Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

(Luận án tiến sĩ) sự chuyển biến của phong trào yêu nước chống pháp ở thái bình cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 163 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ LAN

Sự chuyển biến của phong trào yêu nước
chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
Người hướng dẫn: GS. ĐINH XUÂN LÂM
PGS.TS. NGUYỄN VĂN KHÁNH

HÀ NỘI - 2002


1

MỤC LỤC
Lời cam đoan ................................................................................................. 1
Mục lục .......................................................................................................... 2
Danh mục các bảng, bản đồ .......................................................................... 4
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 5
Chương 1. BỐI CẢNH KINH TẾ – CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở
THÁI BÌNH CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX.......18
1.1. Vài nét về mảnh đất và con người Thái Bình trong lịch sử.........18
1.2. Thái Bình cuối thế kỷ XIX ............................................................. 23
1.2.1. Chính trị – xã hội.............................................................................. 23
1.2.2. Kinh tế .............................................................................................. 27
1.2.3. Văn hoá ............................................................................................ 32
1.3. Thái Bình đầu thế kỷ XX .............................................................. 34
1.3.1. Chính trị............................................................................................ 34


1.3.2. Kinh tế ............................................................................................. 37
1.3.3. Văn hố ........................................................................................... 43
1.3.4. Chuyển biến mới trong giai cấp xã hội ........................................... 45
Tiểu kết chương 1 ...................................................................................... 50
Chương 2. NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA PHONG TRÀO
YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở THÁI BÌNH
CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX .......................... 52
2.1. Chuyển biến về tư tưởng ............................................................... 52
2.1.1. Chủ chiến, ái quốc - tư tưởng cốt lõi của người dân
Thái Bình trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
cuối thế kỷ XIX ............................................................................... 52
2.1.2. Chuyển hướng tư tưởng theo khuynh hướng dân chủ tư sản .......... 55
2.1.3. Chuyển hướng tư tưởng theo khuynh hướng vơ sản ....................... 60
2.2. Chuyển biến về hình thức đấu tranh........................................... 67
2.2.1. Vũ trang chống Pháp – hình thức chủ yếu của phong
trào yêu nước chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX ................67
2.2.1.1. Cuộc chiến đấu tại thành Nam Định..............................................68
2.2.1.2. Đánh Pháp xâm lược ở khắp các phủ , huyện trong tỉnh................71


2
2.2.1.3. Phong trào Kỳ Đồng - Mạc Đĩnh Phúc ..........................................78
2.2.2. Những hình thức mới của phong trào yêu nước chống
Pháp ở Thái Bình đầu thế kỷ XX................................................81
2.2.2.1. Đi du học.....................................................................................81
2.2.2.2. Mở trường học nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, bồi
dưỡng nhân tài ...........................................................................89
2.2.2.3. Những hình thức khác ................................................................ 103
2.2.3. Phong trào đấu tranh đòi quyền sống, độc lập dân tộc ............. 111
Tiểu kết chương 2 .................................................................................... 120

Chương 3: NHẬN XÉT CHUNG VỀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở THÁI BÌNH
CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX ................... 123
3.1. Cơ sở của sự chuyển biến............................................................ 123
3.1.1. Những chuyển biến về kinh tế – chính trị – xã hội
ở Thái Bình cuối thế kỷ X I X - đầu thế kỷ XX..............................123
3.1.2. Truyền thống đấu tranh bất khuất, sáng tạo, nhạy cảm trước
những biến động lịch sử của người dân Thái Bình ..................... 126
3.1.3. Vai trị của lớp trí thức, đặc biệt là ở các
dịng họ giàu có, u nước tiêu biểu....................... .......................128
3.1.4. Ảnh hưởng của phong trào yêu nước vùng phụ cận
( Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định)...................................................134
3.2. Đặc điểm của sự chuyển biến.......................................................139
3.2.1. Sự chuyển biến diễn ra liên tục, không đứt đoạn............................139
3.2.2. Sự ra đời sớm của Ban Tỉnh uỷ Thái Bình (6/1929) –
nét độc đáo trong quá trình vận động đi đến thành lập
Đảng Cộng sản ở một tỉnh nông nghiệp.........................................142
3.3. Những ưu điểm và hạn chế..........................................................143
3.3.1. Những ưu điểm.............................................................................. 144
3.3. 2. Hạn chế......................................................................................... 147
KẾT LUẬN .............................................................................................. 149
Chú thích ................................................................................................... 158
Danh mục các cơng trình đã cơng bố của tác giả
có liên quan đến luận án ............................................................................ 163
Sách tham khảo ......................................................................................... 164
Phụ lục ....................................................................................................... 178


3
DANH MỤC CÁC BẢNG, BẢN ĐỒ

Bảng
Bảng 1.1:
Bảng 1.2:
Bảng 1.3:
Bảng 1.4:
Bảng 1.5:
Bảng 1.6:
Bảng 1.7:
Bảng 1.8:
Bảng 2.1.
Bảng 2.2:
Bảng 2.3:
Bảng 2.4:
Bảng 2.5:
Bảng 3.1:

Trang
Thuế điền thổ và thuế thân (1893 – 1899)................................. 24
Tương quan số dân và ruộng đất (1894) ................................... 28
Thống kê những lần vỡ đê lớn (1892 – 1899) ........................... 30
Số lượng lính khố xanh tỉnh Thái Bình (11/1913) .................... 35
Tình hình phân bố lính cơ ở Thái Bình ( 11/1913) .................. 36
Các khoản thu cho ngân sách địa phương (1913) ..................... 37
Thống kê số trường và học sinh năm 1913 ............................... 45
Thống kê số địa chủ lớn ở Thái Bình ....................................... 47
Danh sách người Thái Bình tham gia phong trào Đơng Du.......83
Người Thái Bình sang Trung Quốc tham gia
Việt Nam Quang phục hội ......................................................... 86
Người Thái Bình sang Trung Quốc tham gia
Việt Nam cách mạng thanh niên ................................................ 88

Các hiệu buôn ở Thái Bình gây quỹ ủng hộ phong trào
Đơng du và phong trào Nghĩa thục ........................................... 91
Một số cuộc đấu tranh của nơng dân Thái Bình (1929) .......... 114
Hệ phả họ Nguyễn ở Động Trung .......................................... 130

Bản đồ
Bản đồ hành chính tỉnh Thái Bình ngày nay...............................................17
Bản đồ 1.1: Lịch sử phát triển của đồng bằng Bắc bộ................................ 19
Bản đồ 2.1: Phong trào chống Pháp ở các phủ, huyện (1885 – 1896)........73
Bản đồ 2.2: Các hiệu bn - một hình thức gây quỹ ủng hộ
Phong trào Đông du và Nghĩa thục.........................................92
Bản đồ 2.3: Phong trào Nghĩa thục ở Thái Bình (1907 – 1908).................95
Bản đồ 3.1: Bản đồ Thái Bình thuộc trấn Sơn Nam hạ tỉnh Nam Định ......136


4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ hai của
Đảng Cộng sản Việt Nam (1951), Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Dân ta có
một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết
thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm khó
khăn, nó nhấn chìm cả lũ bán nước và lũ cướp nứơc”[85,171]. Đến tận cuối
đời, trước lúc vĩnh biệt chúng ta, Người vẫn nói đến chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam với một thái độ hết sức trân trọng.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ngày nay là sản phẩm của phong trào
cách mạng sâu rộng trong nhân dân, được nâng cao và phát triển lên một trình

độ mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những điều kiện mới của lịch sử.
Sở dĩ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có một sức mạnh to lớn đến như vậy
là vì nó khơng chỉ chứa đựng sức mạnh thời đại mà cịn có sức mạnh truyền
thống u nước của dân tộc đã được tích luỹ từ hàng nghìn năm lịch sử. Bởi
vậy, muốn hiểu chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại phải hiểu cội nguồn
của nó từ trong chiều sâu của lịch sử dân tộc, đặc biệt là từ trong các phong
trào yêu nước chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương, làng xóm.
Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ở
Việt Nam đã được nhiều thế hệ sử học nghiên cứu và cũng đã thu được nhiều
kết quả đáng kể. Những bài học rút ra từ thực tế lịch sử đấu tranh chống thực
dân xâm lược và bọn phong kiến bán nước đã góp phần quan trọng vào sự


5
nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng đạo đức cách mạng, xây
dựng nền văn hoá mới Việt Nam. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới đất nước hiện
nay đang đặt ra cho cơng tác giáo dục tư tưởng nói chung, cho việc nghiên
cứu các phong trào yêu nước chống xâm lược nói riêng những nhiệm vụ và
yêu cầu mới. Do đó, việc bổ sung tư liệu mới, việc giải quyết một số vấn đề
về các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ở
Việt Nam trên phương diện lý luận và thực tiễn là việc làm cần thiết góp phần
chứng minh sự hình thành đường lối cứu nước mới theo hướng cách mạng vô
sản nhằm phát huy sức mạnh của cả cộng đồng, của truyền thống yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp để dân tộc Việt Nam bước
vào thời kỳ mới với đủ thế và lực hội nhập cùng khu vực và quốc tế.
Với ý nghĩa trên, việc nghiên cứu các phong trào yêu nước, trong đó có
các phong trào yêu nước chống Pháp ở những thế kỷ trước là một việc làm
cần thiết và cấp bách. Đó là lý do chúng tơi chọn đề tài “ Sự chuyển biến của
phong trào yêu nước chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.

Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn:
-

Là một tỉnh nông nghiệp, bốn bề sơng biển nên có những khó khăn

nhất định về thu nhận thơng tin với bên ngồi, nhưng Thái Bình lại là địa bàn
sớm bùng nổ các phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng với những
người con ưu tú như: Nguyễn Công Thu, Nguyễn Danh Thọ, Nguyễn Danh
Đới, Nguyễn Đức Cảnh... Ngay sau khi Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu (6/1925), vào đầu năm 1927 chi
bộ Thanh Niên đầu tiên ở Thái Bình đã được thành lập (chỉ sau Hà Nội). Tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ở Thái Bình khơng những ra đời
sớm mà cịn có số hội viên đơng đảo hơn so với nhiều tỉnh thành trong cả


6
nước và có tổ chức hồn chỉnh từ tỉnh bộ, huyện bộ đến chi bộ cơ sở, có hệ
thống giao thơng liên lạc giữa các cấp bộ, có cơ quan in và xuất bản báo.
- Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tổ chức cộng sản ở Thái Bình đã
sâu rễ, bền gốc trong quần chúng, là nguyên nhân dẫn đến những cuộc biểu
tình có quy mơ lớn: cuộc biểu tình của gần 1000 nơng dân Dun Hà - Tiên
Hưng nhân ngày Quốc tế lao động (1/5/1930); cuộc biểu tình của nơng dân
Tiền Hải (14/10/1930).
Có nhiều ngun nhân để lý giải hiện tượng này. Một trong những
nguyên nhân đó là truyền thống kháng Pháp từ Cần Vương đến các phong
trào yêu nước như Đông du, Nghĩa thục và nhiều hoạt động yêu nước khác đã
diễn ra liên tục, sôi nổi ở Thái Bình từ những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX. Đây cũng là một trong những địa phương hội tụ các yếu nhân của
phong trào cả nước.
Nghiên cứu phong trào yêu nước giai đoạn này ở Thái Bình trong bối


-

cảnh kháng Pháp ở Bắc kỳ với những đặc điểm cụ thể sẽ góp phần vào việc
nghiên cứu lịch sử Cận đại Việt Nam nói chung và lịch sử Thái Bình nói
riêng. Qua đó, cũng góp phần lý giải thêm một trong những nguyên nhân ra
đời và trưởng thành nhanh chóng của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng
chủ nghĩa yêu nước tại một địa phương cụ thể là tỉnh Thái Bình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Thực hiện đề tài “ Sự chuyển biến của phong trào yêu nước chống
Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX”, chúng tôi nhằm ba mục
đích:


7
- Trên cơ sở tìm hiểu bối cảnh hình thành và phát triển của phong trào
yêu nước chống Pháp ở Thái Bình, nhận thức được đầy đủ hơn nội dung và
bản chất của phong trào.
- Làm sáng tỏ khuynh hướng mới của phong trào (gồm nội dung đấu
tranh, hình thức biểu hiện...) để thấy được sự chuyển biến (về tư tưởng, hình
thức...) của phong trào yêu nước chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Làm rõ thêm các đặc điểm và vị trí của phong trào yêu nước chống
Pháp ở Thái Bình trong bối cảnh khu vực Bắc kỳ giai đoạn này, góp phần
phục vụ nhu cầu nghiên cứu thực tiễn và lý luận hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu:

3.1.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự chuyển biến của phong trào
yêu nước chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trên bình
diện tư tưởng và hình thức biểu hiện...
- Phạm vi: Luận án tập trung nghiên cứu về phong trào yêu nước chống
Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX (mốc cụ thể từ 1873 đến
năm 1930). Đây là hai mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển biến của phong
trào yêu nước chống Pháp ở Thái Bình.
Cuối năm 1873, mặc dù chưa có sự chuẩn y của chính phủ Pháp, Soái
phủ Nam kỳ là Đuyprê (Dupré) quyết định đánh chiếm Bắc kỳ với lý do: Bắc
kỳ là miếng mồi ngon mà Anh - Đức đang dịm ngó và buộc triều đình Huế
phải thừa nhận về pháp lý chủ quyền của Pháp tại ba tỉnh miền Tây (Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên) đã bị chúng chiếm từ năm 1867 nhưng vẫn chưa


8
được công nhận. Kết quả là ngày 20/11/1873, thành Hà Nội thất thủ, tiếp sau
đó, hàng loạt các tỉnh thành khác cũng rơi vào tay quân Pháp: Hà Nam
(26/11), Hải Dương (3/12), Ninh Bình (5/12), Nam Định (12/12).
Sự đầu hàng của chính quyền phong kiến, đặc biệt sau Hiệp ước Giáp
Tuất (15/3/1874), đã cho quần chúng có thực tiễn để nhận thức: chống Pháp
phải đi đơi với chống triều đình phong kiến đầu hàng. Từ đây, phong trào yêu
nước Thái Bình đã có kẻ thù cụ thể trên q hương mình.
Đầu năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khẳng định giai cấp công
nhân nước ta đã trưởng thành và có đủ khả năng đảm nhiệm vai trị lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Thái Bình là một tỉnh nơng nghiệp, nông dân chiếm đa
số, đội ngũ công nhân chưa hình thành, nhưng do những điều kiện chủ quan
và khách quan nhất định, Đảng bộ Thái Bình là một trong những Đảng bộ
được thành lập sớm nhất trong cả nước (tháng 6/1929). Sự kiện này đánh dấu
một bước ngoặt lịch sử trên chặng đường đấu tranh cách mạng của nhân dân
trong tỉnh.

Cũng như cả nước, phong trào yêu nước Thái Bình từ khi có Đảng Cộng
sản lãnh đạo đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối. Vì vậy, năm
1930 được chọn là thời điểm kết thúc cho một thời kỳ chuyển biến của phong
trào yêu nước chống Pháp ở Thái Bình mà Luận án đề cập.
Nội dung nghiên cứu:

3.2.

Trong Luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu một số nội dung
chính sau:
-

Bối cảnh kinh tế, chính trị – xã hội ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX -

đầu thế kỷ XX, trong đó đi sâu xem xét các yếu tố kinh tế, chính trị - xã hội


9
tác động đến quá trình hình thành và phát triển của phong trào yêu nước
chống Pháp.
- Sự chuyển biến về tư tưởng và hình thức thể hiện của phong trào yêu
nước chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Những nét
riêng của phong trào yêu nước ở Thái Bình trong phong trào yêu nước chống
Pháp ở Việt Nam giai đoạn này.

4.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Phong trào yêu nước chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế


kỷ XX đã có một số giáo trình, sách tham khảo; một số cơng trình nghiên cứu
lịch sử địa phương đăng trên các tạp chí khoa học ở Trung ương và địa
phương đề cập tới. Có thể kể đến các cơng trình tiêu biểu như:
- Phan Bội Châu: “ Việt Nam vong quốc sử”, 1905, phần viết về Nguyễn
Quang Bích.
- Phan Bội Châu - Đặng Đoàn Bằng: “ Việt Nam nghĩa liệt sử”, 1918, viết về
Nguyễn Hữu Cương và gia đình ơng.
- Trần Văn Giàu: “Chống xâm lăng”. NXB. Xây dựng Hà Nội, 1957
- Đào Duy Anh: “Lịch sử cách mạng Việt Nam từ 1862 – 1930”, 1955
- Phạm Văn Thụ: “Thái Bình phong vật chí”, 1900, chữ Hán (Phần III: Nhân
vật, phần V: Tình trạng việc đánh dẹp)
- P. Pasquier: “Tỉnh Thái Bình”, 1904 (chương II: quá trình lịch sử, tr. 11 33).
- P.Grossin: “Lịch sử tỉnh Thái Bình”. 1921.
- “Lịch sử đội lính khố xanh Trung – Bắc kỳ”- tập 1. 1930.
- “ Lịch sử quân sự xứ Đông Dương”. Tập 2, 1933.


10
- Đinh Xuân Lâm: “Thái Bình trong phong trào chống xâm lược Pháp nửa
sau thế kỷ XIX”, 1998.
- Chương Thâu; “Đồng kinh Nghĩa thục và phong trào cải cách văn hoá đầu
thế kỷ XX” 1997 ( Chương II, Phần 3 : Phong trào Nghĩa thục ở các tỉnh.)
- “Danh nhân Thái Bình” (nhiều tác giả), tập 1, 1986; tập 2, 1988; tập 3,
1989.
- “Ngàn năm đất và người Thái Bình” (nhiều tác giả), 1989 (từ trang 203 –
240).
- “ Thái Bình truyền thống và hiện tại” (nhiều tác giả), 1991.
- Phạm Xanh: “ Sự đóng góp của dịng họ Nguyễn ở Động Trung (Thái Bình)
và bước chuyển của phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới.”, 1994.
- Trần Việt Phương: “Một số hoạt động yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỷ

XIX - đầu thế kỷ XX có liên hệ với Nguyễn Mậu Kiến và gia đình ơng”, 1994
- Đồn Ngọc Hân: “Động Trung trong phong trào yêu nước chống Pháp cuối
thế kỷ XIX”, 1994.
- Trần Thị Băng Thanh: “Cha và con, bước chuyển trên con đường cứu nước
từ Cần Vương đến cách mạng vơ sản”, 1996.
- Nguyễn Tiến Đồn: “Cuộc giao du giữa cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy với
Nguyễn Hữu Cương và Ngô Quang Đoan”, 1996.
- Nguyễn Thanh Vân: “Thái Bình kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược trước khi có Đảng”, 1997.
- Trương Sỹ Hùng: “Phan Bội Châu với các chí sỹ u nước ở Thái Bình”,
1997.
- Đảng bộ tỉnh Thái Bình: “Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Thái Bình (1927-1954)”.
1999, trang 76 - 116.
- Nguyễn Thị Huệ: “Tìm hiểu những hoạt động của phong trào Đơng Kinh
nghĩa thục ở tỉnh Thái Bình năm 1907 – 1908”, 1999 ...


11
Các cơng trình, luận văn trên đều trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến
hoạt động của các thủ lĩnh kháng Pháp người Thái Bình và người ở các tỉnh
khác về hoạt động ở Thái Bình. Các sách của Phạm Văn Thụ, P. Pasquier, và
các bài viết của Trần Việt Phương, Nguyễn Tiến Đoàn... cũng đề cập đến một
số nhân vật và dòng họ kháng Pháp tiêu biểu ở Thái Bình nửa cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX.
Các cơng trình nghiên cứu của Đinh Xn Lâm, Chương Thâu và của
một số nhà nghiên cứu ở địa phương như: Nguyễn Thanh, Vũ Mạnh Quang,
Nguyễn Thanh Vân, Đoàn Ngọc Hân... đề cập đến phong trào yêu nước của
Thái Bình ở một giai đoạn cụ thể cuối thế kỷ XIX, hoặc đầu thế kỷ XX và gắn
với địa danh làng, thôn cụ thể.
Cơng trình của Phạm Xanh và Trần Thị Băng Thanh có đề cập đến sự

chuyển biến trong hai dịng họ: dòng họ Nguyễn ở Động Trung (Vũ Trung,
Kiến Xương) và dịng họ Ngơ ở Trình Phố (An Ninh, Tiền Hải).
Nhìn chung, các cơng trình thường tập trung giới thiệu các danh nhân
(con người và sự nghiệp), hay một dòng họ cụ thể; hoặc khái quát những diễn
biến chính của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Việc
nghiên cứu có hệ thống các phong trào và đặc biệt là về quá trình chuyển
biến của phong trào chưa sâu sắc, đầy đủ; ví dụ về những tác động của tình
hình kinh tế, chính trị xã hội ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX tới
phong trào yêu nước ở địa phương hoặc sự chuyển biến về tư tưởng và hình
thức thể hiện... của phong trào yêu nước ở Thái Bình giai đoạn này.
Có thể nói, cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu
nào đề cập một cách hệ thống sự chuyển biến của phong trào yêu nước chống
Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, các cơng trình
của các tác giả đi trước đã tạo cho chúng tôi cơ sở, phương hướng tốt để sưu
tầm, khai thác, xử lý tư liệu nhằm giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.


12

5.

Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Các nguồn tư liệu:
- Nguồn tư liệu chung:
Chúng tôi đã sử dụng một số bộ sử biên niên, các bộ địa chí chính thống

do Quốc sử quán Triều Nguyễn thế kỷ XIX biên soạn hiện đã được dịch ra
chữ quốc ngữ như: Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam Nhất thống chí,
Đại Nam chính biên liệt truyện... Ngồi ra chúng tơi còn khai thác sử dụng tư
liệu trong các tác phẩm Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu, Thái

Bình tỉnh thơng chí của Phạm Văn Thụ, Đồng Khánh địa dư chí lược…
- Nguồn tài liệu lưu trữ:
+ Tài liệu hiện lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I thuộc
“Phông Thống sứ Bắc kỳ”. Gồm các tài liệu về địa chí, những ghi chép, báo
cáo có liên quan đến bộ máy cai trị - đàn áp của thực dân Pháp và tình hình
kinh tế, chính trị – xã hội, văn hố... của Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX; tài liệu thuộc “Phông Nha kinh lược”gồm các thông báo, các bản án
do nhà cầm quyền Pháp lập có liên quan đến các thủ lĩnh và các địa phương
tham gia phong trào yêu nước chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX.
Ngồi ra cịn có các tài liệu đang được lưu trữ tại Lưu trữ Trung ương Đảng.
Các tài liệu này chủ yếu được viết bằng chữ Pháp và chữ Hán.
+ Bên cạnh đó, tác giả Luận án còn khai thác các tài liệu lưu trữ
tại các thư viện: Thư viện Hán nôm, Thư viện Quốc gia và Thư viện Thái


13
bình gồm những cuốn sách xã chí, địa bạ; các bản báo cáo thống kê của cá
nhân, cơ quan hành chính thời thuộc Pháp có liên quan đến đề tài.
- Nguồn tài liệu thực địa cũng được khai thác gồm các bản gia phả, (tồn
văn và trích lục) của nhiều họ tộc có cha, ơng liên quan đến việc đánh Pháp,
mở mang kinh tế, văn hố ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Một
số tập hồi ký, thơ văn yêu nước, ảnh, hiện vật của nhiều họ tộc trong tỉnh có
liên quan đến cơng cuộc chống Pháp ở Thái Bình cũng được chúng tơi sưu tập
khai thác nhằm bổ sung cho các tài liệu thư tịch.
- Các ấn phẩm đã xuất bản hoặc cơng bố:
Đó là các loại sách báo, tạp chí, Luận án Phó tiến sĩ, Luận án Tiến sĩ, báo
tiếng Việt ... có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Luận án.
Ngoài ra chúng tơi cũng tham khảo một số cơng trình nghiên cứu và các
tài liệu viết về tỉnh Thái Bình của các quan chức và học giả người Pháp...
5.2. Các phương pháp nghiên cứu:

Để hồn thành Luận án, chúng tơi đã vận dụng các nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong nghiên cứu lịch
sử.
Khối lượng tư liệu phục vụ cho đề tài phong phú và đa dạng nên đòi hỏi
phải được hệ thống hố, phân tích, tổng hợp, chọn lọc, đối chiếu, so sánh thận
trọng khi sử dụng.
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic,
đồng thời khi cần thiết có vận dụng các phương phápiiLLaapj bản đồ, mô tả,
so sánh lịch sử đồng đại và lịch đại.


14

6.

Đóng góp của Luận án:
6.1. Đóng góp khoa học:
- Luận án là cơng trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương đối
toàn diện về phong trào yêu nước chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX, đặc biệt đã làm rõ sự chuyển biến về tư tưởng, hình
thức thể hiện của phong trào.
- Việc bổ sung những tư liệu lịch sử mới sẽ góp phần vào việc nghiên
cứu Lịch sử Cận - Hiện đại Việt Nam nói chung, Lịch sử Cận - Hiện đại
Thái Bình nói riêng.
6.2. Giá trị thực tiễn:
Với một khối lượng tư liệu phong phú, được khai thác từ nhiều nguồn,

Luận án góp phần xây dựng bộ lịch sử Thái Bình, làm cơ sở cho cơng tác
tun truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào về quê hương, làng
xóm cho các thế hệ tiếp nối.

Những bài học rút ra từ thực tế lịch sử của phong trào yêu nước chống
Pháp xâm lược ở Thái Bình là những gợi ý quan trọng cho việc tổ chức các
phong trào thi đua yêu nước xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố tình đồn
kết trong làng xóm, dịng họ, nhằm thực hiện thắng lợi cơng cuộc cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nơng nghiệp và nơng thơn hiện nay ở địa phương.

7.

Kết cấu luận án:


15
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, Luận
án gồm ba chương, được sắp xếp như sau:
Chương 1: Bối cảnh kinh tế, chính trị – xã hội của phong trào yêu nước
chống Pháp ở Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Chương 2: Những chuyển biến của phong trào yêu nước chống Pháp ở
Thái Bình cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Chương 3: Nhận xét chung
Ngoài ra Luận án cịn có: Bảng kê các bảng biểu, bản đồ; mục lục; lời
cam đoan; các cơng trình đã cơng bố có liên quan đến Luận án của tác giả.
*
*

*

Trong quá trình thực hiện Luận án, chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn
tận tình của Giáo sư Đinh Xuân Lâm và Phó Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Văn
Khánh; được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Khoa Lịch sử Trường
Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và Phân

viện Hà Nội – Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh; sự động viên,
khuyến khích của một số Giáo sư, Tiến sĩ, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Ngồi ra chúng tơi cịn nhận được sự giúp đỡ của Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia I, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh
Thái Bình, Sở Văn hố thơng tin Thái Bình, Thư viện Thái Bình, bà con - cơ
bác ở các huyện, thị của tỉnh Thái Bình trong quá trình đi điều tra thực địa,
tập hợp tài liệu cho Luận án…
Nhân đây, xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất của mình đối với
những cá nhân và tập thể đã giúp đỡ chúng tơi trong q trình hồn thành
Luận án.


16
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do năng lực bản thân có hạn, chắc chắn
Luận án khơng tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tơi kính mong nhận được
sự góp ý, chỉ bảo của các Giáo sư, các nhà khoa học và các bạn đồng nghiệp.


17

Chương 1
BỐI CẢNH KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở THÁI BÌNH
CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX.
Những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, phong trào u nước
chống Pháp ở Thái Bình có sự chuyển biến rất cơ bản từ khuynh hướng quân
chủ qua dân chủ tư sản đến khuynh hướng vô sản và được diễn ra trong bối
cảnh kinh tế - chính trị - xã hội trong và ngồi tỉnh có nhiều biến đổi.
1.1. Vài nét về mảnh đất và con người Thái Bình trong lịch sử.
Ngày 21/3/1890 Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định thành lập tỉnh

Thái Bình trên cơ sở cắt phần đất các huyện Đông Quan, Phụ Dực, Quỳnh
Côi, Thuỵ Anh, Thanh Quan, Tiền Hải, Trực Định, Vũ Tiên, Thư Trì của tỉnh
Nam Định và huyện Thần Khê của tỉnh Hưng Yên hợp thành. Năm 1894, hai
huyện Hưng Nhân và Duyên Hà của tỉnh Hưng Yên được cắt về Thái Bình, và
từ đó tên gọi cùng địa dư của tỉnh Thái Bình về cơ bản không thay đổi.
Như vậy, tên tỉnh Thái Bình đến nay mới có 112 năm, nhưng mảnh đất
này đã có bề dày lịch sử hàng ngàn năm. Trải qua bao triều đại với nhiều tên
gọi khác nhau, song Thái Bình từ xa xưa vẫn là vùng đất ven biển thuộc hạ
lưu sơng Hồng nằm trong lịng châu thổ Bắc Bộ, được xác định giữa các vĩ
tuyến 2017’ - 2043’ Bắc và các kinh tuyến 10606’ - 10639’ Đông. Ngày
nay Thái Bình có diện tích rộng 1.533km 2 , từ Tây sang Đông dài 54km, từ
Bắc xuống Nam dài 49 km. Bắc cách Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng bằng
sơng Luộc, sơng Hóa; Tây Nam cách Nam Định bằng sông Hồng; Đông giáp
vịnh Bắc Bộ.


18
Theo lịch sử phát triển của châu thổ sông Hồng thì tồn bộ vùng đất thuộc hai
huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà, phần lớn đất đai thuộc phía Tây Bắc huyện
Đơng Hưng và Thư Trì (cũ) một phần Thuỵ Anh (cũ), Đơng Quan (cũ) có lịch
sử từ 3000-2000 năm. Hầu hết đất đai thuộc các huyện Vũ Thư, Thuỵ Anh
(cũ), Đông Quan (cũ) và vùng Bắc Kiến Xương có lịch sử từ 2000-1000 năm.
Vùng Nam Kiến Xương, Tiền Hải và vùng ven biển huyện Thái Ninh (cũ) có
lịch sử từ 1000 năm trở lại đây theo xu hướng muộn dần, gần như song song
với bờ biển hiện nay. Và những vùng đất có độ tuổi xấp xỉ 1000 năm trở lại
đây ngày càng chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng diện tích đất đai của Thái Bình
do sự bức xúc sức ép về dân số mà xu hướng khai phá bằng phương thức lấn
biển ngày càng được đẩy mạnh và cũng do công cuộc đắp đê, trị thuỷ khẩn
hoang ngày càng mở rộng, đặc biệt từ thời kỳ phong kiến tự chủ (thế kỷ XI).
Nằm trong địa vực châu thổ sông Hồng, nhưng Thái Bình mang nét độc

đáo là tỉnh đồng bằng duy nhất khơng có núi. Theo phân vùng cảnh quan
đồng bằng của các nhà nghiên cứu địa văn hóa thì đồng bằng sơng Hồng được
chia thành 3 vùng lớn: vùng rìa đồng bằng Bắc Bộ, vùng trung tâm đồng bằng
và vùng duyên hải hiện tại. Với cách phân chia này, Thái Bình vừa có cảnh
quan của vùng trung tâm đồng bằng, vừa có cảnh quan của vùng duyên hải.
Nếu quan niệm Thái Bình là một đồng bằng lớn thì trên đồng bằng này
cũng có vùng cao, vùng trũng, vùng hình thành sớm, vùng hình thành muộn
với các yếu tố về khí hậu, thổ nhưỡng khác nhau, thích hợp với q trình canh
tác cấy lúa, trồng màu, trồng cây cơng nghiệp, ươm tơ dệt vải, các nghề thủ
công…
Chúng ta biết rằng, hàng vạn năm trước đây, đồng bằng sông Hồng vốn
là một vùng đất màu mỡ (do được phù sa của hai hệ thống sơng Hồng và sơng
Thái Bình bồi đắp, với địa hình và khí hậu thuận lợi. Thái Bình nằm trong
lịng châu thổ Bắc Bộ nên cùng được hưởng sự ưu đãi đó của tự nhiên, nhưng


19
là một miền đất ven biển mới được bồi tụ nên đất đai Thái Bình có nhiều
vùng chua mặn nặng cần phải trải qua q trình cải tạo mới có thể canh tác
được. Mặt khác, Thái Bình nằm ở vùng đất thấp thuộc hạ lưu sơng Hồng, có
độ cao trung bình từ 1-2m, xen kẽ có những vùng dưới 0,5m hoặc có một số
nơi khác có độ cao trên 2-3m, điều này gây khó khăn cho địa phương trong
việc giữ hoặc tiêu thoát nước và thường gây ra úng hạn. Một khó khăn nữa
cho Thái Bình là với 50km bờ biển, nước thuỷ triều ở vùng biển có chiều cao
trung bình từ 1,9m đến 2,4m, có ngày lên tới 3,8m lại ln ln có mối đe doạ
của gió bão, sóng triều, nước mặn, không chỉ đối với các làng mạc ven biển
mà đối với cả các vùng đất cách xa biển 15km - 30km như miền Đông các
huyện Quỳnh Phụ, Đông Hưng, Kiến Xương.
Các sông lớn chảy ven và qua đất Thái Bình, đặc biệt là sơng Hồng,
hàng năm mang ra biển gần 1 tỷ m3 nước và hơn 100 triệu tấn phù sa. Vì độ

dốc thấp, dịng chảy quanh co, lại có nhiều cồn bãi nên việc thốt nước ra
biển chậm. Mùa mưa, lũ nguồn dồn về nhanh, cộng với lượng nước mưa
trong tỉnh làm nước sông dâng lên rất cao, dễ xảy ra vỡ đê, úng lụt.
Về dân cư, kết quả của các cơng trình nghiên cứu về lịch sử đất đai và cư
dân đồng bằng sông Hồng cho thấy: từ hơn 4000 năm về trước, người Việt cổ
gốc Việt-Mường đã từ vùng đất tổ thuộc các tỉnh Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Hà Tây … tiến xuống khai phá và chiếm lĩnh đồng bằng theo quá trình
biển lùi và lấn biển. Từ những di chỉ khảo cổ học như những gò, đường, đống,
những di vật khảo cổ học như những mũi tên, mũi giáo, lưỡi rìu… bằng đồng
và những phế tích mộ cổ tìm được ở các vùng Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Thái
Thụy, Vũ Thư, Đông Hưng cho thấy: những lớp dân cư đầu tiên đến tụ cư ở
Thái Bình theo những gị đất, những dải đất cao ven sông, ven biển, tương đối
tập trung ở Hưng Hà, Quỳnh Phụ và một phần thuộc Thụy Anh (cũ ), Thư Trì
(cũ) và Tiên Hưng (cũ) vào cuối thời đại đồng thau cách đây từ 3000 - 2700


20
năm, lớp cư dân đầu tiên này từ các vùng trung du thuộc Phú Thọ, Bắc
Giang, Sơn tây … xuống. Đến thời đại đồ sắt, với nền văn hóa Đơng Sơn cách
ngày nay từ 2700-1800 năm, cư dân Thái Bình đã khá đông đúc.
Qua ngàn năm Bắc thuộc, đặc biệt từ Nhà nước phong kiến Đại Việt tự
chủ (thế kỷ XI) về sau, cư dân Thái Bình về cơ bản được bổ sung theo các
luồng nói trên và đến thế kỷ XV- thế kỷ XVIII, do nhiều lý do khác nhau, các
luồng dân cư từ các vùng Nam Định, Hải Dương, Đơng Triều tiếp tục về cư
trú tại Thái Bình. Ngồi ra cịn có những cư dân khác nhập cư vào Thái Bình
do các cơng hầu khanh tướng các triều Lý - Trần đưa tù binh về khai phá tại
các điền trang thái ấp được triều đình ban cấp. Khi Dinh điền sứ Nguyễn
Công Trứ tổ chức cuộc khẩn hoang trên quy mô lớn lập ra huyện Tiền Hải
vào năm 1828 thì cư dân chủ yếu thuộc các làng của Kiến Xương, Vũ Thư
cùng với cư dân của các vùng Nam Định, Hà Nam về hợp cư.

Một đặc điểm đáng chú ý của cư dân Thái Bình là, hầu như trong mọi
thời kỳ lịch sử, người Kinh chiếm tỉ lệ tuyệt đối. Đây là một trong những cơ
sở để tìm hiểu vốn văn hóa truyền thống của người Việt thuộc đồng bằng
sông Hồng. Chủ thể của nền văn minh sông Hồng cịn lưu truyền đậm nét ở
Thái Bình, biểu hiện ở kỹ thuật trồng lúa nước, kinh nghiệm đắp đê sông, đê
biển, phong tục tập quán, cách làm nhà ở, cơ cấu gia đình, dịng họ, hình thái
quần cư nơng thơn…
Ở Thái Bình điều kiện tự nhiên, đất đai, sơng ngịi… rất thuận tiện cho
việc thâm canh lúa, chăn ni gia súc, gia cầm, nuôi trồng và đánh bắt thủy
hải sản, làm muối và các nghề dệt vải, rèn sắt đúc đồng… Tất cả đã tạo nên và
làm ổn định nền kinh tế tự cung, tự cấp với hệ thống chợ nơng thơn, góp phần
phát triển đời sống kinh tế - xã hội của cư dân Thái Bình theo tiến trình chậm
mà chắc, ít có sự đột biến lớn.


21
Có thể nói, trồng lúa nước là nét đặc trưng tiêu biểu về kinh tế của dân
cư đồng bằng sông Hồng. Sức hút mạnh mẽ đối với cư dân đồng bằng sông
Hồng là những vùng thuận tiện trồng lúa nước. Bởi vậy, quá trình hình thành,
khai phá vùng đất Thái Bình gắn liền với xu hướng hội tụ của các luồng cư
dân đổ về đây sinh sống. Sự hội tụ của nhiều luồng dân cư về khai phá, chinh
phục và cải tạo vùng đất Thái Bình đã biến nơi đây trở thành một vùng nơng
nghiệp điển hình và phát triển trong điều kiện trống vắng những đô thị trung
tâm, yếu tố thị dân mờ nhạt. Đó là một trong những đặc trưng quan trọng của
tỉnh Thái Bình.
1.2. Thái Bình cuối thế kỷ XIX:
1.2.1. Chính trị - xã hội:
Sau khi phong trào Cần Vương thất bại, thực dân Pháp đã cơ bản hồn
thành cơng cuộc bình định ở Việt Nam về mặt quân sự. Đất nước ta hoàn toàn
bị đặt dưới quyền thống trị của thực dân Pháp. Từ năm 1897, hệ thống chính

quyền ở Bắc kỳ được thiết lập như sau:
- Ở miền xuôi: Mỗi tỉnh được chia thành nhiều phủ, huyện. Đứng đầu
Phủ là Tri phủ và đứng đầu huyện là Tri huyện; dưới huyện là tổng, xã, làng.
- Ở miền núi: Chia thành đạo và châu. Đứng đầu đạo là Chánh quản
đạo hoặc Quản đạo và đứng đầu châu là Tri châu hoặc Phó châu; đối với những
đạo hoặc châu có địa bàn quá rộng có thể đặt thêm chức Bang tá để giúp việc
cho Chánh quản đạo hoặc Tri châu; dưới châu là các tổng, làng, bản.
Như vậy, qua việc tổ chức - sắp xếp bộ máy cai trị, Toàn quyền Đume
đã tập trung mọi quyền hành ở Việt Nam vào tay thực dân Pháp với hệ thống
các quan cai trị từ Toàn quyền đến Thống sứ (Bắc Kỳ), Khâm sứ (Trung Kỳ),
Thống đốc (Nam Kỳ).
Tháng 11/1873 thực dân Pháp tiến đánh Nam Định lần thứ nhất, mười
năm sau (1883) chúng chiếm đóng Nam Định lần thứ hai (lúc đó Thái Bình


22
còn thuộc Nam Định - PTL). Đây là thời điểm đánh dấu sự có mặt của người
Pháp trên mảnh đất này.
Năm 1894 (sau 4 năm thành lập tỉnh), các cấp hành chính của tỉnh Thái
Bình gồm có:
- 3 phủ (Kiến Xương, Thái Bình, Phân phủ Thái Ninh và Tiên Hưng )
- 12 huyện; 95 tổng; 802 xã, thơn, phường, xóm, trại, ấp
- Dân số: 161.927 người (trong đó đinh hạng nhất: 50.427 người, đinh
hạng nhì : 108.090 người, hạng miễn lao dịch : 3.410 người)
-

Ruộng đất: 365.783 mẫu (trong đó số ruộng là 290.250 mẫu; đất là
75.533 mẫu [130,5].

Thái Bình là một tỉnh nơng nghiệp, nên ngồi nỗi khổ cực do thiên tai,

dịch bệnh làm mất mùa, nông dân trong tỉnh cịn bị cơ cực do bị bóc lột tơ
thuế của bọn địa chủ cường hào. Để bổ sung vào sự thiếu hụt về vốn do nhà
nước thực dân không đầu tư vào Thái Bình, chính quyền ở đây đã tăng cường
vơ vét, bóc lột nhân dân, lập ra ngân sách tỉnh bằng nhiều cách: tăng thuế,
tăng phụ thu, bán cơng trái… Nhà nước cũng cho phép chính quyền các địa
phương tăng thuế, tăng phụ thu.
Ngày 21/12/1893, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định cho phép Thái
Bình được lập ngân sách riêng và quy định phần trăm thuế được thu thêm. Từ
ngày 1/1/1897 trở đi, Tồn quyền Đơng Dương cho phép tăng phần trăm phụ
thu nạp thuế thổ trạch ở Thái Bình [162]…Vì vậy các khoản tiền mà chính
phủ thực dân thu của nhân dân ngày càng tăng lên. Chỉ tính riêng thuế điền
thổ và thuế thân, số tiền thu được hàng năm là:
Bảng 1.1: Thuế điền thổ và thuế thân (1893 – 1899) [96,46]
(Đơn vị tính: đồng Đơng Dương)
Năm
1893

Thuế điền thổ và thuế thân
278.000đ59

Ghi chú


23

1894
1895
1896
1897
1898

1899
Như vậy, số

285.732,03
- Chưa tính đến tiền
334.118,58
đóng thay cho lao dịch
335.362,44
- Chưa tính 5% thuế
384.926,73
điền thổ thu cho ngân
434.957,20
sách hàng tỉnh
434.961,75
tiền thuế thân và thuế điền thổ năm 1899 đã tăng gấp rưỡi

năm 1893.
Bên cạnh thuế, mỗi người dân “nội đinh” một năm phải đi làm phu
không công 48 ngày, theo Nghị định ngày 18/10/1886 của Kinh lược sứ Bắc
Kỳ. Nếu ai không muốn đi phu dịch đều phải bỏ tiền ra chuộc theo Nghị định
của Tồn quyền Đơng Dương ngày 2/6/1897. Với thủ đoạn này, hàng năm,
thực dân Pháp vừa có thể bóc lột được “một số tiền khổng lồ vừa trút lên đầu,
lên cổ những người nông dân cùng khổ tồn bộ khối lượng cơng việc lao
dịch”[61,269].
Sự dung dưỡng của chính quyền thực dân đối với bọn quan lại cấp dưới
đã làm cho đời sống của người nông dân Thái Bình khơng chỉ cùng cực do
việc bóc lột tơ thuế mà cịn điêu đứng trước nạn phu phen, tạp dịch liên miên.
Đây cũng là điều kiện thuận lợi để thực dân Pháp dễ dàng huy động nhân
công phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của chúng.
Cũng như nơng dân một số tỉnh Bắc Kỳ lúc đó, nơng dân Thái Bình bị

chính quyền cưỡng bức đi phu theo chế độ luân phiên có thời hạn để làm
đường. Cách thức mộ phu của chúng được tiến hành bằng biện pháp hành
chính. Thống sứ Bắc Kỳ lệnh cho Cơng sứ các tỉnh phải mộ đủ số lượng phu
nhất định theo yêu cầu từng đợt. Lệnh này được truyền từ Công sứ đến các
viên Tổng đốc hoặc Tuần phủ đầu tỉnh, rồi chuyển xuống cấp xã. Bằng mọi
cách, chính quyền làng xã phải đáp ứng yêu cầu về số lượng phu cho từng đợt
mà cấp trên đã sức xuống. Ví dụ: cuối năm 1893 - đầu năm 1894, để khẩn


24
trương hoàn thành tuyến đường sắt Phủ Lạng Thương - Lạng Sơn, 10 tỉnh
châu thổ Bắc kỳ phải cung cấp cho công trường mỗi đợt hàng ngàn người.
Trong các đợt đó Thái Bình ln ln đứng ở vị trí hàng đầu:
Đợt tháng 11/1893: 150/1000 người
Cuối tháng 12/1893: 300/2000 người
Tháng 5/1894: 655/4128 người
Lấy số liệu của năm 1894, dân số Thái Bình là 161.927 người thì cứ
khoảng 289 người có 1 người phải đi lao động ở các công trường đường sắt.
Ngồi ra, trong đợt tuyển mộ thợ chun mơn - thợ nề (tháng 2/1894), Thái
Bình đã góp 18/150 người của 10 tỉnh [111,124].
Viết về nỗi khổ của người nông dân Thái Bình do bị bóc lột về thuế, phu
dịch, chính Phạm Văn Thụ (Tri phủ Tiên Hưng, sau làm Tổng đốc Thái Bình
) đã xác nhận: dân trong tỉnh “ còn khổ về nỗi thuế đinh, thuế điền thường
phải chịu khống. Khi vào chợ, qua bến đò còn phải chịu những khoản thu
ngang; tiền sưu đã phải nộp mà các việc phu dịch vẫn hãy còn nhiều … thuế
má ngày càng tăng thêm mà dân không dám nộp thiếu, việc phu dịch ngày
càng nặng mà không dám trốn. Vạn nhất mà của cải, sức lực đều kiệt quệ cả
thì biết tính thế nào?” [130,81].
Phạm Văn Thụ cũng chỉ rõ nguyên nhân của hiện tượng trên là: “ Việc
thuê mướn phu phen, khốn đặt cơng xá, phân bổ thu góp các khoản tiền

nong, thuế má hãy còn để cho kẻ gian lọt ra ngồi pháp luật. Ấy là những thói
tệ hại do những kẻ tổng lý gây nên khi thừa hành công việc xuống bên
dưới.”[130,80].
Điều mà Phạm Văn Thụ lo lắng ấy đã đến “ Năm 1887 tỉnh thiếu gạo,
nạn đói hoành hành, bệnh dịch tả khủng khiếp”. Để rồi đến năm 1889, chính
Pát – xkiê (Pierre Pasquier - Cơng sứ Thái Bình, sau làm Tồn quyền Đơng
Dương) đã phải thừa nhận : “ Bắt đầu thời kỳ rối loạn nhất mà trong tỉnh


×