vũ Bằng… đều
có chung nhận định văn xuôi quốc ngữ ra đời đầu tiên ở Nam Kỳ nhưng
phát triển rực rỡ ở Bắc Kỳ và đỉnh cao là giai đoạn 1930 - 1945.
Người quan tâm đến văn xuôi mới đầu tiên phải kể đến, đó là Phạm
Quỳnh. Trong cơng trình Bàn về tiểu thuyết (1921), tác giả nhận định hiện
trạng của tiểu thuyết đương thời “Mấy năm nay, ở nước ta người làm tiểu
thuyết, người đọc tiểu thuyết đã thấy nhiều” nhưng “người làm tiểu thuyết
cịn ít thấy hay mà người đọc tiểu thuyết cũng chưa được sành. Lối tiểu thuyết
trong văn chương ta thật là chưa có phương châm, chưa có định thể vậy” [83,
tr.658]. Bên cạnh việc bàn về hai yếu tố then chốt liên quan đến một tác phẩm
7


văn học: nhà văn và người đọc thì tác giả cịn giải thích rất rõ về tiểu thuyết
và phép làm tiểu thuyết ở các nước Âu - Mỹ “Tiểu thuyết là một truyện viết
bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là những sự
lạ kỳ tích, đủ làm cho người đọc có hứng thú” [83, tr.237]. Như vậy, bài viết
chủ yếu định hướng sáng tác tiểu thuyết theo kiểu phương Tây cho những
người làm tiểu thuyết chứ chưa bàn kỹ về sự tiến triển của tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại.
Cùng với xu hướng trên cịn có cơng trình Lược khảo về sự tiến hóa
của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết (1932) của Trúc Hà. Đây là cơng trình
có tính chất tổng kết những thành tựu của văn chương giai đoạn đầu thế kỷ
XX. Ngoại trừ cái lỗi lớn là bỏ qua văn xuôi quốc ngữ miền Nam, bài viết của
ông đã bao quát được sự phát triển của quốc văn trong hơn mười năm, từ
1919 đến 1932, điểm qua được những nổi trội, những cây bút tiêu biểu và về

sau vẫn được nhắc đến nhiều trong các cơng trình văn học sử. Tác giả theo
dõi từng bước phát triển của quốc văn, từ thuở còn là những câu văn đăng đối
biền ngẫu cho đến khi trở nên hết sức linh hoạt uyển chuyển trong những tác
phẩm tả chân hay lãng mạn. Tác giả cũng tập trung giới thiệu thể thức và cách
viết tiểu thuyết hơn là phê bình, đánh giá về hiện trạng tiểu thuyết đương thời
“Xét ra ngoài mười mấy năm nay về phương diện tiểu thuyết chưa nói đến
các phương diện khác, quốc văn thật đã tiến nhiều” [30, tr.153]. Ơng cũng
chưa phân biệt rạch rịi giữa tiểu thuyết và truyện ngắn. Những truyện ngắn
xuất hiện trên mặt báo lúc đó ơng cũng đưa vào khái niệm tiểu thuyết.
Thời kỳ này, một số nhà nghiên cứu còn nghiên cứu về kỹ thuật viết văn
của các nhà văn. Theo giòng (1941) của Thạch Lam là cơng trình tiêu biểu bàn
về thể loại tiểu thuyết và cách tân trong cách viết tiểu thuyết của Phong hóa.
Ơng đã nhận xét về cách viết văn của Phong hóa như sau: “Phong - Hóa hết
sức phá bỏ các sáo cũ trong cách viết văn. Một câu văn sáo là một câu văn có
8


những đối chọi nhau cho kêu, và những hình ảnh, những ý nghĩ, những hình
ảnh sẵn sàng, chỉ việc chắp nối với nhau. Phong Hóa phá bỏ lề lối, và gây nên
một lối văn giản dị, dễ hiểu, bình dân hơn và hết sức tránh dùng chữ Hán.
Chính lối văn ấy, mỗi ngày một mềm dẻo hơn, giầu thêm vì những cách hành
văn của chữ Pháp, là lối văn thịnh hành đến bây giờ” [53, tr.21].
Cùng với đó là cơng trình Khảo về tiểu thuyết (1941) của Vũ Bằng. Tác
giả đã dành hẳn hai chương 10 và 12 để bàn luận về thi pháp tiểu thuyết như
giọng điệu và tổ chức trần thuật. Ý đồ của tác giả được thể hiện ngay ở cách
đặt tên cho các chương: “Tiểu thuyết nên viết bằng giọng văn gì” và “Viết
tiểu thuyết nên dùng ngơi thứ mấy?” [5, tr.80].
Nhìn chung, các cơng trình trên chỉ mang tính định hướng sáng tác hơn
là phê bình, đánh giá nhưng cũng hé mở sức hấp dẫn đối với những ai đang và
sẽ quan tâm đến văn xi quốc ngữ. Điều đó cũng cho thấy văn xi đang

tiến đến làm chủ văn đàn thay thế cho văn vần khi văn học được sáng tác
bằng chữ quốc ngữ.
2. Từ năm 1945 đến 1986, việc nghiên cứu văn xuôi quốc ngữ đầu thế
thế kỷ XX được giới nghiên cứu quan tâm nhiều hơn. Trong đó phải kể đến
cuốn văn học sử phổ thông bằng chữ quốc ngữ đầu tiên Việt Nam văn học sử
yếu (1946) của Dương Quảng Hàm. Ông cho rằng nền quốc văn mới hình
thành ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là một sự kiện hết sức quan trọng,
một cột mốc trong sự hình thành ngơn ngữ văn học hiện đại tiếng Việt. Theo
tác giả, chỉ khi có chữ quốc ngữ thì văn xi mới hình thành “Xưa kia ta chưa
có văn xi. Đến khi nền quốc văn mới thành lập, văn xuôi bắt đầu xuất hiện
và ngày một phát đạt mà thành ra thể văn chính trong nền Việt văn ngày nay”
[31, tr.414] và đó là kiểu loại văn xi trước đây chưa từng có “Trong quốc
văn mới các thể biền ngẫu (phú, tứ lục, kinh nghĩa, văn sách) hầu như không
dùng đến nữa; các thể văn vần (thơ cổ phong, thơ đường luật, lục bát song
9


thất, hát nói, ngâm khúc) vẫn có một số ít người viết… duy có các thể văn
xi là thịnh hành nhất” [31, tr.412]. Khi nói về Tự lực văn đồn và những
đóng góp trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc, trong cơng trình
Việt Nam văn học sử yếu (1941), tác giả Dương Quảng Hàm cho rằng: “Phái
ấy (Tự lực văn đồn) lại có cơng trong việc làm cho văn quốc ngữ trở nên
sáng sủa, bình giản khiến cho nhiều người thích đọc” [31, tr.453]. Đây cũng
là ý kiến chung của các nhà nghiên cứu phê bình sau này.
Cuốn văn học sử Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957), tập 3, từ
giữa thế kỷ XIX đến 1945 của nhóm Lê Q Đơn cũng đề cập khá kỹ đến bản
chất của sự chuyển đổi từ văn vần sang văn xi. Người viết đã tái hiện lại
dịng chảy liên tục của lịch sử văn học thông qua những tác gia và tác phẩm
lớn của văn học chữ Nơm và chữ quốc ngữ. Tuy cịn rất sơ lược nhưng cũng
đã bàn qua về cái mới của văn xuôi so với văn vần: “Tạo nên một nền nghệ

thuật mới, làm phong phú thêm ngôn ngữ của ta…Văn xuôi trở thành một thứ
văn trong sáng, khúc triết, đại chúng. Ngôn ngữ, nhất là ngơn ngữ về tình
cảm, cảm giác, màu sắc trở nên phong phú và có khả năng diễn đạt những
khía cạnh sâu xa nhất của lịng người” [62, tr.297].
Cơng trình nghiên cứu Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1960)
của Phạm Thế Ngũ bàn rất kĩ về thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn quốc ngữ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong đó, người viết đã giới thiệu kỹ về các
tập đoản thiên, đoản kịch của Khái Hưng, Nhất Linh và Thạch Lam. Tác giả
nhận xét “chú ý đến sáng tác hơn là dịch thuật nhất là sáng tác văn nghệ (tiểu
thuyết, thơ). Cái tên Tự lực đây cũng cịn có cái ý tự sức mình sáng tác, khơng
đi phiên dịch hay mơ phỏng. Đó là một phản ứng chống lại giai đoạn trước
chỉ chun chú vào học thuật cịn văn nghệ thì chỉ đi phiên dịch ngoại văn”
[72, tr.18]. Bên cạnh đó, ơng đưa ra nhận xét chung về văn phong của Tự lực
văn đoàn “chủ trương viết một lối văn giản dị, dễ hiểu dùng ít chữ nho, có
10


tính cách An Nam, để chống lại lối văn “đại cà sa” nặng trĩu những chữ Hán,
những thuật đối xứng và trùng điệp của giai đoạn trước” [72, tr.19], về Khái
Hưng “Lối hành văn dung dị, điềm đạm và ở nhiều truyện, ngịi bút cổ tích
đầy thi vị nhẹ nhàng” [72, tr.353], về Thạch Lam “Về văn, Thạch Lam trong
một vài tác phẩm loạt đầu tỏ ra chưa được sành sỏi chặt chẽ, cách viết có khi
non vụng, lê thê ở những đoạn tả cảnh ngượng ngập, thuật sự rời rạc. Nhưng
về sau câu văn ông lần tiến đến vẻ tự nhiên, vị đậm đà. Tuy nhiên, ơng khơng
có cái hóm hỉnh giễu cợt của Khái Hưng hay Thế Lữ. Ngịi bút giàu hình ảnh
cảm giác, nhưng khơng rộn ràng khoe khoang mà thường lặng lẽ điềm tĩnh,
kín đáo tế nhị” [72, tr.476]. Tuy nhiên, cơng trình này chưa nghiên cứu sâu về
ngơn ngữ của Tự lực văn đồn, vẫn chỉ dừng lại ở những nhận xét sơ lược,
chung chung.
Công trình Văn học Việt Nam 1930 – 1945 (1961) của Bạch Năng Thi

và Phan Cự Đệ là cơng trình được chúng tơi đánh giá cao bởi những đóng góp
của người viết trong việc sưu tầm tài liệu, giới thiệu, phân tích đánh giá từng
nhà văn giai đoạn 1930 -1945 và chỉ ra những thành công cũng như những
hạn chế của họ. Tuy nhiên, cơng trình này cũng chưa đi sâu nghiên cứu
phương diện ngơn ngữ, có chăng cũng chỉ là những nhận xét rất khái quát như
“Các nhà văn Tự lực văn đồn cũng có cơng nhiều trong việc góp phần bảo vệ
sự trong sáng của tiếng Việt. Văn chương Tự lực văn đoàn vượt xa thứ văn
biền ngẫu, nặng điển tích trong Nho phong”, “Tự lực văn đồn đã cố gắng
Việt hóa những yếu tố ngoại lai và phát huy những âm thanh, tiết điệu của
ngôn ngữ Việt Nam” [97].
Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1967) của Thanh Lãng (quyển hạ) là
cơng trình tương đối lớn đề cập khá chi tiết và toàn diện về tiểu thuyết và
truyện ngắn thời kỳ này. Trong cơng trình này, tác giả đã đánh giá khái quát
lại những gì mà tiểu thuyết làm được cho đến nay: “Tiểu thuyết Việt Nam
11


trong vòng 20 năm đã tiến rất nhiều. Bước tiến của nó thực là rõ rệt. Nếu với
Phan Kế Bính, Tản Đà, lịch sử tiểu thuyết của thế hệ 1913 dường như bắt đầu
chuyển mình thì với Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn, nó như một nỗ lực
thốt xác, ly khai quan niệm nghệ thuật cũ. Với Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn
Trọng Thuật nó dênh lên được một bước để đi đến trưởng thành. Hồ Biểu
Chánh, Nguyễn Tường Tam mới là người đẩy nó đi tìm một chân trời mới
hơn…các ông sửa soạn bế mạc một thời đại, một thế hệ…và chuẩn bị khai
mạc một thời đại mới, một thế hệ mới…Cái nền nhà đã đổ xong. Người sau
chỉ còn phải mất công lên tường, đặt rui xà là ngôi nhà sẽ nổi lên giữa cảnh
hoang vu” [55, tr.89]. Công trình này đã phân biệt rõ ràng về thể loại. Tiểu
thuyết và truyện ngắn đã có những bước tiến mới đáng kể và tạo dựng được
một cái nền vững chắc để các văn gia sau này tiếp tục xây đắp.
Trong Phê bình văn học thế hệ 32, tập 3, Phong trào văn hóa, Sài Gịn

xuất bản năm 1972, Thanh Lãng lại tập trung nhiều hơn đến kỹ thuật viết văn
của các nhà văn thời kỳ 1930 - 1945, nhưng vẫn còn rất sơ lược “văn độc đáo
họ (Tự lực văn đồn), khởi một lối văn mới mẻ, đơn sơ bình dân, dễ hiểu, vui
tươi” [55, tr.235].
Các cơng trình nghiên cứu lịch sử văn học mới chỉ dừng ở mức độ định
hướng, tổng hợp ý kiến, tư liệu là chính, chưa có sự bình luận kỹ lưỡng của
người soạn sách. Phần lớn các cơng trình mới bàn về q trình hình thành và
phát triển văn xuôi mới hoặc chỉ giới thiệu sơ lược về một vài tác giả tiêu
biểu. Ngôn ngữ văn xuôi của các tác giả văn xuôi mới giai đoạn 1930 - 1945
chưa được bàn đến nhiều. Tuy nhiên, những nhận định, đánh giá của các nhà
nghiên cứu có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng nghiên cứu cho các nhà
nghiên cứu sau này muốn tiếp tục tìm hiều về văn xuôi quốc ngữ Việt Nam
đầu thế kỷ XX, trong đó có ngơn ngữ.

12


3. Từ năm 1986 đến năm 2000
Trong cơng trình có tính lý luận Tự lực văn đồn, nhìn từ góc độ tính
liên tục của lịch sử, qua bước ngoặc hiện đại hóa trong lịch sử văn học
phương Đơng (1995), Trần Đình Hượu cũng đánh giá cao vai trị của Tự lực
văn đồn trong tiến trình hiện đại hóa văn học và ngơn ngữ văn học: “Tự lực
văn đồn đã góp công nhiều vào việc trau dồi ngôn ngữ văn học và nghệ thuật
viết tiểu thuyết và kịch, thơ để có sự chuyển hóa chất lượng từ văn học những
năm hai mươi sang những năm ba mươi” [49, tr.2].
Có thể liệt kê ra đây rất nhiều luận án nghiên cứu về văn xuôi và ngôn
ngữ ngữ văn xuôi quốc ngữ như Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt
Nam thời kỳ đầu những năm 1930 - 1945: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam và
Nam Cao (1992) của Trần Ngọc Dung; Quan niệm về con người trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn qua ba tác giả Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo

(1994) của Lê Thị Dục Tú, Viện Văn học; Những đóng góp của Tự lực văn
đồn xây dựng cho một nền văn xuôi hiện đại Việt Nam (1996) của Trịnh Hồ
Khoa, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Từ quan niệm nghệ thuật đến
nghệ thuật ngôn từ trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan
(1996) của Nguyễn Thanh Tú và Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm
đầu thế kỷ XX đến 1945 (Diện mạo và đặc điểm) (1998) của Bùi Văn Lợi…
Trong đó chúng tơi quan tâm đến luận án Ba phong cách truyện ngắn trữ
tình trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Thạch Lam - Thanh Tịnh Hồ Dzếnh (1995) của Phạm Thị Thu Hương bởi tác giả có bàn đến ngơn ngữ
truyện ngắn Thạch Lam. Tuy nhiên, đó chỉ là những nhận xét sơ lược về ngôn
từ biểu cảm, giọng điệu nhẹ nhàng phù hợp với tâm trạng nhân vật.
Luận án Từ quan niệm nghệ thuật đến nghệ thuật ngôn từ trong truyện
ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan (1996) của Nguyễn Thanh Tú, Đại
học Sư phạm Hà Nội là một cơng trình viết khá kỹ về nghệ thuật ngơn từ
13


trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, trong đó tác giả có nói
đến lời văn trào phúng, kịch hóa ngơn ngữ nhân vật, kịch hóa lời bình luận…
Luận án Những đóng góp của Tự lực văn đồn cho văn xuôi hiện đại
Việt Nam (1997) của tác giả Trịnh Hồ Khoa cũng bàn luận khá kỹ về Tự lực
văn đồn và có đưa ra những nhận xét khá quan trọng về văn phong và ngơn
ngữ. Trong đó, tác giả có dành nhiều trang bàn về những ngơn ngữ văn xi
của các nhà văn của nhóm Tự lực văn đồn và sự đổi mới ngôn ngữ giọng
điệu văn xuôi: “Câu văn của Tự lực văn đoàn giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh,
mềm mại và uyển chuyển có khả năng diễn đạt những cảm xúc tinh tế của
tâm hồn, tuy chưa đạt đến trình độ cá thể hóa sắc sảo trong việc khắc họa tính
cách nhân vật như ngơn ngữ của một số nhà văn hiện thực, nhưng trong tác
phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng chúng ta cũng gặp được những đoạn độc
thoại và đối thoại thành công. Nhiều xen (scène) đối thoại trong đó ngơn ngữ
nhân vật đan xen, quyện vào nhau, tác động lẫn nhau tạo nên kịch tính cao,

bộc lộ những mâu thuẫn giữa các tính cách, phản ánh chân thực mâu thuẫn
trong cuộc sống xã hội” [51, tr.181] và “Với Tự lực văn đoàn, tiếng Việt
trong sáng hơn, chấm dứt những câu văn biền ngẫu chồng chất điển tích và từ
Hán - Việt. Với Tự lực văn đồn cũng khơng cịn những câu lai căng, cộc lốc
như văn của Hồng Tích Chu, mà là những lời ăn tiếng nói của nhân dân
được chọn lọc gọt giũa, trau chuốt đưa vào tác phẩm. Có thể nói: Tự lực văn
đồn đã góp phần hiện đại hóa ngơn ngữ văn chương Việt Nam” [51, tr.182].
Luận văn Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến
1945 (Diện mạo và đặc điểm) (1998) của Bùi Văn Lợi được chúng tôi quan
tâm hơn cả. Luận văn giới thiệu khái niệm về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam và
quá trình hình thành từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945 và những đặc
điểm về nội dung và nghệ thuật “nghệ thuật diễn đạt của tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của lối văn phong cổ điển, của lối thuật chuyện
14


×