Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn từ nguyên tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.29 KB, 87 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn
-----***-----

Đỗ thị hải

Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh

Luận văn thạc sĩ

Hà Nội - 2010

1


Đại học quốc gia Hà Nội
Tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn
-----***-----

Đỗ thị hải

Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh

Ngành
: Văn học
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
MÃ số
: 60 22 34


Luận văn thạc sĩ
Ng-ời h-ớng dÉn khoa häc:
TS. Háa DiƯu Thóy

Hµ Néi - 2010

2


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan: Bản luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi,
đ-ợc thực hiện trên cơ sở nắm vững lí luận và qua nghiên cứu khảo sát các truyện ngắn của Tõ
Nguyªn TÜnh cïng víi sù h-íng dÉn khoa häc cđa Tiến sĩ Hỏa Diệu Thuý.
Luận văn có tham khảo và sử dụng t- liệu đ-ợc đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí, báo
chí theo danh mục tài liệu của luận văn.
Một lần nữa tôi xin đảm bảo về lời cam đoan trên.

Học viên:
Đỗ Thị Hải

3


Mục Lục

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Phần mở đầu.................................................................................................................6
1. Lí do chọn đề tài:........................................................................................................6

2. Lịch sử vấn đề:............................................................................................................6
3. Mục tiêu nghiên cứu:..................................................................................................9
4. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu:...........................................................................10
5. Ph-ơng pháp nghiên cứu:.........................................................................................10
6. Cấu trúc của luận văn:.............................................................................................11
Phần nội dung
Ch-ơng một: Truyện ngắn từ nguyên tĩnh - Một không gian xứ Thanh đậm nét..12
1.1. Nông thôn Xứ Thanh qua hình ảnh làng tôi của tác giả .............................12
1.1.1. Làng tôi với những hiện thực bi hài trong quá khứ..............................12
1.1.2. Làng tôi trong thêi më cưa...................................................................18
1.2. Mét Xø Thanh kiªn c-êng bÊt khuất qua hình ảnh Hàm Rồng........................25
1.2.1. Hình ảnh Hàm Rồng, trọng điểm hủy diệt của Đế quốc Mỹ.....................25
1.2.2. Hình ảnh Hàm Rồng hiên ngang, bất khuất..............................................27
Ch-ơng hai: Thế giới nhân vật đa dạng, phong phú................................................34
2.1. Nhân vật t- t-ởng............................................................................................34
2.2. Nhân vật số phận..............................................................................................41
2.3. Nhân vật loại hình...........................................................................................45
2.3.1. Nhân vật ng-ời tốt.....................................................................................45
2.3.2. Nhân vật ng-ời xấu....................................................................................52
2.4. Nhân vật tính cách............................................................................................57
2.4.1. Kiểu tính cách lưỡng hóa......................................................................58
2.4.2. Kiểu tính cách tự nhiên bản thể.............................................................60
Ch-ơng ba: Một số đặc điểm ở ph-ơng diện trần thuật ...........................................64
3.1. Điểm nhìn trần thuật linh hoạt..........................................................................64
3.1.1. Điểm nhìn gi¸n tiÕp...................................................................................64
4


3.1.2. Điểm nhìn trực tiếp....................................................................................66
3.1.3. Điểm nhìn nửa trực tiếp, nửa gián tiếp......................................................68

3.2. Sử dụng yếu tố huyền ảo để dẫn dắt và kết nối mạch truyện...........................71
3.2.1. Khai thác đề tài dân gian để tạo dựng cốt truyện kỳ ảo............................71
3.2.2. Sử dụng tình tiế, chi tiết hoang đ-ờng, kì ảo làm hạt nhân của tứ truyện..72
3.3. Giọng điệu trần thuật đa giọng.........................................................................74
3.3.1. Giọng nghiêm cẩn, cung kính.....................................................................74
3.3.2. Giọng ngợi ca.............................................................................................75
3.3.3. Giọng khách quan, lạnh lùng......................................................................76
3.3.4. Giọng cảm thông, chia sẻ.............................................................................78
3.3.5. Giọng hài h-ớc, châm biếm................................. .......................................78
3.3.6. Giọng giễu nhại............................................................................................79
PHầN KếT LUậN..........................................................................................................82
Tài liệu tham khảo...............................................................................................83

5


A. Phần mở đầu

1. Lí do chọn đề tài:
Luận văn đ-ợc hình thành từ những lý do sau:
Từ Nguyên Tĩnh là nhà văn xứ Thanh với đúng nghĩa của cách gọi ấy: ông sinh ra
và lớn lên ở xứ Thanh, vào bộ đội thì trở thành anh lính Hàm Rồng. Trừ mấy năm đ-ợc
mài đũng quần trên ghế của giảng đường khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp rồi lại
trở về với mảnh đất đà sinh thành và chắp cánh cho ông trở thành nhà văn nh- bây giờ.
Đó là lí do khiến phần lớn sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh đều lấy cảm hứng từ xứ Thanh,
đậm đặc không gian xứ Thanh, thấm đẫm tâm hồn tính cách xứ Thanh. ở một mức độ nào
đó muốn tìm hiểu về con ng-ời và mảnh đất Thanh Hóa giai đọan hiện đại có thể tìm đến
sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh nh- một địa chỉ đáng tin cậy.
Từ Nguyên Tĩnh vẫn luôn nhận mình là nhà văn tỉnh lẻ, nhưng nhà văn tỉnh lẻ
này trong ngót ba m-ơi năm cầm bút đà cho ra mắt 6 tập truyện ngắn, 4 tiểu thuyết, 2 tập

thơ và một tr-ờng ca. Tuy nhiên, nghệ thuật không quen đo đếm ở số l-ợng, tác phẩm của
Từ Nguyên Tĩnh cũng đà đ-ợc nhận nhiều giải th-ởng văn ch-ơng.
Truyện ngắn d-ờng nh- là thể loại gắn bó suốt đời của cây bút này: sáng tác đầu
tay là truyện ngắn, đỉnh cao thành công của sự nghiệp sáng tác là truyện ngắn và hình nhcứ vài năm lại đều đặn cho ra đời một tuyển tập truyện ngắn. Tập Truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh NXB Công an nhân dân, 2006 cho thấy truyện ngắn là nơi tập trung cái
hồn, cái tạng của nhà văn.
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, luận văn nh»m
h-íng tíi t×m hiĨu t- t-ëng nghƯ tht cđa mét tác giả tiêu biểu, có đóng góp cho sự phát
triển của một vùng văn học nói riêng, nền văn học Việt Nam nói chung.
Hiện nay trong ch-ơng trình ở các cấp phổ thông và đại học đà đ-a nội dung giới
thiệu tác giả và tác phẩm văn học địa ph-ơng vào giảng dạy. Luận văn nghiên cứu một tác
giả địa ph-ơng nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu, học tập và góp phần xây dựng ch-ơng
trình này.
2. Lịch sử vấn ®Ò:
6


Từ Nguyên Tĩnh từng đoạt nhiều giải th-ởng văn ch-ơng, vì vậy, tác phẩm của ông
đà thu hút đ-ợc sự quan tâm độc giả trong đó có giới phê bình, nghiên cứu. Là cây bút
xông xáo trên nhiều thể loại nên số l-ợng bài viết về tác phẩm ông cũng không ít. Theo
thống kê của chúng tôi, những bài viết phần lớn tập trung cho mảng truyện ngắn, với hai
h-ớng nghiên cứu sau:
H-ớng nghiên cứu thứ nhất, tập trung vào một truyện hoặc một tập truyện cụ thể. ở
h-ớng nghiên cứu này, th-ờng là các bài phê bình, cảm nhận về một truyện nào đó đ-ợc
giải hoặc có sự độc đáo, thú vị, cũng có thể nhân một tuyển tập truyện ngắn của tác giả ra
mắt bạn đọc. Chẳng hạn, bài viết Từ Nguyên Tĩnh qua truyện ngắn Ng-ời tình của cha
của Nguyễn Minh Khiêm - Báo Văn hóa Thông tin số 31-32(918-919) ngày21/6/2007.
Theo Nguyễn Minh Khiêm, truyện ngắn Ng-ời tình của cha: là một tác phẩm có sức lôi
cuốn và ám ảnh (...) Cái tầm văn hóa dân tộc, cái đặc tr-ng nhất của ng-ời Việt đ-ợc
thẩm thấu trọn vẹn qua Ng-ời tình của cha.... Khi tập truyện ngắn Mối tình chàng Lung

mù ra mắt đà nhận được sự hưởng ứng của độc giả.
Đáng chú ý hơn cả là ba bài viết của các tác giả: Bùi Việt Thắng, Văn Đắc và
Nguyễn Văn Lưu. Bùi Việt Thắng trong Mối tình chàng Lung mù- tập truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992 in trên báo Văn nghệ quân đội tháng 12/1993, cảm nhận
rằng trong Mối tình chàng Lung mù Từ Nguyên Tĩnh đà viết bằng cả tấm lòng, cả bầu
tâm sự muốn dốc hết và chia sẻ với mọi ng-ời những suy ngẫm của mình tr-ớc con
ng-ời(...) Truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh cuốn hút ng-ời đọc nhờ lối kể chuyện nửa
thực nửa hư, bàng bạc màu sắc huyền thoại cổ tích.... Văn Đắc trong Mối tình chàng
Lung mù- tập truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992 in trên báo Văn nghệ Hội
Nhà văn Việt Nam số 25(1745) thứ 7 ngày 19/6/1993 thì tâm đắc với cách kể chuyện
ngắn về lời mà thật dài về thân phận, kể, ngẫm mÃi không dứt. Truyện như thế là có dư
vị. Nguyễn Văn Lưu trong Nhìn cuộc đời nhân ái - về tập truyện ngắn Mối tình chàng
Lung mù in trên báo Nhân Dân thứ 7, ngày 1/8/1993 thì bị lôi cuốn bởi cách viết trầm
tĩnh và cái nhìn nhân ái về cuộc đời của tập truyện.
Tuy nhiên, nh- đà nói, những bài viết trên đây mới là những ý kiến nhận xét b-ớc
đầu, những cảm nhận, đánh giá khái quát chứ ch-a đi sâu khảo sát, nghiên cứu phân tích.
Song đó cũng là những ý kiến bổ ích cho đề tài của chúng tôi.
7


H-ớng nghiên cứu khái quát:
ở h-ớng nghiên cứu này có hai dạng: thứ nhất, nghiên cứu bao quát toàn bộ tác
phẩm của tác giả, như bài viết: Cây bút xứ Thanh của tác giả Bùi Việt Thắng in trên
báo Văn Hãa Thanh Hãa sè 383, 7/1998. Trong khu«n khỉ cđa một bài báo mà đ-a ra ý
kiến về tất cả các thể loại thì chỉ có thể là những nhận xét b-ớc đầu hoặc những cảm nhận
khái quát, chẳng hạn Từ Nguyên Tĩnh viết cả ký, tiểu thuyết và truyện ngắn, nhưng dĩ
nhiên ng-ời đọc vẫn nhớ anh là một nhà văn viết truyện ngắn rất có duyên hiện nay... góp
phần làm khởi sắc thể loại nhỏ vốn có truyền thống và thành tựu trong nền văn học dân
tộc, đặc biệt ở thế kỉ XX.
Tác giả Đỗ Văn Phác trong bài viết Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Từ Nguyên

Tĩnh (Nhân đọc Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh NXB Công an nhân dân, năm 2006) in
trên tạp chí Xứ Thanh tháng 8/2007 thì cảm nhận đ-ợc nội dung cụ thể của một số truyện
ngắn tiêu biểu và phần nào phát hiện ra bút pháp nghệ thuật của nhà văn.
Đáng kể hơn cả là một số bài viết đà đi sâu nghiên cứu về một ph-ơng diện nào
đó của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, như : Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh in trên tạp chí Xứ Thanh số 323, 5/2008; Về yếu tố huyền thoại kì ảo
trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh in trên tạp chí Xứ Thanh 8/2008, và Truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh- món nợ làng quê (Đọc Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, NXB Công an
ND, 2006 ) in trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ ViƯt Nam sè 148, 5/2007 cđa TS Háa DiƯu
Thóy. Theo TS Háa DiƯu Thóy, thÕ giíi nh©n vËt trong trun ngắn Từ Nguyên Tĩnh đa
dạng về tính cách, phức tạp trong tâm hồn; ấn tượng nhất trong nghệ thuật truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh là yếu tố huyền thoại kì ảo; cũng theo TS Hỏa Diệu Thúy, quê hương
là nỗi ám ảnh lớn nhất của Từ Nguyên Tĩnh, nỗi ám ảnh ấy như trở thành món nợ trong
xúc cảm nghệ thuật của ông.
Tác giả Mạnh Lê trong bài viết Mấy đặc sắc truyện ngắn Từ NguyênTĩnh trên
tạp chí Xứ Thanh số 45 cũng đà cảm nhận về truyện ngắn của ông: ...quả là văn anh có
nguồn mạch. Cái mạch nguồn dễ nhận ra trước mắt là sắc thái một vùng quê. Tác giả
cũng nhấn mạnh nét đặc sắc truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là truyện đậm chất triết lí và
yếu tố hun ¶o‛.
8


Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh cũng đà thu hút đ-ợc sự chú ý của sinh viên đại học.
Chẳng hạn, sinh viên Hứa Linh Ph-ơng K44 Báo Chí- Tr-ờng Đại học KHXH&NV Hà
Nội có bài viết Những câu chuyện Hàm Rồng và cái nhìn nhân ái (Về tập truyện ngắn
Mối tình chàng Lung mù Từ Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992).
Một công trình dài hơi hơn là khóa luận tốt nghiệp của Huỳnh Sơn- sinh viên Đại
học Huế với tên gọi Bản sắc nghệ thuật Từ Nguyên Tĩnh. Khóa luận có 3 chương:
Chương một: Từ Nguyên Tĩnh và truyện ngắn, ở chương này tác giả lí luận chung về
truyện ngắn và giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm; Chương hai Nội dung truyện ngắn

Từ Nguyên Tĩnh. Như tên chương đà gợi ra, tác giả tìm hiểu nội dung truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh ở các nội dung cụ thể sau: Mỗi truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là một tấm
lòng, một nỗi niềm tâm sự, một ước vọng và khát khao riêng, đó là sự chiêm nghiệm về
số phận của con người ;và Chương ba Nghệ thuật truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh. Về
nghệ thuật của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, khóa luận đ-a ra nhận xét nh- sau: Mỗi câu
chuyện của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là một sự chiêm nghiệm về số phận của con
người, là sự liên tưởng, hồi tưởng đan xen qúa khứ, hiện tại, tương lai.
Tuy nhiên trong khoá luận, Huỳnh Sơn chủ yếu đi vào lí thuyết chung về thể loại
truyện ngắn và phân tích nội dung một số truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh. Các ý triển
khai có sự lặp lại ở các ch-ơng chứ ch-a phát hiện ra những ý mới. Nhìn chung, trong
phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, Huỳnh Sơn ch-a đ-a ra đ-ợc những ý kiến có
chiều sâu bàn bạc, nghiên cứu.
Nh- vậy, nhìn chung, các bài viết, kể cả khóa ln tèt nghiƯp cđa Hnh S¬n cịng
míi dõng ë ‚b­íc đầu tìm hiểu, hoặc nhân đọc hoặc chỉ đi sâu vào một phương diện
nào đó của tác phẩm chứ ch-a nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện toàn bộ thế giới
nghệ thuật truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh. Các bài viết trên tuy đà cho chúng tôi những
gợi ý quý báu song chúng tôi nhận thấy nguồn t- liệu đánh giá về truyện ngắn của ông là
khá phong phú tuy nhiên cho đến nay vẫn ch-a có một công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và hệ thống về thế giới nghệ thuật truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh. Chúng tôi
coi đó là chỗ còn bỏ ngỏ để đặt vấn ®Ị nghiªn cøu.
3. Mơc tiªu nghiªn cøu:
9


Luận văn h-ớng tới tìm hiểu, nhận diện thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh, từ đó nhằm tìm hiểu t- t-ởng nghệ thuật của một nhà văn đồng thời chỉ ra
nét đặc tr-ng riêng của một nhà văn gắn bó với địa ph-ơng, vì vậy tác phẩm mang sắc
thái địa ph-ơng rõ nét.
4. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu:
- Quan niệm về đề tài: Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình

Sử và Nguyễn Khắc Phi chủ biên- NXB Giáo dục, năm 2000, Thế giới nghệ thuật là
một thế giới riêng được sáng tạo theo các nguyên tắc tư tưởng; Thế giới nghệ thuật có
không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xà hội riêng, quan
niệm đạo đức thang bậc giá trị riêng; Mỗi thÕ giíi nghƯ tht ‚øng víi mét quan niƯm
vỊ thÕ giới, một cách cắt nghĩa về thế giới. Thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính
độc đáo về t- duy nghƯ tht cđa s¸ng t¸c nghƯ tht, cã céi nguồn trong thế giới quan,
văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nghệ sĩ.
Xét theo quan niệm trên, Từ Nguyên Tĩnh quả đà tạo ra đ-ợc một thế giới nghệ
thuật riêng trong các sáng truyện ngắn của mình. Thế giới nghệ thuật ấy gắn liền với
mảnh đất và con ng-ời xứ Thanh đ-ợc lọc qua lăng kính của một ng-ời con xứ Thanh.
- Phạm vi và cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài là Thế giới nghệ thuật trong
các sáng tác truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh.
5. Ph-ơng pháp nghiên cứu:
Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi vận dụng một số ph-ơng pháp sau:
- Ph-ơng pháp hệ thống. Nghiên cứu toàn bộ toàn bộ sáng tác truyện ngắn của một
nhà văn rất cần tới những thống kê, phân loại. Ph-ơng pháp hệ thống giúp cho việc phát
hiện ra hạt nhân lơ gíc tạo nên tính khu biệt của loại hình thể loại, tõ đó xác định rõ đối
t-ợng nghiên cứu, khảo sát.
- Ph-ơng pháp loại hình. Đề tài tập trung khảo sát nghiên cứu một thể loại là truyện
ngắn vì vậy cần tới những thao tác của ph-ơng pháp loại hình.
- Luận văn cũng sẽ sử dụng một số ph-ơng pháp khác nh-: ph-ơng pháp phân tích
văn học, ph-ơng pháp so sánh văn học hoặc phối hợp một số ph-ơng pháp nghiên cứu liên
ngành.
10


- Từ Nguyên Tĩnh là nhà văn đ-ơng đại, cho nên trong khi giải quyết đề tài, chúng
tôi có thể sử dụng ph-ơng pháp phỏng vấn để làm sáng rõ đề tài.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung của luận văn sẽ đ-ợc kết cấu thành ba

ch-ơng:
Ch-ơng một: Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, một không gian Xứ Thanh đậm nét
Ch-ơng hai: Thế giới nhân vật đa dạng, phong phú
Ch-ơng ba: Một số đặc điểm ở ph-ơng diện trần thuật

11


nội dung
Ch-ơng một
Truyện ngắn từ nguyên tĩnh, Một không gian
xứ Thanh đậm nét
Là một trong những cây bút khi đà thành danh rồi vẫn bám trụ tại mảnh đất quê nhà,
phải chăng đó chính là lí do khiến không gian nghệ thuật chính trong truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh là không gian xø Thanh, lµ con ng-êi vµ cc sèng cđa mảnh đất miền
trung nắng gió mặn mòi.
1.1. Nông thôn Xứ Thanh qua hình ảnh làng tôi của tác giả
Từ Nguyên Tĩnh sinh ra ở làng Bàn Thạch, xà Xuân Quang, huyện Thọ Xuân,
Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 36 km về phía tây tính theo đ-ờng chim bay. Đó
là một làng thuần nông ít học, chỉ thích cày ruộng, quanh quẩn với vài sào ruộng hoặc
cày thuê cuốc mướn.. Một vùng đất bán sơn địa, song có lẽ là mạch đất h-ng v-ợng nên
sinh ra cả anh hùng và thi sĩ. Đây là quê hương của hai bậc anh hùng hào kiệt có công
sáng lập nên hai triều đại lớn trong lịch sử dân tộc: Lê Hoàn và Lê Lợi; cũng là nơi phát
tích nghề ca công. Mảnh đất giàu trầm tích văn hoá này trở thành nguồn cảm hứng dồi
dào cho các sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh.
1.1.1. Làng tôi với những hiện thực bi hài trong quá khứ
Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh có một mảng lớn về hiện thực nông thôn và nông
thôn ấy chủ yếu là sự việc và con ng-ời của quê h-ơng tác giả. Có nhà nghiên cứu đÃ
nhận xét rằng Từ Nguyên Tĩnh đà mượn ô cửa làng mình để nhìn ra thế giới. Từ làng
Bàn Thạch trong thực tế, vào đến tác phẩm lúc thì vẫn là làng Bàn Thạch, lúc lại trở thành

làng La Đá Hạ. Với không gian làng mình, Từ Nguyên Tĩnh đà tái hiện bức tranh nông
thôn xứ Thanh sống động đủ những cung bậc bi hài.
HÃy bắt đầu bằng truyện ngắn Kiếp người. Kiếp người lấy cảm hứng từ hiện
thực sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếp đến là cuộc cải cách ruộng đất vào những năm
50, 60 của thế kỉ tr-ớc ngay ở chính làng quê của tác giả, làng tôi, thậm chí là câu
chuyện của chính gia đình tôi tác giả. Những vui buồn của những năm tháng ấy
d-ờng nh- không thể nguôi ngoai trong cảm xúc của những ng-ời trong cuộc. Qua câu
12


chuyện của chị Kén- nhân vật trong truyện cũng là chị ruột của nhân vật người kể
chuyện, hiện lên cuộc sống và không khí nông thôn xứ Thanh một thời.
Năm 1945 chị Kén tôi m-ời sáu. Cùng lũ gái làng ra đình Bàn Thạch xem nghĩa
quân cách mạng về c-ớp chính quyền Nam Triều. Sau đó là những ngày tháng sôi nổi
của một nông thôn hừng hực khí thế cách mạng. Chị tôi vào thanh niên cứu quốc, đi
một hai tập võ bị. Cha mẹ tôi vui lắm. Chị Kén đà thành cách mạng rồi. [33; 135]
Chị Kén tôi đẹp nức tiếng trong vùng, mặt tròn như vành trăng, da trắng, tóc dài.
Trời sao lại cho nhà tôi. Bây giờ những ng-ời còn sống cùng tuổi chị vẫn kể lại. Trầm trồ
khen chị đẹp. Chị đà lọt mắt xanh người cưỡi bạch mà về làng tước ấn tín của bọn cường
hào địa chủ - anh Lượng. Nhà tôi vinh dự có con rể làm lÃnh đạo cách mạng. Đám c-ới
của chị Kén và anh câu L-ợng nổi tiếng cả một vùng.
Cải cách đến, bỗng d-ng anh câu L-ợng bị bắt, bị qui là phản động: làm ng-ời
cách mạng nằm bờ nằm bụi mà dám lấy con nhà bóc lột làng Bàn Thạch, mà tổng C-ơng
Thạch này ai lạ gì con cháu cố Cửu. Ruộng đất của ông ta bằng cả hồ làng Bàn Thạch.
Chả là, ông bà tôi vốn giàu có, cũng từ chuyện chân lấm tay bùn mà nức tiếng tốt bụng
của làng Bàn Thạch. Có năm làng mất mùa, đà lấy lúa của nhà giúp làng nộp thuế.
Song, giàu khi ấy là một tội, trở thành mầm họa. Máy bay Đa-cô-ta của Pháp oanh tạc
chợ Rạng, cầu Quần Kênh được nghi là có chỉ điểm. Anh Câu Lượng bị li khai khỏi tổ
chức, không hiểu có bị tra tấn không nhưng người anh còm rom và mắc bệnh ho lao.
Xưa làng xà tung hô anh bao nhiêu thì thì bây giờ tẩy chay phỉ nhổ: Cái quân phản

động ấy dây vào làm gì... chắc là bị tra tấn trong tù không chịu nổi khai ra... Mà phải lắm
đấy... Nó lại lấy con cái nhà giàu.... Người ta quên đi công lao thầy mẹ tôi, chị Kén mua
vàng , hiến của cho cách mạng. Họ cũng chẳng cần biết bom đạn và tai biến nhắm vào gia
đình tàn tạ... [33, 139]
Đó là không khí của những năm cải cách ruộng đất với những chính sách bắt nguồn
từ t- duy ấu trĩ, cực đoan mà ngay sau đó Đảng ta đà nhận ra sai lầm. Cái ấu trĩ, thiển cận
của một thời khiến con ng-ời ta không quan tâm đến ngọn nguồn của sự việc để xem xét
đánh giá, yêu và ghét một cách hồn nhiên theo cảm tính dẫn đến những oan sai cho bao
số phận. Chị Kén tôi từ ngày ấy chìm nổi, ngụp lặn trong cuộc sống bi đát nhất, bị hạ
nhục, bị dày vò, chị trở thành nạn nhân của sự sai lầm trong t- duy ấu trĩ. Tác giả không
13


giấu nổi sự xót xa cho thân phận ng-ời chị khốn khổ chân yếu tay mềm bị vùi dập tức
t-ởi: bó chị vào manh chiếu rách nát, khênh chị ra MÃ Tiền. Chị không t-ởng t-ợng
nổi đ-ợc mình ra đi lại khốn khổ nh- thế này. Chị từng đẹp một thời. Ai nhìn đến chị thảy
đều giật mình, cùng một kiếp ngườiChị ra MÃ Tiền không kèn trống, áo quan. Con Tấn
khóc nh- xé vải: Mẹ ơi! Mẹ ơi[33, 150]. Qua câu chuyện về ng-ời chị gái, câu chuyện
về làng Bàn Thạch, Từ Nguyên Tĩnh đà dựng lại không khí của những năm tháng ấy trên
mảnh đất xứ Thanh. Nỗi đau không hề nhỏ, những mất mát xuất phát từ những sai lầm,
song dẫu sao, khí thế cách mạng đang hừng hực khi đó đà cuốn đi tất cả.
Truyện GÃ nhà quê lại là câu chuyện về một kiếp ng-ời khác, kiếp của lÃo Cao, lÃo
già cô độc chột một mắt để lại cho tác giả nhiều ấn t-ợng nhất mỗi khi nhớ về làng mình
hay nếu có ai nhắc đến hai chữ nhà quê. Chuyện về cuộc đời lÃo Cao làm nghề chăn vịt,
biết đủ thứ chuyện trên đời. Cuộc đời lÃo nh- một pho sử của làng. Câu chuyện về cuộc
đời lÃo cho ta hình dung về một nông thôn xứ Thanh ở một giai đoạn lịch sử một đi không
trở lại. Thời ấy dân mình ngu hơn bây giờ. Chỉ biết nai l-ng ra làm cho bọn chánh, lý
hào mục hưởng. Câu chuyện của lÃo Cao với lũ trẻ đưa người đọc trở về cái thời ấy,
cái thời nô lệ. LÃo Cao tứ cố vô thân không tấc đất cắm dùi, đổi lại Cao khoẻ mạnh và khá
lanh lợi (bằng chứng là anh ta xúi cho c-ờng hào địa chủ đào ao thả cá và ng-ời làng Bàn

Thạch đà có một dÃy ao tới vài chục mẫu). Cao phải đi làm thuê cho địa chủ, anh chàng
nghèo hèn nh-ng khoẻ mạnh đà đem lòng yêu con gái địa chủ và cũng đ-ợc yêu lại. Sự
việc bị phát giác, Cao bị nhà địa chủ đánh cho gục đổ nh- cây chuối, lại bị làm nhục tr-ớc
mặt ng-ời yêu. May nhờ có ng-ời đàn bà tàn tật dìu về thuốc thang mới thoát chết. Nh-ng
tình yêu của thời trai trẻ còn mạnh hơn cái chết. Cao rình gặp Liên và lần liều mạng này
Cao phải trả giá bằng một con mắt. Cao bị đuổi ra đám cồn hoang cắm lều chăn vịt.
Rồi những năm cải cách, những người nghèo khổ như lÃo Cao trở thành yếu nhân
trong làng. LÃo Cao đà lọt vào tầm ngắm có thể làm chủ tịch xà bởi cải cách người ta tìm
người khổ nhất làng để làm chủ tịch xÃ. Trong làng, lÃo là người bị ăn đòn roi của địa
chủ nhiều nhất [33; 27]. Nh-ng cuối cùng lÃo Cao đà không đ-ợc làm chủ tịch bởi lÃo
gây ra chuyện động trời là tiếp tế trứng vịt cho địa chủ phản động.
Câu chuyện về cuộc đời lÃo Cao càng tô đậm thêm bức tranh ảm đạm của những
thân phận tối tăm, bé mọn chịu nhiều áp bức đè nén trong những năm tr-ớc cách m¹ng
14


Tháng Tám. Đặc biệt, tác giả trở về với việc phản ánh những sai lầm, ấu trĩ của một số
chủ tr-ơng trong công cuộc cải cách ruộng đất, một hiện thực mà tr-ớc đây những cây bút
th-ờng né tránh. Có thể coi đó là một thái độ dũng cảm. Những câu chuyện của chị Kén,
của lÃo Cao làm hiện lên bóng mây u ám của nông thôn xứ Thanh một thời.
Truyện Họ hàng nông dân lại là một cách tiếp cận khác, tiếp cận từ cái nhìn bên
trong. Họ Công toàn nông dân. Điều đó tỏ ra không có gì là thiệt thòi. Bốn đời là nông
dân. Thậm chí cả chục đời là nông dân. Điều đó đáng tự hào lắm. Họ ấy đông thật
mạnh thật. Ngày giỗ họ các bậc bô lÃo ngồi ngắm con cháu ăn nh- dâu tằm ăn mà
không dừng lại được, đưa tay lên vuốt chòm râu. Đà thế, dòng họ này còn đà từng thay
nhau làm chánh, phó lý; hết cành trên lại xống cành dưới, hết cha đến con. Song, dòng
họ này cũng có khối chuyện buồn và buồn nhất là không đào đâu ra người có chữ
nghĩa. Mạnh và đông nhưng có nỗi buồn về thất học. Nếu nói về đức tính thì ông tổ họ
này nổi tiếng tằn tiện. Thủa hàn vi đi chợ tỉnh bán chanh không dám ăn quà, uống nước
sợ tốn tiền. Dọc đ-ờng đái cố nhịn bằng đ-ợc về nhà mới tiểu kẻo mất của. Còn ba cây số

nhịn không nổi phải chọn một cục đất cay của người ta mà tè, đem về[1, 8]. Có thể nói
đây là chi tiết đắt giá về tính kiệm cần của người nông dân xứ Thanh. Nó ngang cơ với
chi tiết ăn cá gỗ của người nông dân xứ Nghệ. Xứ Thanh vốn là mảnh đất thiên nhiên
hà khắc, thiên tai địch họa luôn là nỗi lo sợ đối với ng-ời dân, vì vậy để sống đ-ợc ở đây
ng-ời dân phải hết sức tằn tiện và chịu khó. Đời con, đời cháu hình nh- cũng kế thừa
được đức tính ấy. Ông Thầu có tài tần tiện đến mức lạ lùng. Lò vôi của xà giao cho
thằng cháu họ mỗi lần đi qua ông xin một cục, một năm trời ông đà có hố vôi tôi làm
đ-ợc cái chuồng lợn. Ng-ời ta nói, gạch làm bếp là do ông đi hót phân rơi ở đ-ờng nhặt
về xây đủ đấy. Họ này giàu là nhờ tiết kiệm cùng với tính chịu th-ơng chịu khó, thành
có máu mặt ở làng. Qua những chi tiết độc đáo trên ta thấy nó tiêu biểu cho tâm lý và
cách sống tằn tiện chi li đến tội nghiệp của một bộ phận ng-ời nông dân. Giàu do tiết
kiệm, do chắt bóp. Đó là cách v-ơn lên để tự khẳng định của ng-ời nông dân xứ Thanh.
Dòng họ Êy kh«ng chØ nỉi tiÕng vỊ tÝnh t»n tiƯn, tiÕt kiệm mà cũng nổi bật về tính
háo danh. Cả họ Công đều giàu nh-ng hầu hết cả họ đều buồn một nỗi là trong họ không
có ai làm quan to và con em thiếu ăn học, Cái buồn làm nẫu ruột bọn choai choai, cái
buồn làm khô héo người già cả. Con trai chú Thầu nghe đâu đánh nhau rất m¸u me ë
15


Hàm Rồng suýt được phong anh hùng nhưng lại trật lất bởi cái tính huyếnh hoáng của
chú Thầu. Ch-a đ-ợc đưa tin lên đài báo mà mới có anh cán bộ về thẩm tra đà loan tin
và ngà ngay con lợn ra liên hoan, lại thêm cái tội lÃng phí lương thực phá hoại sản
xuất, chống Mỹ. Chuyện con trai chú mất anh hùng làm cả họ tiếc ngẩn ngơ hàng năm
trời.
Ông Thầu có niềm tha thiết con cái có danh giá. Ông muốn một ngày nào đó,
chi của cành thứ hai này phải nêu danh, là trụ cột của họ này. Vì vậy khi đứa con trai học
hàm thụ đại học của ông bị bóng gió là đại học giả cày. Đại học bia thịt chó là chú
cứ bực mình. Tư tưởng này lan đến cả ông Tứ thuộc cành cuối cùng của dòng họ cũng
muốn họ mình phải có cán bộ chủ chốt ở xÃ, ông muốn tiếng nói của mình phải vang lên
trong dòng họ. Ông Tứ cứ băn khoăn tại sao họ này lại không có một người làm tướng

là chính ông hay con trai ông chẳng hạn. Từ ý thức về sự kém cỏi của họ mình, họ Công
quyết định nghĩ đến sự phương trưởng của dòng họ để không thua kém họ khác. Điều
đó lại làm họ khác trong làng giật mình, họ Công đông lắm, không khéo phải mổ trâu
bò mới đủ thức ăn. Chắc họ sẽ thuê tiền quảng áo trên ti vi. Nhưng có người lại cười
khẩy, họ ấy toàn nông dân cả, trừ vài liệt sĩ có ai rời làng ra đi đâu mà quảng cáo. Ông
Thầu nghe vậy mà sốt ruột, tiếc ngẩn ngơ, có phải thằng cháu của họ này làm chủ tịch xÃ
trị cho bọn nó một trận cho trắng mắt ra, quân ngụ cư hỗn láo [33; 15].
Bằng sự thể hiện tâm trạng ông Thầu và ông Tứ, Từ Nguyên Tĩnh đà đi vào mổ xẻ
tâm lí háo danh, thích oai oách của đại đa số ng-ời nông dân. Dù không biết chữ nh-ng
bao giờ cũng muốn chứng tỏ bản thân. Mỗi dòng họ nh- một tập đoàn chính trị nhỏ, luôn
tự đấu tranh, họ này nhìn họ kia để giành giật quyền cai trị.
Cho đến khi ông Thầu không đạt đ-ợc khát vọng, ông quay trở về với tinh thần cào
bằng, tự an ủi với lí lẽ nông dân là tất cả, là gốc rễ để an ủi cho sự thất bại đó . Ông răn
dạy con cháu về sự cố thủ làng quê của họ mình Họ ta toàn là nông dân... Bộ ai cũng ra
thành thị mà sống lắy đâu ra thóc gạo mà nuôi con người rồi cuối cùng cũng cáo chết
ba năm quay đầu về núi, đằng nào cũng thành nông dân (...) Họ này là nông dân, điều
đó chỉ đáng tự hào mà thôi. Ông lại nhấn mạnh tướng tá gì ở đâu không biết, hÃy cứ về
đây họ này sẽ nhuộm thành nông dân cho mà xem. Cũng từ cách suy nghĩ ấy, ông Tứ lại
có cách cai trị dòng họ hết sức độc đoán, gia trưởng Tôi cấm ai cã ý nghÜ bá lµng, bá hä
16


mà đi. Bắt chước những thằng bỏ làng hay sao? Tôi là cấm. Họ này cấm đấy. Đó là cái
lối cai trị cực đoan, ích kỉ và gia tr-ởng rất tiêu biểu cho tính cách ng-ời nông dân ở
những vùng quê xa xôi, căn cốt, ít có điều kiện giao tiếp. ở đấy, tập tục, lề thói ngự trị
hầu nhue theo quy luật mạnh được yếu thua.
Truyện Họ hàng nông dân phải chăng là cách Từ Nguyên Tĩnh luận về tính cách
ng-ời nông dân nói chung, đặc biệt là tính cách con ng-ời xứ Thanh qua cách ông quan
sát và đúc kết từ một dòng họ? Tuy nhiên, qua đó cũng cho thấy cách sống, cách nghĩ của
ng-ời nông dân xứ Thanh với những nét đặc tr-ng của xứ này.

Trong truyện Đứa bỏ làng lại là một hiện thực khác, một hiện thực nông thôn lạc
hậu, đời sống dân trí thấp, ng-ời dân lẩn quẩn trong đói nghèo, mê tín. Dốt nát đi liền với
nghèo đói, căn bệnh cố hữu cđa n«ng th«n ViƯt Nam mét thêi, xø Thanh kh«ng là ngoại
lệ. Viết về thực trạng đó, nhà văn muốn gióng lên hồi chuông về vấn đề phát triển nông
thôn tr-ớc hết chính là vấn đề nâng cao dân trí: Cả làng Bàn Thạch trí thức chỉ có ba
người: Bác Lung làm thầy bói, ông Lật thầy cúng và chú tôi. Tuy chú tôi không biết chữ
nhưng cũng nói được những lời lạ lùng. Bác Lung thầy bói tiếng tăm hàng nửa thế kỉ
của bác nổi như cồn. Đâu đâu người ta cũng đến xin ý kiến bác, từ chuyện mất của đến
tình duyên dang dở, nhất là những người mộ lạc. Thậm chí ông còn bói về thời cuộc
thua đ-ợc của ta, ẩu đả của thế giới, luận về Kiều. ĐÃ thế lại có lÃo Lật, ng-ời thấp, đen
sắt miệng méo làm nghề thầy cúng ủng hộ nên bác Lung rất mạnh.
LÃo Lật thì lo liệu sức khỏe cho cả làng, bọn nhóc ốm, hái lá léo không khỏi.
Cúng. Ng-ời ốm thập tử nhất sinh lập đàn cầu đảo, khỏi ngay. Động mồ động mả cúng ăn
nên làm ra. Chính quyền xà là con cháu trong nhà, lại ít chữ thành ra ng-ời lo cho sinh
mệnh của làng tôi là bác Lung và lÃo Lật thầy cúng. Còn chú Ngũ tôi một chữ cắn đôi
cũng không biết, nh-ng có dạo đà làm tới chân chủ tịch xà nh-ng cũng chỉ nhập tâm
các cuộc họp. Sau đà có máy đứa đàn em văn hoá lớp hai lớp ba lên thay [33; 34].Tri
thức khoa học và sự văn minh là một điều xa lạ, lạc lõng ở làng quê này.
Trí thức của làng thì nh- vậy, cán bộ xà chỉ lo ăn chơi, ban ngày thì mấy ông
chính quyền xà điều hành- ăn uống lỉnh kỉnh, đêm về thì âm binh, làng càng bại. Điều
hành cả xà không phải là bộ máy chính quyền vững mạnh, liêm khiết mà chính là thầy bói
Lung và lÃo Lật thầy cúng. Con ng-ời làng quê tôi nhỏ bé như con chuột. Chú Ngũ –
17


tuy không biết chữ nh-ng cảm nhận đ-ợc điều ấy mà bất lực, không bác lại đ-ợc những
gì đà ăn sâu bén rễ trong tâm thức ng-ời dân bao đời. Làng mình đất đẹp đấy cháu
ạ...Nhưng có con sông án ngữ mất rồi. Đứa nào vượt qua được sông thì khá. Ông chú giải
thích cho thế hệ sau và cũng là để tự an ủi mình bằng chính lời của thầy bói. Trong sự u
mê và sợ hÃi, con sông quê thành con sông tiền định, nằm án ngữ ngăn cách làng Bàn

Thạch với thế giới bền ngoài. Luỹ tre làng cũng thành vật thiêng, thành thành luỹ vững
chắc vừa bảo vệ vừa níu giữ b-ớc chân những con ng-ời nơi đây. Đứa nào v-ợt qua đ-ợc
sông thì khá. Câu nói như một lời nguyền. Chú Ngữ cũng có khát khao v-ợt qua đ-ợc
con sông ấy để thay đổi cuộc đời nh-ng cái sợ cố hữu luôn ngăn cản khiến chú luôn bị
dày vò thổn thức: ngay chú hèn cũng không dám đi, bởi nếu đi sẽ thành đứa bỏ làng
cái tiếng ấy ngày x-a là lời chửi độc, khinh rẻ của dân làng tôi- không đ-ợc làng chấp
nhận, ghét bỏ phải bỏ làng ra đi - đời chết rấp bờ bụi ở đâu đâumà có khi đói kém
không dám mò mặt về làng[31;33] . Cũng đà có ng-ời bỏ làng ra đi, nh-ng phần lớn
những kẻ ấy ®Ịu ra ®i víi ®óng nghÜa cđa tõ Êy: ‚Ng­êi đầu tiên là Đỏ Vạc vào rừng hái
củi mà chết đói. Nghe đâu cha nó cũng dắt chị dâu đi hái củi bị cọp vồmấy ông đi lính
Pháp, đi Tân thế giới ở luôn bên đó nên danh nên giá. Mấy chú vào đồn điền cao su. Mấy
anh chàng đi chém thuê vì chẳng có nghề nghiệp và cái lá lót ruột[33;33]. Bị những tập
quán, phong tục từ nghìn ®êi trãi buéc, l¹i thiÕu kiÕn thøc khoa häc, ng-êi dân nơi đây
lẩn quẩn trong đói nghèo, trong sợ hÃi và bất lực.
Làng Bàn Thạch trong quá khứ qua những trang viết của Từ Nguyên Tĩnh thật u
buồn. Đó cũng là sự u buồn của một thời. Bằng quan điểm đổi mới trong cách nhìn hiện
thực, tác giả đà cho ng-ời đọc tiếp cận với hiện thực mặt trái, hiện thực khuất lấp của
một thời. D-ới cái nhìn ấy, thực tiễn hiện ra với những cung bậc bi hài. Sự nghèo khổ, bị
áp bức dài lâu, lại thêm chiến tranh liên miên, ng-ời nông dân trong mỗi làng quê Việt
Nam phải gồng mình để chịu đựng và tồn tại. Có cái gì đó thật xa xót khi nhìn lại những
tháng năm ấy. Chân thực và sống động, Từ Nguyên Tĩnh đà cho ng-ời đọc cảm nhận hình
ảnh nông thôn xứ Thanh một thời qua cửa sổ làng tôi.
1.1.2. Làng tôi trong thời mở cửa
Năm 1986, chủ tr-ơng thực hiện đ-ờng lối đổi mới của Đảng đà đem đếm cho cả
n-ớc mét kh«ng khÝ phÊn khëi, håi hëi khiÕn x· héi thay đổi về mọi mặt, trong đó sự thay
18


đổi sâu sắc nhất là đổi mới về t- duy. Ng-ời Việt Nam nói chung và ng-ời Thanh Hoá nói
riêng dần dần thoát khỏi lối t- duy làng xà để đến với văn minh đô thị. Ng-ời dân làng

Bàn Thạch của tác giả cũng đà vượt qua được dòng sông định mệnh để v-ơn ra tự
khẳng định mình. Đây cũng là một trong những chủ đề chính trong truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh đ-ợc ông dành nhiều tâm huyết: Làng tôi ®· ®ỉi míi.
Nh­ trªn ®· nãi, sù thay ®ỉi lín nhất của làng tôi nói riêng, nông thôn Thanh
Hóa và më réng ra trong c¶ n-íc thêi ‚më cưa‛ chÝnh là đổi mới t- t-ởng, đổi mới t- duy.
Truyện Đứa bỏ làng cùng một lúc đà đặt ra hiện thực ấy. Chi tiết về cái chết của chú
Ngũ treo lơ lửng trên chiếc dây thừng. Chú như muốn bay lên trời mà không bay nổi
nh- là kết cục tất yếu của sự tăm tối, bế tắc. Trong số những kẻ lần mò tìm cách thay đổi
ấy chính là tôi, có sự ngấm ngầm đồng tình của dòng họ cả họ góp cho tôi gạo thóc, tế
lễ rồi cũng tốt nghiệp đại học. Có lẽ nhờ những năm tháng trong quân ngũ (có đến m-ời
năm rồi lại trở về làng) mà có thêm bản lĩnh và quyết tâm thay đổi chăng? Và tôi chính
là đứa bỏ làng sớm nhất Tôi theo vợ nhập c- vào nửa gian nhà của ủy ban kế hoạch. Ba
m-ơi cây số phải mất bốn chục năm mới rời đ-ợc làng đi đến cái thị xà lèo tèo, bề bộn.
Tôi bùi ngùi, muốn quên đi cái khổ truyền kiếp. Lác đác lại có đứa bỏ làng. Chiều nay,
tôi lại có khách. Thằng cháu họ. Sau một hồi tâm sự, nó khóc lên hu hu: Bác ạ, dù có
phải mang tiếng là đứa bỏ làng, cháu cũng ra đi thôi. Quyết định bỏ làng chính là
quyết định về t- t-ởng, là sự thay đổi t- t-ởng thâm căn cố đế, đà trở thành máu thịt, tâm
hồn, phong tục, lối sống của ng-ời nông dân nơi đây. Sự thay đổi ấy khó khăn và đau đớn
đến nỗi, vì nó ng-ời ta đánh đổi cả sinh mạng. Đến đây, khái niệm bỏ làng đồng nghĩa
với sự đổi thay, kẻ dám bỏ làng là kẻ dám thay đổi. Và trong số những kẻ dám bỏ làng
để học hành, để làm ăn xa ấy đà trở về để thay đổi quê h-ơng.
Truyện ngắn Đứa bỏ làng vừa thể hiện cái khó, vừa thể hiện tính tất yếu của công
cuộc đổi mới. Đối với ng-ời nông dân xứ Thanh, vùng đất cực khổ ®Õn nghiƯt ng·, nh-ng
h×nh nh-, chÝnh sù nghiƯt ng· ®ã sẽ là tiền đề thôi thúc sự đổi thay.
Sự đổi thay bắt đầu từ những cá nhân, nh-ng đổi thay có ý nghĩa nhất là sự đổi thay
của quê h-ơng, làng xÃ. Từ Nguyên Tĩnh thầm thán phục những cá nhân đà góp phần đổi
thay quê h-ơng. Cũng ngay trên chính làng quê của mình đà cho ông hình mẫu để ông
sáng tạo nên hình t-ợng con ng-ời không chỉ biết đổi mới t- duy mà còn mang t- duy
19



mới ấy làm thay đổi cuộc sống của bà con nơi đây: cô kỹ s- H-ơng Mơ. Cô gái ấy, ngay
từ những ngày đất n-ớc còn giặc giÃ, ngay khi những con ng-ời của làng Bàn Thạch còn
âm u trong lũy tre làng đà dám khuyên người yêu: Anh giỏi bắn súng nh-ng còn phải
biết cầm bút, sau này đất n-ớc cần có trí thức, không phải lúc nào cũng đi theo con trâu
và cái cày. Biết ng-ời yêu còn nặng nợ với làng quê, cô ngấm ngầm ghi tên cho anh đi
học, buộc anh phải đi học, phải vượt sông rời làng. Bản thân cô, sau khi tốt nghiệp kỹ
sư, cô trở về làng và băt đầu những ngày trả nghĩa cho quê hương và cũng là để thực
hiện ước mơ đổi mới quê hương của mình: Mơ mạnh dạn đưa giống mới vào ruộng đồng
quê nhà. Bao ngày trần l-ng với ruộng thí nghiệmKhông biết nàng nghe ai xui dại mà
muốn giao đất cho từng hộ quản lý. Nàng thuyết trình với Ban chủ nhiệm để từng hộ lo thì
công chăm bón đỡ đi rất nhiều. Họ có thể tranh thủ ra thăm ruộng mà không cần đến sự
đốc thúc của đội sản xuất. Sự đổi mới nào phải chả phải trả giá bằng mồ hôi và n-ớc
mắt. Cái bảo thủ, khi cần sẽ cấu kết với tiêu cực để chống lại cái mới. Con đ-ờng và -ớc
mơ đổi mới quê h-ơng của H-ơng Mơ cũng đầy chông gai. Khó khăn đến mức đôi lúc
t-ởng nh- phải đầu hàng, ngay đến ng-ời yêu của cô, đà từng trải qua binh nghiệp vì lo
lắng cho cô cũng phải lên tiếng can ngăn, bàn lùi, chấp nhận thỏa hiệp. Nh-ng Mơ thì
không, cô tin vào những điều mình làm, cô tin vào bà con, cô tin vào chân lý. Đám c-ới
của cô với chính ng-ời mà trước đây đà đổ toàn bộ lỗi lầm giống má của mấy vụ cấy
chui cấy lủi lên đầu Hương Mơ cho thấy niềm tin của cô thật trong sáng: Anh đừng nói
thếCái sai của sù Êu trÜ mét thêi…cã thÕ, b©y giê anh Êy mới th-ơng em gấp nghìn
lần[33; 47]. Đám c-ới của cô ồn ào trong sự đông vui, cởi mở. Dân làng thể hiện tình
cảm yêu quý, kính trọng và biết ơn cô kỹ s- đà mang sức sống mới cho làng. Cô trở thành
ng-ời anh hùng của làng quê trong sự ng-ỡng mộ, tự hào: Mới đây tôi về huyện nhà viết
báo. Viết về những ng-ời anh hùng của làng quê. Chủ tịch huyện niềm nở mới: - Anh Bùi
nên viết về ng-ời làm ruộng ở Bàn Thạch. Ai vậy? Chị H-ơng Mơ anh biết chứ ?.
Cuối truyện, ta biết thêm một nét đẹp nữa ở con ng-ời này: Mơ không đồng ý cho tôi
viết. Nàng nói, cái chuyện làm ruộng ai chả biết.
Nếu Nợ làng quê là câu chuyện về người anh hùng làm ruộng của làng Bàn
Thạch thì Thằng K-X lại là viết về người anh hùng V.A.C. Đến truyện ngắn này, sự

thay đổi của làng tôi đà rõ nét hơn. Quê tôi vốn là vùng tự do(...) chuyện học hành lại
20


ít ai nghĩ đến chỉ giỏi cày bừa cấy gặt. Vì vậy việc chú Bân có bằng cử nhân sử học,
lại được phân công về dạy ngay ở trường cấp III huyện nhà là một niềm vinh dự cho cả
họ tôi thậm chí cả hàng xà bởi người có học đỗ đạt ở quê tôi thật hiếm hoi. Tuy
nhiên bấy giờ, khó khăn là tình trạng chung của xà hội và ông giáo tr-ờng làng uyên thâm
đến đâu cũng không ngoại lệ. Gian nhà của trường giành cho chú tím thËt chËt hĐp.
Ngoµi gi-êng chiÕu tõ thêi chó thÝm lÊy nhau đóng bằng gỗ xoan ra, chẳng có gì đáng kể.
Chỉ có giá sách là đồ sộ. Cái tâm lí của ông giáo với một kho kiến thức như vậy luôn háo
hức đ-ợc truyền thụ cho những học trò nghèo quê h-ơng. Vừa dạy học vừa viết báo, chú
Bân rất có uy tín trong làng và đ-ợc bạn văn kính nể. Nh-ng cuộc sống khốn khó của
những năm bao cấp khiến chú khó chú tâm vào công việc dạy học. Tiền nhuận bút chỉ
một vài đồng bạc, còn thím phải nấu rượu rải cho các quán và nuôi lợn nái. Cái vất
vả của cuộc đời đà làm thím không còn bóng dáng của cô gái Hà Nội năm nào. Là
người có trình độ và niềm tin vững chắc ông giáo đi đến quyết định táo bạo sang năm
chú về hưu non. Không thể để cho thím và các em khổ mÃi được và dũng cảm bán một
cặp lợn tạ để mua ba-bet-ta làm nghề V.A.C. Chú tự đi lấy phân ở các cơ quan về chăm
cho cá của mình. Chú thường đi rất sớm và về khi chưa có người đi làm. Bằng sự cần cù
dám nghĩ, dám làm mà năm ấy trời thương đổ của cho nhà chú. Lợn nhiều lấy phân cho
cá ăn nên bán cá có bạc triệu [33; 413] gia đình chú thực sự đổi đời. Chú xây nhà hai
tầng ngay đầu phố huyện, thím thì béo ra, trẻ lại (...) Mái tóc uốn kiểu làn sóng càng
tôn thêm vẻ đẹp duyên dáng còn chú mang cặp kính trắng nom trí thức hơn thời kì chú
dạy học. Hai đứa con gái mặc minidíp, không cần thoa phấn mà vẫn hồng hào.... Đặc
biệt là trong nhà của chú điệu nhạc Lăm-ba-đa từ chiếc viđiô chảy tràn ra phố gợi nên
không khí cuộc sống văn minh, hiện đại. Mô hình kinh tế của chú đ-ợc các nhà báo muốn
đến lấy tài liệu để viết bài.
Có lẽ để có đ-ợc một quyết định táo bạo nh- vậy hẳn chú Bân phải trăn trở, suy
nghĩ nhiều lắm. Nghề giáo vốn coi trọng chữ nghĩa, đề cao danh dự, vì vậy từ một ông

giáo uyên thâm đến một thằng kà xia suốt ngày bận rộn tính toán là cả một b-ớc
chuyển quan trọng mang cả sự đau đớn, chua xót lẫn quyết tâm lớn lao. Dù xà hội vẫn
công việc của chú độc nhất vô nhị và thuộc loại hạ đẳng, dï ng­êi ta toµn gäi chó lµ
‚th»ng Kµ- xia‛ vµ ngay cả mẹ tôi- ng-ời chị dâu của chú khi nãi vỊ chó cịng ‚quay ®i
21


che dÊu nô c­êi‛ nh­ng trong con ng­êi Êy vÉn giữ một bản lĩnh vững vàng và niềm tin
sắt đá về con đ-ờng mình đà chọn.
Thực tế của cuộc sống đòi hỏi ng-ời ta phải lựa chọn, trăn trở, suy nghĩ thiết thực
hơn, đối đầu với thực tế để thoát ra khỏi định kiến xà hội để làm mới cuộc sống. Chú Bân
đà biết tận dụng những gì của quê h-ơng mình để làm giàu nhanh chóng và giúp đỡ nhiều
ng-ời có công ăn việc làm. Điều quan trọng không phải là làm việc gì mà cái chính là con
ng-ời biết lợi ích và ý nghĩa của công việc. Hình ảnh của chú Bân cũng là của nhiều
ng-ời dân Việt Nam thời bấy giờ. Đất n-ớc đà qua thời kì bao cấp mà b-ớc sang thời kì
kinh tế thị tr-ờng nh-ng vẫn còn khó khăn về mọi mặt. Chất l-ợng cuộc sống của nhân
dân đang còn thấp, cán bộ công chức ch-a thể dựa vào đồng l-ơng của mình để sống. Nhu
cầu sinh tồn buộc nhiều ng-ời phải đ-a ra những quyết định quan trọng nh- chú Bân để
giải phóng mình. Quan niệm làm ruộng theo làng dần dần mai một. Họ giám từ bỏ
những vỏ bọc cố hữu của mình để tự tin hơn, bản lĩnh hơn, tìm cho mình một chỗ đứng
trong xà hội. Họ giám thay đổi mình và sẵn sàng chịu trách nhiệm với những thay đổi đó.
Làm giàu cho mình cũng là làm giàu cho đất n-ớc thì những quyết định đó dù thế nào thì
vẫn là một quyết định đúng đắn.
Viết về mảng đề tài này, truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh không chỉ đi sâu vào sự tiến
bộ về lĩnh vực kinh tế ở làng tôi mà còn thấy được sự đổi mới trong chính cuộc sống
sinh hoạt hằng ngày ở, trong quan niệm về hạnh phúc. Mùa yêu đ-ơng là một truyện ngắn
nh- vậy.
Làng Bàn Thạch đà thực sự thay đổi với nếp sống mới. Xưa kia người dân vốn đi
ngủ kịp cùng gà vịt nhưng nay điện đà về làng thì hôm nào có bóng đá quốc tế là tụ tập
ngồi xem thấu sáng rồi ra đồng luôn. Người nông thôn giờ đây không chỉ lo cơm ăn áo

mặc mà đà biết chú ý đến nâng cao đời sống tinh thần. Cái vất vả của nhà nông không còn
là gánh nặng số mệnh mà đà có cách nhìn lạc quan hơn dễ dàng chấp nhận mất mát, lo
âu, thanh thản của mùa cấy cày, coi niềm vui và mệt mỏi của đời ng-ời nông dân là
một phần của cuộc sống. Cái mới ở làng Bàn Thạch còn thể hiện ngay trong việc c-ới xin
của người dân. Đám cưới giờ đây được phục vụ bởi mấy gà dịch vụ đám cưới với tiếng
loa đài rộn ràng vui vẻ. Cái bầu không khí vốn thanh bình, yên tĩnh của làng quê nay đÃ
nhộn lên bởi những giai điệu sôi nổi, hiện đại của cuộc sèng míi. ChØ cã nh÷ng con ng-êi
22


yêu quê, có tâm hồn nhạy cảm nh- Từ Nguyên Tĩnh mới lắng nghe đ-ợc âm thanh diệu kì
của cuộc sống nơi đây.
Đặc biệt làm chủ làng xà bây giờ không còn là những con ng-ời nh- ông Thầu, chú
Ngữ nữa mà là một thế hệ mới với cách sống và t- duy hết sức mới mẻ - anh chàng Thốn.
Thốn vốn là anh chàng sinh ra và lớn lên ở làng Bàn Thạch nh-ng đà có cơ hội để đi ra
trong mấy năm thực hiện chính sách nghĩa vụ. Rời quân ngũ anh lại trở về làng quê làm
một ng-ời nông dân với bao điều mới mẻ. Có thể nói, Thốn là mẫu ng-ời nông dân mới ở
làng quê: tự tin, cởi mở, nồng nhiệt và cả pha chút ngang tàng. Chàng nông dân Thốn tự
tin tr-ớc hết ở quyết định không c-ới vợ trong làng mà ở rất xa, xa lắc xa lơ, mÃi tận trong
Nam, mà cưới một cách nhẹ nhàng đành cưới thôi, người ta giàu cưới xin linh đình, còn
mình nghèo cưới xin cũng cỗ bàn. Mặt khác người xưa vốn quan niệm trâu ta ăn cỏ
đồng ta khi chọn vợ thì chàng nông dân đặc sệt ấy lại mò vào tận Quảng Nam r-ớc ng-ời
đẹp về làm vợ. Thốn nói với người chú ruột cháu hồn nhiên chơi chơi lại vớ được con vợ
như tiên. Đấy là một sự dũng cảm, liều lĩnh và cũng là cách Thốn đang cố gắng cởi trói,
phá bỏ những trật tự quan niệm cũ.
Quyết định của Thốn khiến người chú phăi băn khoăn chết thiệt con gái nhà ai
đẹp mà lại lấy cháu tôi. Làm sao dám chui đầu vào cảnh thiếu thốn này (...) rồi ra ai cày
cuốc mà nuôi vợ ngồi soi gương chải tóc. Thốn lí sự lại Chú ơi, cháu mài cái đẹp ra ăn
đấy, chú cứ nghĩ quẩn, vợ cháu làm gì chả đ-ợc, bộ nhà mình quanh đi quẩn lại chỉ toàn
bộ mặt khảo cổ thôi làm sao chịu nổi [33; 375]. Quan niệm vợ chồng trong t- duy của

Thốn không còn là hình ảnh chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa, người vợ bây giờ không
cần đầu tắt mặt tối, lam lũ b-ơn chải nh- thân cò nơi đồng ruộng mà có thể ở nhà để
chăm lo gia đình. Đó mới chính là thiên chức lớn nhất của ng-ời phụ nữ. Ng-ời chồng
hiện đại là ng-ời có những suy nghĩ bình đẳng, dân chủ hơn với vợ và một ng-ời đà từng
đi ra, lại có lối suy nghĩ linh động nh- Thốn chắc chắn sẽ là ng-ời biết tìm ra cách làm
giàu để nuôi vợ con. Với Thốn cày ruộng để cho vợ soi g-ơng chải tóc cũng là một hạnh
phúc. Thốn sẽ là một trong những ng-ời tiên phong trong việc xây dựng một gia đình kiểu
mới.
Mặt khác, qua chi tiÕt Êy ®· thĨ hiƯn mét quan niƯm mới mẻ của ng-ời nông dân về
cái đẹp. Giờ đây họ đà biết chú ý đến cái đẹp hình thức của vợ, thay vào cái vẻ khoẻ
23


mạnh, cục mịch, chắc lẳn của các cô thôn nữ x-a kia thì cái đẹp bây giờ phải mảnh mai,
mềm mại thậm chí có thể hơi tiểu thư khuê các, người chồng bây giờ đà biết làm tất cả
để giữ gìn cái đẹp ấy.
Đổi mới về t- duy còn thể hiện ngay trong ngôn ngữ của Thốn. Trong lời nói của
Thốn không còn cái rụt rè nhút nhát thuần tuý của ng-ời dân chân lấm tay bùn, Thốn đối
đáp với chú của mình rất hồn nhiên, bỗ bÃ, cà chớn Chú mới lạc hậu làm sao...đời sống
mới có nghĩa là mời các cụ mặc áo l-ơng, các cô bận áo dài đến động viên họ hút thuốc
lào và ngồi nhìn mình mà đánh chẩu hả chú!, Cũng phải có gì cho các cụ nhắm chứ,
chú bảo từ khi đẻ ra mình các cụ đà ngồi chờ rồi mà! [29;366] . Cũng có lúc ngôn ngữ
của Thốn lại lếu láo, ngạo nghễ: ...chú biết không nhà gái ở tận miền Nam chứ
không thì bỏ mẹ hay Em thấy không, thằng Cui lừa lúc nhà mình có việc chuồn đi theo
gái...rõ thật là....
Rồi từ trong cách nói chuyện với Diệu Linh- vợ sắp c-ới của mình Thốn rất tự
nhiên, lém lỉnh Em đà thấy tình yêu của gà thợ cày chưa!, Anh gặp em cái dạo đi lính
ở trong đó là biết mình sẽ lấy em làm vợ mà!. Anh chàng nông dân ấy cũng âu yếm vợ
mình một cách sắc bẻm: Diệu Linh nàng ơi!, Đừng cưng.v.v. Đó là ngôn ngữ của
một anh chàng nông dân vừa mới đi ra mang chút bụi bặm, mới mẻ của thành thị

nh-ng vẫn ch-a thoát khỏi chất mộc mạc, chân chất thôn quê. Ngôn ngữ của Thốn bớt
r-ờm rà mà ngắn gọn tự nhiên, khách quan hơn, phù hợp với nhịp sống mới chứ không
phải là sự pha trộn từ ngữ n-ớc ngoài tạo ra một giọng điệu lai căng, kệch cỡm.
Tuy nhiên trong những cái mới ở làng quê ấy còn có những cái tiêu cực, cái tiêu
cực thể hiện ở dấu hiệu học đòi, hÃnh tiến; ở lối sống h-ởng thụ, ăn chơi đàng điếm. Đó là
những tay bợm đánh tiết canh lòng lợn nhìn đà tưng bừng no nê, đó là lối ăn mặc không
còn hương đồng gió nội của hai cô con gái chú Bân với chiếc minidíp cũn cỡn và
cách nhảy Lăm-ba-đa của những anh chàng nông dân - dấu hiệu manh nha của những
trò Karaôke trá hình (Thằng K-X). Đặc biệt cái tiêu cực rõ nét nhất làng tôi là có nguy
cơ bị bỏ không bởi sự mưu sinh làm giàu của con người. Làng đà có tới hàng trăm đứa
bỏ làng ra đi, trút lại cái đói, cái khổ cho người già. Văn Từ Nguyên Tĩnh rõ ràng có
tính dự báo nhiều hơn là miêu tả.
24


Như vậy, qua những trang văn của Từ Nguyên Tĩnh, qua hình ảnh Làng tôi,
ng-ời đọc đà thấy đ-ợc sự am hiểu và tình yêu của ông đối với làng quê xứ Thanh. ở làng
quê ấy mọi cung bậc tình cảm, mọi số phận con ng-ời vui và buồn, may mắn và bất hạnh
đều châu tuần về đây tạo nên một nông thôn xứ Thanh thu nhỏ với đầy sự ngổn ngang,
bộn bề, phức tạp. Độc giả cũng nhận ra làng Bàn Thạch nói riêng hay xứ Thanh nói chung
đang có những b-ớc chuyển mình, làng quê thuần nông ấy đà và đang du nhập những ảnh
h-ởng của văn minh đô thị hay có, dở có. Sự chuyển mình lột xác tuy còn có những vật
vÃ, đau đớn song đó là hệ quả tất yếu của lịch sử. Đó chính là xu thế chung của dân tộc,
thời đại.
1.2. Một xứ Thanh kiên c-ờng, bất khuất qua hình ảnh Hàm Rồng
Những năm tháng mảnh đất Xứ Thanh trở thành mục tiêu hủy diệt nằm cắt đứt con
đ-ờng giao thông huyết mạch tiÕp viƯn cho chiÕn tr-êng miỊn Nam cđa ®Õ qc Mỹ cũng
là những năm tháng Từ Nguyên Tĩnh trở thành lính pháo thủ Hàm Rồng. Đó là nguyên
nhân có một xứ Thanh kiên c-ờng, bất khuất qua hình ảnh không gian Hàm Rồng.
Bị thất bại ở chiến tr-ờng miền Nam Việt Nam, cuối năm 1964 đầu năm 1965 đế

quốc Mỹ vạch kế hoạch ném bom miềm Bắc nhằm cắt đứt sự chi viện vào miền Nam. Là
tỉnh trọng điểm về kinh tÕ cđa khu vùc b¾c miỊn Trung víi nhiỊu khu công nghiệp, dân số
của tỉnh lại đông thứ hai cả n-ớc nên Thanh Hóa là nơi cung cấp nhiều sức ng-ời, sức của
cho cuộc kháng chiến. Mặt khác Thanh Hoá còn nằm trên con đ-ờng huyết mạch Bắc
Nam, là n¬i trung chun, tiÕp viƯn cho chiÕn tr-êng víi nhiỊu cầu giao thông lớn nhcầu Lèn, cầu Tào, cầu Hàm Rồng và cầu Ghép. Phá đ-ợc một trong những chiếc cầu lớn
ấy coi nh- cắt đứt tuyến đ-ờng chi viện cho miền Nam, đè bẹp đ-ợc tinh thần, ý chí chiến
đấu của quân dân miền Bắc xà hội chủ nghĩa. Chính vì vậy tỉnh Thanh Hoá đà nằm trong
tầm ngắm của máy bay Mỹ và đà chịu sự tàn phá nặng nề của bom đạn.
Tr-ớc khi trở thành nhà văn, Từ Nguyên Tĩnh là chàng pháo thủ thực thụ, tham gia
chiến đấu bảo vệ cây cầu Hàm Rồng huyền thoại. Bắt đầu là những mẩu tin, những bài
phóng sự rồi đến truyện ngắn... Chùm truyện ngắn viết về Hàm Rồng, về xứ Thanh trong
những năm tháng đánh Mỹ của Từ Nguyên Tĩnh giống nh- những phóng sự tái hiện hình
ảnh một Hàm Rồng trọng điểm huỷ diệt và một Hàm Rồng hiên ngang bất khuất.
1.2.1. Hình ảnh Hàm Rồng, trọng ®iĨm hđy diƯt cđa §Õ qc Mü
25


×